Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn...

Tài liệu Luận văn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tại thành phố hà nội

.PDF
76
172
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THÚY HẰNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THÚY HẰNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hiến pháp và luật Hành chính Mã Số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN MINH MẪN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân em. Các số liệu, thông tin nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Em xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Tác giả luận văn Trần Thúy Hằng LỜI CẢM ƠN Bản luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Minh Mẫn, sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô và các cán bộ, viên chức thuộc các phòng, ban chức năng tại Học viện Khoa học xã hội. Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng nhận được sự cổ vũ, động viên, tạo điều kiện về mọi mặt của cơ quan, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè. Tác giả xin chân thành cảm ơn thầy hướng dẫn khoa học, các thầy cô tại Học viện Khoa học xã hội, Ban lãnh đạo cơ quan, gia đình và bạn bè về sự giúp đỡ quý báu đó. Trân trọng! Tác giả Trần Thúy Hằng DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GD & ĐT Giáo dục và đào tạo HĐND Hội đồng nhân dân THPT Trung học phổ thông THPL Thực hiện pháp luật TDVCGD Tuyển dụng viên chức ngành giáo dục UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC....................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ............................................................ 7 1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ................................................................... 14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ................................................................... 24 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHAP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIEN CHỨC NGANH GIAO DỤC TẠI THANH PHỐ HA NỘI.......................................................................................... 29 2.1. Khái quát về hệ thống viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội ................................................................................................ 29 2.2. Cơ sở pháp lý của tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội ............................................................................... 34 2.3. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức giáo dục tại thành phố Hà Nội .......................... 37 CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......... 52 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.................... 52 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội.................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Tầm quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo đã được Đảng nhiều lần nêu ra trong các văn kiện. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục nhấn mạnh: “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba đột phá chiến lược và khẳng định trọng tâm “ Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đờisống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ, năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Như vậy, có thể thấy con người là nhân tố quyết định cho sự thành công của mọi hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Với sứ mệnh trồng người, ngành giáo dục đang từng ngày khẳng định tầm quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của đất nước, trong đó không thể không nói đến vai trò của các viên chức giáo dục. Với truyền thống “ Tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam, người giáo viên luôn được coi là hình tượng mẫu mực, là người dạy học trò tri thức và nhân cách. Đó là trách nhiệm cao quý mà mỗi người làm nghề giáo dục phải gánh vác, vì mỗi hành động của họ dù nhỏ đến đâu đều có ảnh hưởng nhất định đến sự nghiệp trồng người. Việc lựa chọn đội ngũ viên chức có năng lực tốt, phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm và nhu cầu của xã hội là một tiền đề quan trọng để phát triển nền giáo dục đào tạo, trở thành một yếu tố rất quan trọng, thiết yếu trong việc phát triển của một đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của viên chức ngành giáo dục, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm tạo điều kiện cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước, trong đó có thể chế về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. Đặc biệt, công tác thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục được đẩy mạnh 1 nhằm đưa các quy định pháp luật vào đời sống, hiện thực hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Tuyển dụng viên chức là một trong các nội dung rất quan trọng trong công tác quản lý viên chức. Thông qua công tác tuyển dụng viên chức, để nhằm bổ sung cho đơn vị sự nghiệp công lập có đủ số lượng, cơ cấu người làm việc theo vị trí việc làm, đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn từng chức danh nghề nghiệp viên chức tương ứng, góp phần xây dựng đội ngũ viên chức có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu vực cung ứng dịch vụ công. Hà Nội là thủ đô của đất nước, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Trong những năm qua, ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội có những bước chuyển mình mạnh mẽ với một đội ngũ viên chức đông, có năng lực chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp, được tuyển dụng thông qua một quy trình chặt chẽ, dựa trên các căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, quá trình thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân từ chính sự bất cập của pháp luật, có những nguyên nhân nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật liên quan đến nhận thức, bộ máy,công tác tổ chức thực hiện, cơ sở vật chất, trình độ dân trí…Trên phương diện lý luận, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục cũng còn nhiều điểm lúng túng, chưa rõ. Trong bối cảnh đó, rất cần triển khai các công trình nghiên cứu chuyên sâu theo hướng phân tích làm sáng tỏ các khía cạnh lý luận và tập trung tổng kết, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. 2 Hướng nghiên cứu nói trên cũng mang ý nghĩa khắc phục khoảng trống trong hoạt động nghiên cứu về chủ đề thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Đó chính là những lý do thôi thúc học viện lựa chọn chủ đề “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội” để triển khai nghiên cứu trong quy mô luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến chủ đề “Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội”,các nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian gần đây được triển khai trên hai phương diện chính: Thứ nhất, các nghiên cứu về thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực cụ thể. Theo hướng này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam (sách tham khảo), Nguyễn Minh Đoan (2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “ Thực hiện pháp luật về giáo dục của các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Nam Định” (Vũ Thị Thu Huyền, (2010), Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); "Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo ở Việt Nam”( Vũ Thị Hoàng Hà, (2010), Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh);“ Thực hiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết ly hôn ở thành phố Hà Nội ” (Vũ Viết Văn, (2012), Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh); … Thứ hai, các nghiên cứu về viên chức, tuyển dụng viên chức. Theo hướng này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu điển hình sau: “Quản lí và phát triển nguồn nhân lực xã hội”(, GS.TS Bùi Văn Nhơn (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội); “Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức” (Phạm Hồng Thái,Tạp chí Tổ chức Nhà nước Số 1/2009); “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/2012/NĐ-CP của Chính 3 phủ”(Lê Minh Hương, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/ 2012); “Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện nay”(Nguyễn Trọng Nhật Minh,(2011), Luận văn Thạc sĩ); “Pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp” (Nguyễn Minh Nguyệt (2016), Luận văn Thạc sĩ);…. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là một nguồn tư liệu vật chất rất quan trọng để tác giả học hỏi, tham khảo nhằm triển khai nghiên cứu đề tài đã được lựa chọn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên mới chủ yếu đề cập viên chức và pháp luật về tuyển dụng viên chức nói chung. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. Càng chưa có công trình nào nghiên cứu tập trung về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích tổng quát xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức ngành giáo dục ở Việt Nam. - Nghiên cứu tình hình tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội, đi sâu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và xác định nguyên nhân của các ưu điểm, hạn chế trong thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội. 4 - Đề xuất quan điểm, giải pháp có tính khả thi nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quan điểm khoa học về viên chức, pháp luật tuyển dụng viên chức và thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. - Các quy định pháp luật hiện hành về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. - Thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội. - Kinh nghiệm của Hà Nội và một số địa phương trong thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: toàn bộ hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. - Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay (tập trung trong giai đoạn 5 năm trở lại đây). - Phạm vi không gian: địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, duy vật lịch sử, sử dụng chủ yếu phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá chính sách, phương pháp thu thập, tập hợp, phân tích, nghiên cứu, xử lý tài liệu;.... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ở nước ta hiện nay. 5 Luận văn góp phần đánh giá pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục kể từ khi Luật Viên chức năm 2010 có hiệu lực thi hành. Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần nâng cao nhận thức, cung cấp thêm cơ sở lý luận và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người làm công tác nghiên cứu, công tác giảng dạy, cũng như làm công tác tổ chức, tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật tuyển dụng viên chức ngành giáo dục Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục tại thành phố Hà Nội Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TUYỂN DỤNG VIÊN CHỨC NGÀNH GIÁO DỤC 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục 1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục 1.1.1.1. Viên chức và viên chức ngành giáo dục Từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm viên chức. Viên chức vốn là một từ Hán - Việt, theo đó, viên là người giữ một chức vụ, chức là các việc về phần mình, viên chức là người giữ một chức nghiệp nhất định, thường là trong bộ máy chính quyền. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ khác nhau, nội hàm của khái niệm viên chức cũng có sự thay đổi lớn. Suốt một thời gian dài, khái niệm “cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước” được dùng để chỉ những người phục vụ trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, nhà nước và một số tổ chức khác. Chỉ tới năm 2003, sau khi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 được ban hành và đặc biệt được đánh dấu bởi Nghị định 116, 117/2003/NĐ-CP thì khái niệm viên chức mới có sự phân biệt tương đối rõ với các khái niệm cán bộ, công chức. Tháng 11/2008, Quốc hội ban hành Luật Cán bộ, công chức đã thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc chuyên biệt hóa đối tượng phục vụ trong các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập, tách hẳn nhóm đối tượng viên chức ra khỏi phạm vi cán bộ, công chức, phân biệt giữa hoạt động công vụ của công chức với hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức, nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các đơn vị sự nghiệp, nâng cao chất lượng của đội ngũ viên chức. Tuy nhiên, phải đến khi Luật Viên chức được ban hành (Luật số 58/2010/QH12) thì khái niệm Viên chức mới được nêu một cách cụ thể: “Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng 7 theo vị trí làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” (Điều 2, Chương I). Các tiêu chí để xác định viên chức là: được tuyển dụng theo vị trí việc làm; làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập; làm việc theo chế độ hợp đồng làm việc và hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập. Nghị định số 55/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/5/2012 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công làm rõ hơn hình dung về đơn vị sự nghiệp công lập, đó là các tổ chức được thành lập và hoạt động để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước và/hoặc thực hiện việc cung cấp các dịch vụ công. Như vậy, viên chức là những người làm việc trong các đơn vị có nhiệm vụ phục vụ cho công tác quản lý nhà nước (bản thân đơn vị này không làm nhiệm vụ quản lý nhà nước) và trong các đơn vị sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, lao động xã hội và các tổ chức sự nghiệp khác... nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhân dân và xã hội. Những hoạt động này không nhân danh quyền lực nhà nước, không phải là các hoạt động quản lý nhà nước, chỉ thuần tuý mang tính nghề nghiệp gắn với nghiệp vụ, chuyên môn. Từ cách hiểu đó, viên chức ngành giáo dục là một đội ngũ làm việc tại các cơ sở giáo dục, các trường công lập không giữ chức vụ lãnh đạo được xác định là "viên chức" nhà nước, làm việc theo chế độ viên chức và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Thẩm quyền quy định về viên chức, giáo viên trong các đơn vị sự nghiệp công lập là viên chức do Quốc hội quyết định trên cơ sở ban hành, sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức. 1.1.1.2. Thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục Tuyển dụng viên chức nói chung, TDVCGD nói riêng là một lĩnh vực hoạt động trong chu trình tổ chức và hoạt động của các chủ thể nhằm tạo ra đội ngũ viên chức đủ năng lực và phẩm chất đảm nhận nhiệm vụ được giao. Việc 8 tuyển dụng viên chức phải tuân thủ các quy định pháp luật về điều kiện, tiêu chuẩn của viên chức và các quy định về trình tự, thủ tục của hoạt động tuyển dụng viên chức. Nói cách khác, tuyển dụng viên chức phải dựa trên căn cứ pháp luật về tuyển dụng viên chức với cách hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tuyển dụng viên chức nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người tham gia ứng tuyển, quyền và lợi ích của cơ quan tuyển dụng, của nhà nước và của xã hội. Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, THPL là hoạt động không thể thiếu, là biện pháp để pháp luật trở thành công cụ điều chỉnh có thực đối với các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực. Nhà nước xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiên bộ xã hội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh thực hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với tầm quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các quy phạm pháp luật, vì đó chỉ là pháp luật ở trạng thái "tĩnh", vấn đề quan trọng là "pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội" [13, tr.25]. Hiện nay, trên phương diện nhận thức và trong thực tiễn, tồn tại nhiều quan niệm về THPL. Có quan niệm xem THPL là một quá trình hoạt động, có quan niệm khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình.Tuy nhiên, điểm chung giữa các quan niệm đều nhìn nhận THPL là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định 9 của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Xét trong quy trình điều chỉnh pháp luật, THPL là sự nối tiếp xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội và sinh hoạt của công dân. Về bản chất, THPL là quá trình hiện thực hóa pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế. Trong THPL, những hoạt động có tính chủ động như sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có một cơ chế tổ chức và nguồn lực lớn về con người lẫn vật chất mới có thể bảo đảm thực hiện tốt. Hoạt động THPL không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một quá trình. Tóm lại, THPL cần được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống. Từ cách hiểu các phạm trù pháp lý nói trên, thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật về tuyển dụng viên chức, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục qua đó tuyển chọn được đội ngũ viên chức ngành giáo dục có phẩm chất, trình độ chuyên môn, chất lượng cao, phù hợp, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của nền giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay. 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục 1.1.2.1.Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục là một bộ phận của hoạt động thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức Viên chức là những người làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập (không phải người đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo đơn vị) và được tuyển dụng 10 trong nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Việc tuyển dụng phải dựa trên căn cứ pháp luật về tuyển dụng viên chức. Ngoài ra, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, do yêu cầu của từng ngành, lĩnh vực, pháp luật về tuyển dụng viên chức còn có những quy định riêng, mang tính đặc thù cho ngành, lĩnh vực. Do vậy, THPL về TDVCGD vừa phải thực hiện các quy định pháp luật chung về tuyển dụng viên chức, vừa thực hiện các quy định pháp luật riêng về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. 1.1.2.2. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục được tiến hành bởi các chủ thể đa dạng THPL về TDVCGD vừa phúc đáp yêu cầu xây dựng đội ngũ viên chức vừa hồng vừa chuyên ngành giáo dục, vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu việc làm của những công dân đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng. Do vậy chủ thể THPL về TDVCGD rất đa dạng, bao gồm không chi các cơ quan quản lý nhà nước về tuyển dụng, các cơ quan, cá nhân trực tiếp tiến hành hoạt động tuyển dụng viên chức mà còn cả các cá nhận tham gia ứng tuyển vị trí viên chức ngành giáo dục và các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân tham gia hoạt động giám sát, hỗ trợ quá trình tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. 1.1.2.3. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục có tính quyền lực và tính tự nguyện THPL về TDVCGD trước hết là một loại hoạt động của các cơ quan công quyền ( giao cho tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp thực hiện) nhằm tạo ra đội ngũ viên chức ngành giáo dục phù hợp với nhu cầu phát triển ngành giáo dục. Nhìn từ phương diện này, THPL về TDVCGD là một loại hoạt động mang tính quyền lực. Tuy nhiên, THPL về TDVCGD còn là một hoạt động của các cá nhân tham gia ứng tuyển trên cơ sở tôn trọng và thực hiện đúng các quy định pháp luật hiện hành về tuyển dụng viên chức. Nếu nhìn nhận từ 11 góc độ này, THPL về TDVCGD mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào ý chí chủ quan, mong muốn của mỗi cá nhân được đứng trong đội ngũ viên chức ngành giáo dục. 1.1.2.4. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục chỉ giới hạn trong phạm vi và đối tượng nhất định Không giống như một số lĩnh vực pháp luật và thực hiện pháp luật được áp dụng cho mọi đối tượng và phạm vi, việc THPL về TDVCGD chỉ diễn ra đối với một số đối tượng nhất định đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện của viên chức ngành giáo dục. Phạm vi của THPL về TDVCGD liên quan đến chỉ tiêu tuyển dụng viên chức ngành giáo dục, đến quan niệm tuyển dụng và nhu cầu cụ thể của mỗi địa phương. Ở mức độ nhất định, THPL về TDVCGD còn là sự kết hợp giữa THPL với tôn trọng đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân 1.1.3.Vai trò của thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục Thứ nhất, THPL về TDVCGD là phương thức để đường lối chính sách, pháp luật tuyển dụng viên chức đi vào thực tiễn đời sống xã hội; là cách thức biện pháp cơ bản, hiệu lực, hiệu quả để đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tuyển dụng viên chức được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức là cách thức cơ bản, có hiệu lực, hiệu quả nhất để chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã hội và đến với các chủ thể; giúp họ nắm bắt đầy đủ và thực hiện tốt hơn chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Thứ hai, THPL về TDVCGD nhằm hiện thực hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển giáo dục, coi phát triển giáo dục, đào tạo là “ quốc sách”. Bằng THPL về TDVCGD, việc đáp ứng mục tiêu xây dựng đội ngũ viên chức ngành giáo dục phục vụ cho hoạt động các 12 đơn vị sự nghiệp công lập ngành giáo dục được hiện thực hóa; là một trong những phương tiện thực hiện mục tiêu của nhà nước ta là xây dựng đội ngũ viên chức có phẩm chất, trình độ, năng lực tiến tới nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, đổi mới hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập; là phương thức đề cao trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong bảo đảm tuyển dụng viên chức được thực hiện minh bạch, khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Vì vậy các cơ quan, cán bộ, công chức, công dân phải nghiêm chỉnh tuân thủ chấp hành và thực hiện đúng quy định pháp luật, tích cực phòng ngừa, đấu tranh và chống các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức. Thứ ba, THPL về TDVCGD là cơ sở hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng viên chức. Một trong những hoạt động quản lý của nhà nước là tham gia vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở thực tiễn quản lý và đạo luật gốc, đó là Hiến pháp. Vì vậy cần triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho các chủ thể pháp luật tham gia vào quan hệ pháp luật về tuyển dụng viên chức tự giác thực hiện các quy định của pháp luật về tuyển dụng viên chức tự giác thực hiện các quy định của pháp luật trong hoạt động pháp luật. Thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức trở thành thực tiễn kiểm nghiệm sự hoàn thiện của pháp luật tuyển dụng viên chức. Bởi thông qua các hình thức thực hiện pháp luật, hệ thống pháp luật về tuyển dụng viên chức còn đồng thời bộc lộ những mâu thuẫn, chống chéo, chưa phù hợp. Trên cơ sở đó, ta mới đặt ra được những vấn đề, những yêu cầu về sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, qua đó có thể đảm bảo được chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về tuyển dụng viên chức nói riêng. Thứ tư, THPL về TDVCGD là biện pháp phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tuyển dụng viên chức và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước và ý thức tự giác của các 13 chủ thể tham gia THPL. Các chủ thể nhận thức được giới hạn hành vi bị nghiêm cấm, mỗi chủ thể sẽ tự giác và chủ động thực thi quyền và nghĩa vụ; không vi phạm các quy định của pháp luật. 1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục 1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về tuyển dụng viên chức ngành giáo dục Theo quy định của pháp luật hiện hành, có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình tuyển dụng viên chức ngành giáo dục. Theo đó, chủ thể THPL về TDVCGD có tính đa dạng, bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau. Về cơ bản, các chủ thể THPL về TDVCGD có thể gom thành ba nhóm: Một là, nhóm chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với THPL về TDVCGD Chức năng quản lý nhà nước được giao cho các cơ quan nhà nước. Theo nghĩa rộng, các cơ quan nhà nước có chức năng quản lý nhà nước đối với THPL về TDVCGD rất rộng, bao gồm các cơ quan nắm giữ quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp. Theo nghĩa hẹp, cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan hành pháp, chịu trách nhiệm chấp hành, điều hành hoạt động THPL trên thực tế. Cơ quan quản lý nhà nước tham gia vào THPL về TDVCGD là loại chủ thể đặc biệt vì trong quá trình thực hiện, cơ quan nhà nước phải thể hiện là chủ thể mang tính quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước thực hiện trách nhiệm quản lý xã hội đảm bảo cho pháp luật tuyển dụng viên chức được tổ chức thực hiện trên phạm vi rộng lớn là toàn quốc; Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Bộ và cơ quan ngang bộ khác; Chính quyền địa phương…. Các cơ quan này đảm nhiệm các nội dung quản lý nhà nước như: xây dựng văn bản pháp quy và hướng dẫn thực hiện; xây dựng bộ máy và tổ chức hoạt động THPL; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; Hợp tác quốc tế về THPL về TDVCGD…. Hai là, nhóm chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động TDVCGD 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan