Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện đông giang, tỉnh quản...

Tài liệu Luận văn thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện đông giang, tỉnh quảng nam

.PDF
83
92
92

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THIÊN PHONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THIÊN PHONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 838.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN LINH GIANG HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thiên Phong MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH ........................ 7 1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 7 1.2. Thực hiện pháp luật về hộ tịch ................................................................. 24 1.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về hộ tịch ................... 36 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM ............................................................................................................... 40 2.1. Các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến công tác hộ tịch tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam ........................................................................ 40 2.2. Công tác hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam ....... 41 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG GIANG, TỈNH QUẢNG NAM .................................................................... 57 3.1. Ủy ban nhân dân huyện, ủy ban nhân dân xã phải quan tâm hơn đến công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch ........................................................... 57 3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch để nâng cao ý thức và thay đổi nhận thức của người dân ........................ 57 3.3. Xây dựng chức danh Hộ tịch viên............................................................ 60 3.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử .................................................... 61 3.5. Bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất cho công tác hộ tịch ................................................................................................................... 64 3.6. Xây dựng và nâng cao chất lượng công chức hộ tịch .............................. 65 3.7. Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động đăng ký hộ tịch ................................................................................................ 67 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1. 2.2. Bảng theo dõi tình hình biến động dân số huyện Đông Giang Thực trạng đăng ký hộ tịch tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2017 đến năm 2019 Trang 40 42 Thực trạng công chức và cơ sở vật chất phục vụ công 2.3. tác hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam 48 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác nhận tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra đến khi chết. Quản lý nhà nước về hộ tịch có vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý dân cư và của nền hành chính mà mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển, đều phải chú trọng, quan tâm. Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và quyền nhân thân của con người được xác qua các sự kiện về hộ tịch như: quyền thay đổi họ tên; xác định lại dân tộc; khai sinh, khai tử; kết hôn; ly hôn; nhận, không nhận cha, mẹ, con; quốc tịch… Thực hiện pháp luật về hộ tịch không chỉ liên quan đến nhân thân của con người mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Thực hiện pháp luật về hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để nhà nước công nhận và bảo hộ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Bên cạnh đó, quản lý hộ tịch còn góp phần quản lý dân cư một cách khoa học, phục vụ việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, việc dịch chuyển dân cư trong nước và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con người, quyền công dân đòi hỏi được ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức cao hơn. Để tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác thực 1 hiện pháp luật về hộ tịch, đặc biệt là việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều quy định mới đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; đồng thời, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch theo hướng từng bước chuyên nghiệp, phù hợp với từng bước phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, do đó, việc thực hiện pháp luật về hộ tịch cần phải được coi trọng và quản lý chặt chẽ, thống nhất. Ở nước ta hiện nay, pháp luật về hộ tịch được thực hiện theo Luật Hộ tịch năm 2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chương, 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Luật Hộ tịch ra đời đánh dấu bước đầu tiên nhà nước ta ban hành văn bản Luật điều chỉnh riêng lĩnh vực này sau hơn 60 năm thực hiện bằng các nghị định của Chính phủ và thông tư của các Bộ. Đây là bước hoàn thiện khá cơ bản về thể chế đăng ký và quản lý hộ tịch của Việt Nam với nhiều quy định mới, mang tính đột phá, toàn diện. Bên cạnh những điểm mới của Luật Hộ tịch, vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập về thể chế gây khó khăn, trở ngại cho cơ quan hộ tịch khi triển khai thực hiện, người dân khó phân biệt việc hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào. Huyện Đông Giang là một huyện miền núi cao thuộc tỉnh Quảng Nam, với dân số 25.576 người, trong đó, dân tộc Cơ Tu chiếm đa số với 19.548 người, chiếm 76,43%; dân tộc Kinh 5.842, chiếm 22,84%; các dân tộc khác (Thái, Tày, Nùng...) có 186 người, chiếm tỷ lệ 0,73%. Huyện Đông Giang vẫn là một huyện gặp nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của tỉnh. Đây là địa bàn tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc Cơ tu, kết cấu hạ tầng còn thiếu, chưa đồng bộ, kinh tế xã hội còn kém phát triển. Đặc biệt, nhận thức của người dân nơi đây còn chưa cao, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác hộ tịch còn thiếu và yếu, việc ứng dụng công nghệ thông tin còn gặp nhiều khó khăn, chưa đồng bộ. Do đó, công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch là một trong 2 những vấn đề cần được hoàn thiện, nâng cao, góp phần vào việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội của huyện. Vì vậy, nghiên cứu công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch nói chung cũng như thực tế tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận, thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch; đưa ra những ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam là việc cần thiết hiện nay. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tính đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hộ tịch của các cá nhân, tập thể được công bố như: Phạm Trọng Cường, Về quản lý hộ tịch, NXB Chính trị quốc gia, 2004; Bộ Tư pháp, Quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB Chính trị quốc gia, 2006; Nguyễn Quốc Cường, Lương Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng…, Hướng dẫn đăng ký và quản lý hộ tịch, NXB Tư pháp, 2006; Bộ Tư pháp, Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, NXB Tư pháp, 2007; Phạm Hồng Hoàn, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng, Luận văn thạc sĩ hành chính công, 2011; Phạm Trọng Cường, Quản lý nhà nước về hộ tịch - Lý luận, thực trạng và phướng hướng đổi mới, Luận văn thạc sĩ luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; Bùi Thị Tư: Quản lý hộ tịch - Qua thực tiễn ở Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Nguyễn Hữu Đính: Công tác tư pháp - hộ tịch ở cấp xã: những vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật, Đại học Quốc 3 gia Hà Nội, 2008; Có thể nói, các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân tích những vấn đề liên quan đến công tác đăng ký, quản lý hộ tịch từ lý luận đến thực tiễn và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về hộ tịch từ thực tiễn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật về hộ tịch nói chung và trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch, phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam và từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn năm 2017-2019 để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về công tác hộ tịch trên địa bàn huyện. - Đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực hộ tịch đặc biệt là Luật hộ tịch 2014 và thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hộ trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam từ năm 2017 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: - Phương pháp trực tiếp: quan sát, phỏng vấn; - Phương pháp gián tiếp: phân tích và tổng hợp số liệu, thống kê, so sánh, quy nạp, diễn dịch, nghiên cứu tài liệu, tư liệu tham khảo, nguồn tin từ mạng Internet, … 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hộ tịch và thực hiện pháp luật hộ tịch, phân tích chỉ ra những yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội tác động tới quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, nên 5 ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong thực tế thực hiện pháp luật về hộ tịch ở huyện Đông Giang, tỉnh Quang Nam trong những năm tới. Đồng thời, luận văn cũng là nguồn tư liệu tham khảo cho những người nghiên cứu các đề tài liên quan đến pháp luật về hộ tịch. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hộ tịch và thực hiện pháp luật về hộ tịch. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ TỊCH 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm hộ tịch Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đây được coi là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Công tác quản lý hộ tịch là một tổng thể của nhiều công việc như tuyên truyền giáo dục pháp luật về hộ tịch, tổ chức đăng ký hộ tịch, báo cáo thống kê tăng, giảm dân số, kiểm tra, xử lý vi phạm về đăng ký hộ tịch. Các công việc nêu trên phải được tiến hành thường xuyên tại cơ sở nhằm đảm bảo kịp thời, chính xác, đồng thời phải thuận tiện, tránh gây phiền hà cho dân. Từ trước đến nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau về “Hộ tịch”. Các tác giả khác nhau đã giải nghĩa từ “hộ tịch” như sau: Tác giả Nguyễn Văn Khôn đã nêu khái niệm “hộ tịch” trong cuốn Hán Việt từ điển xuất bản năm 1960 như sau: “Hộ tịch: sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [31, tr.404]. Hay tác giả Nguyễn Lân cũng trình bày giải nghĩa từ “hộ tịch” trong cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt xuất bản năm 1989: “Hộ tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong một địa phương” [33, tr.321]. Trong cuốn Giản yếu Hán - Việt từ điển xuất bản năm 1992, tác giả Đào Duy Anh trình bày cách hiểu của mình đối với từ ghép “hộ tịch” là: “Hộ 7 tịch: quyển sổ của Chính Phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người” [1, tr.384]. Hoặc là trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ nguyên xuất bản năm 1999 của tác giả Bửu Kế, “hộ tịch” được hiểu là “Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã phường” [30, tr.814]. Có thể nhận thấy cách giải nghĩa từ “hộ tịch” của các tác giả tuy rằng khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều giải nghĩa “hộ tịch” có nét khá tương đồng: “hộ tịch” là quyển số chứa đựng các thông tin cơ bản của cá nhân như họ, tên, nghề nghiệp, quê quán. Bên cạnh đó, một số từ điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” theo một cách khác, chẳng hạn như: Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên xuất bản năm 1998, từ ghép “hộ tịch” được giải nghĩa là: “Hộ tịch: sổ của cơ quan dân chính đăng kí cư dân trong địa phướng mình theo từng hộ” [37, tr.442] Một cách hiểu khác về “hộ tịch” được tác giả Nguyễn Như Ý trình bày trong cuốn Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1998 đó là: “Hộ tịch: các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật” [54, tr.835]. Hay trong cuốn Từ điển tường giải và liên tưởng Tiếng Việt do Nhà xuất bản văn hóa thông tin xuất bản năm 1999, tác giả Nguyễn Văn Đạm giải nghĩa “hộ tịch” khác hoàn toàn so với các cách giải nghĩa trên: “Hộ tịch là quyền cư trú, được chính quyền công nhận của một người tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng một hộ, do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” [24, tr.385]. Nhìn chung, các tác giả tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về hộ tịch nhưng tựu chung lại đều chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng của hộ tịch, 8 đó là: Thứ nhất, hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người; Thứ hai, các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đó là: khai sinh, hôn nhân và khai tử; Thứ ba, chứng thư hộ tịch là loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân. “Hộ tịch” là một khái niệm đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý tiếng Việt. Khái niệm này hoàn toàn không dễ dàng định nghĩa một cách rõ ràng, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó cũng không thuận tiện khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tế, đã có những cuộc hội thảo trong giới chuyên môn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, qua quá trình lịch sử, khái niệm này đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân. Do đó, các nhà xây dựng pháp luật đã dung hòa bằng việc sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản. Theo đó, tại Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/1998 về việc đăng ký hộ tịch thì: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Trước khi có Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, Bộ luật dân sự 1995 có riêng một mục quy định về hộ tịch. Bộ luật dân sự 1995 không đưa ra khái niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa về đăng ký hộ tịch tại điều 54 như sau: Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 9 Việc đăng ký hộ tịch là quyền, nghĩa vụ của mỗi người. Việc đăng ký hộ tịch được thực hiện theo trình tự và thủ tục do pháp luật về hộ tịch quy định. Nghị định 158/2005/NĐ-CP tiếp tục sử dụng khái niệm “hộ tịch” đã được định nghĩa trong Nghị định 83/1998/NĐ-CP: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Nghị định 158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” như sau: Đăng ký hộ tịch theo quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền: a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc; b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi. Theo quy định tại Điều 1 Luật hộ tịch 2014 quy định khái niệm về hộ tịch giống như nghị định số 158/2005/NĐ-CP tuy nhiên có xác định rõ các sự kiện: “Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết”. Theo đó, Điều 3 của Luật hộ tịch quy định những sự kiện hộ tịch: 1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: a) Khai sinh; b) Kết hôn; c) Giám hộ; d) Nhận cha, mẹ, con; 10 đ) Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; e) Khai tử. 2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: a) Thay đổi quốc tịch; b) Xác định cha, mẹ, con; c) Xác định lại giới tính; d) Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; đ) Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; e) Công nhận giám hộ; g) Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. 3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. 4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. Điểm mới của Luật hộ tịch là không quy định khái niệm về giấy tờ hộ tịch. Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn. Đối với các sự kiện hộ tịch khác, sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký sẽ được cấp Trích lục hộ tịch tương ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch sẽ được chứng thực bản sao. Giấy khai sinh là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân khi được đăng ký khai sinh; nội dung Giấy khai sinh bao gồm các thông tin cơ bản về cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật hộ tịch. 11 Giấy chứng nhận kết hôn là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp khi đăng ký kết hôn; nội dung Giấy chứng nhận kết hôn bao gồm các thông tin cơ bản quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật hộ tịch. Như vậy, trong khuôn khổ của nghiên cứu tại luận văn này, hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử. 1.1.2. Pháp luật về hộ tịch 1.1.2.1. Khái niệm và khái quát sự hình thành, phát triển của pháp luật về hộ tịch ở nước ta Pháp luật về hộ tịch là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và góp phần trong công tác quản lý dân cư của nhà nước. Ở nước ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch đã có lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ phong kiến, thực dân, bên cạnh vấn đề quản lý đất đai thì vấn đề quản lý hộ tịch - con người là vấn đề trọng yếu, luôn được nhà nước quan tâm quản lý, thực hiện. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xác định được tầm quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhà nước ta tiếp tục duy trì và ban hành văn bản quy phạṃ pháp luật để điều chỉnh. Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó, đến Bản Điều lệ hộ tịch năm 1956 ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg ngày 08/5/1956 của Chính phủ. Bản điều lệ này quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký về các vấn đề sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy. Các quy định của bản Điều lệ đăng ký hộ tịch này thay thế toàn bộ các thể lệ đăng 12 ký hộ tịch áp dụng trước đó. Việc quản lý hộ tịch trong giai đoạn này do Bộ Nội vụ và Ủy ban hành chính các cấp thực hiện. Đến năm 1961, Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch được ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961. Bản điều lệ đăng ký hộ tịch năm 1961 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/1961 và có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch ra đời. Đến năm 1987, sau khi Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng có hiệu lực thì công tác đăng ký hộ tịch được chuyển giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp. Ngày 27/12/2005, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch. Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 83/1998/NĐ-CP sau 7 năm có hiệu lực. So với Nghị định 83/1998/NĐ-CP thì Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã tháo gỡ những vướng mắc trên thực tế mà Nghị định 83/1998/NĐ-CP chưa giải quyết được đó là: đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian giải quyết công việc phù hợp với tinh thần cải cách hành chính, thuận tiện cho người dân. Nghị định 158/2005/NĐ-CP có nhiều điểm mới, đặc biệt việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch trước đó thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp trên. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự (năm 1995, 2005), Luật Hôn nhân và gia đình (năm 1986, 2000, 2014) và các luật liên quan khác, đến trước năm 2015, Chính phủ đã ban hành 6 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, cả việc hộ tịch trong nước và việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài gồm: Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình 13 đối với các dân tộc thiểu số; Nghị định số 68/2002/NĐ- CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Ngày 20/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7 Chương 77 Điều và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Có thể nói, đây là lần đầu tiên nhà nước ban hành văn bản Luật quy định riêng về lĩnh vực đăng ký, quản lý hộ tịch sau hơn 60 năm thực hiện bằng các văn bản dưới luật do Chính phủ ban hành. Luật Hộ tịch có nhiều quy định mới, mang tính cách mạng về các nội dung như: thẩm quyền đăng ký hộ tịch, phương thức đăng ký, quản lý hộ tịch, cải cách thủ tục hành chính... Trong đó, Luật quy định cụ thể về vai trò của Uỷ ban nhân dân các cấp, Sở Tư pháp cấp tỉnh trong hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực đăng ký hộ tịch. Như vậy, pháp luật về hộ tịch là những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa nhà nước với công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực hộ tịch. 1.1.2.2. Quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật về hộ tịch Hiện nay, trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, Luật hộ tịch và các nghị định, thông tư…) và các tài liệu sách báo pháp lý, thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch” được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, tùy từng trường hợp, nội 14 hàm của nó được xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp có sự khác nhau cơ bản. Theo những cách hiểu khác nhau đó việc xác định các quy phạm pháp luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự khác nhau. Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hộ tịch, theo đó nguồn chủ đạo của pháp luật về hộ tịch bao gồm Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Luật nuôi con nuôi năm 2010, các văn bản về đăng ký và quản lý hộ tịch: Luật hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Cũng trong cách hiểu này các quan hệ pháp luật về hộ tịch được phân thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất dân sự và nhóm quan hệ về quản lý. Hai nhóm quy phạm này có mối quan hệ hết sức mật thiết, trong đó nhóm quy phạm về hộ tịch do luật dân sự điều chỉnh luôn đóng vai trò là tiền đề để xây dựng các quy phạm hành chính về hộ tịch. Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch. Mặc dù hai quan niệm trên có sự khác nhau cơ bản nhưng cần thấy rằng chúng không mâu thuẫn và loại trừ nhau. a) Quy phạm pháp luật về hộ tịch Là một dạng cụ thể của quy phạm hành chính, quy phạm pháp luật về hộ tịch được hiểu là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch. Các quy phạm 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan