Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật bang giao hảo thoại của ngô thì...

Tài liệu Luận văn tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật bang giao hảo thoại của ngô thì nhậm

.PDF
70
93
77

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ VI TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO THOẠI CỦA NGÔ THÌ NHẬM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI - 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ VI TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO THOẠI CỦA NGÔ THÌ NHẬM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN HÀ NỘI - 2018 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình triển khai làm khóa luận, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô khoa Ngữ Văn, các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam, đặc biệt là ThS. Lê Thị Hải Yến, giảng viên trực tiếp hướng dẫn. Nhân khóa luận được hoàn thành, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy cô và các bạn. Vì thời gian có hạn và cũng là lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu khoa học, chắc chắn khóa luận còn nhiều hạn chế. Chúng tôi mong nhận được đóng góp của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Vi LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm là kết quả nghiên cứu của bản thân, có sự tham khảo và kế thừa ý kiến của những người đi trước dưới sự hướng dẫn khoa học của giáo viên hướng dẫn. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo, các số liệu kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018 Tác giả khóa luận Nguyễn Thị Vi MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3 6. Đóng góp của khóa luận ..........................................................................................4 7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................................4 NỘI DUNG .................................................................................................................5 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................5 1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII ..................5 1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân .....................................................5 1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa” ...........................7 1.1.3. Về triều đại Tây Sơn .........................................................................................8 1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn ......................................................................8 1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn ...............................................................9 1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại .............................................................12 1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp ........................................................................................12 1.2.1.1. Cuộc đời .......................................................................................................12 1.2.1.2. Sự nghiệp......................................................................................................17 1.2.2. Bang giao hảo thoại .........................................................................................19 Tiểu kết chương 1......................................................................................................20 Chương 2: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ...21 2.1. Khẳng định độc lập chủ quyền đất nước ............................................................21 2.2. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng ........................................................27 2.3. Hình ảnh vua Quang Trung ................................................................................37 Tiểu kết chương 2......................................................................................................39 Chương 3: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ...................................................................................................................................40 3.1. Thể loại, hệ thống văn thể ..................................................................................40 3.2. Lý lẽ, lập luận .....................................................................................................48 3.3. Thủ pháp ngôn từ ...............................................................................................55 Tiểu kết chương 3......................................................................................................59 KẾT LUẬN ...............................................................................................................60 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Lí do khoa học Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, vương triều Tây Sơn của Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những trang sử vẻ vang, oai hùng nhất. Lịch sử không chỉ ghi nhận những chiến công vang dội trên mặt trận chống ngoại xâm của phong trào Tây Sơn, mà còn ghi lại những trang sử ngoại giao hào hùng, chói lọi của triều Tây Sơn trong bang giao với triều Mãn Thanh phương Bắc. Thành quả ngoại giao to lớn của vương triều Tây Sơn đối với nhà Thanh Trung Quốc không thể tách rời tư tưởng ngoại giao lỗi lạc của Ngô Thì Nhậm. Đó là tư tưởng ngoại giao chủ động, dựa trên sức mạnh chính nghĩa và thực lực của dân tộc, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo đồng thời biết giữ “thể diện” nước lớn cho Thanh triều. Nhận định về vai trò của Ngô Thì Nhậm với ngoại giao thời Tây Sơn, tiến sĩ Trần Ngọc Ánh trong bài báo “Ngoại giao Tây Sơn - Những tư tưởng đặc sắc và bài học lịch sử” in trên báo Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng có viết: “Với Bang giao hảo thoại, qua ngòi bút sắc bén, vừa đanh thép, kiên quyết nêu cao chính nghĩa, vừa khéo léo, mềm mỏng, hợp tình hợp lý, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện xuất sắc thiên tài chính trị của vua Quang Trung là khéo bi lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, khi mà nhà Thanh bị đánh thua, nhịn thì thẹn mà báo thù thì khó. Vị quân sư số một của Quang Trung, đáng được xếp vào hàng nhân vật đứng ngay sau Nguyễn Trãi trong lịch sử ngoại giao của nước Việt, đáng được liệt vào những người viết thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời.” [1, 97 - 103]. Tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm sẽ giúp chúng ta không chỉ thấy được giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm mà còn hiểu thêm về một trong những trang sử đáng tự hào nhất của mặt trận ngoại giao và những bài học lịch sử quý giá mà tác phẩm này để lại cho hậu thế. Đó là những lí do khoa học mà chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài này. 1.2. Lí do thực tiễn Thực tế hiện nay tác giả Ngô Thì Nhậm được giới phê bình, nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện nhưng vẫn còn nhiều điều đáng nói. Các sáng 1 tác của Ngô Thì Nhậm có dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo trình văn học trung đại cũng chưa giới thiệu nhiều đến các tác phẩm của ông, đặc biệt là Bang giao hảo thoại. Bản thân là một giáo viên, tôi luôn muốn tìm hiểu sâu sắc các tác giả và tác phẩm của văn học trung đại để có cái nhìn toàn diện về dòng chảy văn học Việt Nam. Đặc biệt là những tác giả có tư tưởng và tài năng văn học, chính trị, bang giao lỗi lạc như Ngô Thì Nhậm. Đây là lí do mà chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm. Nghiên cứu đề tài này phần nào thấy được giá trị của tác phầm, đồng thời chỉ ra được vị trí của nó trong tiến trình văn chính luận trung đại Việt Nam cũng như thấy được vị trí của Ngô Thì Nhậm trong dòng chảy văn học dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Qua khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy Bang giao hảo thoại là một đề tài khá hấp dẫn, tuy nhiên chưa được giới nghiên cứu quan tâm và dụng công phân tích. Tác phẩm này mới được đề cập đến trong cái nhìn khái quát về ngoại giao thời Tây Sơn nói chung, hay những đánh giá về tư tưởng ngoại giao của vua Quang Trung, hoặc những nghiên cứu về thể loại văn chính luận trung đại Việt Nam. Trong sách Quang Trung anh hùng dân tộc của nhà nghiên cứu Hoa Bằng, nhà xuất bản Bốn Phương (1944), Bang giao hảo thoại được nhắc đến bên cạnh những đánh giá về vua Quang Trung và triều đại Tây Sơn. Trong cuốn Cách mạng Tây Sơn của nhà sử học Văn Tân, nhà xuất bản Sử - Địa (1958), Bang giao hảo thoại mới chỉ được đề cập đến trong những trang phân tích về quan hệ bang giao giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1789 - 1802, đặc biệt là đề cao công lao và tài năng ngoại giao của vua Quang Trung mà chưa có những nhìn nhận về vai trò to lớn của Ngô Thì Nhậm trong công cuộc ngoại giao phức tạp ấy. Một số công trình nghiên cứu về ngoại giao thời Tây Sơn như: năm 1996 có luận án Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Nhuận với đề tài Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn bang giao đi sứ của Phan Huy Ích. Trong đó tác giả đã phân tích, đánh giá về giá trị 2 nội dung và nghệ thuật các tác phẩm của ông cũng như tài năng của Phan Huy Ích trong công cuộc bang giao với nhà Thanh, Bang giao hảo thoại và Ngô Thì Nhậm được nhắc đến bên cạnh những tác phẩm của Phan Huy Ích giúp ngoại giao thời Tây Sơn thành công mà thôi. Hay trong luận án tiến sĩ năm 2014 của nghiên cứu sinh Nguyễn Đức Thăng Văn chính luận trung đại Việt Nam - Trung Quốc tiếp biến và phát triển, tác giả cũng đề cập đến nhiều khía cạnh nội dung và nghệ thuật đặc sắc của các thể loại thư từ bang giao trong ngoại giao dưới thời trung đại nói chung và triều đại Tây Sơn nói riêng, Bang giao hảo thoại được đề cập đến trong cái nhìn khái quát đó. Vậy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu nào về giá trị nội dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại, đánh giá đúng tài năng của Ngô Thì Nhậm về quân sự, ngoại giao, tài năng văn chương của ông trong tác phẩm này. Với thái độ trân trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, trong khuôn khổ cho phép, khóa luận xin phép được tiếp tục mở rộng và bổ sung nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm trong tiến trình văn chính luận trung đại Việt Nam. 3. Mục đích ngiên cứu Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích sau: - Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thộc thể loại văn chính luận trung đại Việt Nam, chỉ ra được đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tập Bang giao hảo thoại. - Qua nhưng đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại, khẳng định vì trí, vai trò của tác phẩm nói riêng và của Ngô Thì Nhậm nói chung trong ngoại giao thời Tây Sơn. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Bang giao hảo thoại trong sách Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 3 do Lâm Giang Nguyễn Công Việt (chủ biên) (2005), NXB Khoa học Xã hội, từ trang 395 - 853. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình triển khai đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản văn học, phương pháp nghiên cứu văn học sử. Ngoài ra, luận văn còn sử 3 dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để khai thác tài liệu liên quan đến lịch sử bang giao thời Tây Sơn, cuộc đời và sự nghiệp của vua Quang Trung và trí sĩ Ngô Thì Nhậm; phương pháp phân tích tác phẩm để thấy được giá trị nội dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại. 6. Đóng góp của khóa luận Qua việc khảo sát về tác phẩm Bang giao hảo thoại, luận văn góp thêm một cái nhìn mới về ngoại giao thời Tây Sơn, vua Quang Trung trên mặt trận ngoại giao cũng như đánh giá đúng tài năng và công lao của mưu sĩ Ngỗ Thì Nhậm - cận thần trung thành, trợ thủ đắc lực, tri âm tri kỷ của vua Quang Trung. Đồng thời, ông cũng được coi là mắt xích quan trọng trong ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Quốc dưới triều Tây Sơn. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung Chương 2: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nội dung Chương 3: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nghệ thuật 4 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII Thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Sự tồn tại của hai thế lực phong kiến lớn (Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong) chính là vật cản trên con đường phát triển của lịch sử dân tộc. Các thế lực phong kiến này càng ngày càng tha hóa, không ngừng tranh giành xâu xé nhau đưa đến những cuộc chiến tranh liên miên, gây ra biết bao đau thương cho dân tộc Việt Nam. Đời sống của người dân hết sức khổ cực (đặc biệt là người nông dân) vì chiến tranh, mất mùa, đói kém, nạn tham ô, gánh nặng thuế khóa… Không còn lựa chọn nào khác, họ buộc phải đứng lên đấu tranh để tự giải phóng cho mình. Trong thế kỉ này, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân đã bùng nổ khắp Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong tạo thành một phong trào đấu tranh của nông dân rộng lớn, quyết liệt làm lung lay hệ thống chính trị của các tập đoàn phong kiến. Đỉnh cao của chíến tranh nông dân khởi nghĩa thế kỷ XVIII là phong trào Tây Sơn với những cống hiến vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc. Với những biến cố như vậy, thế kỷ XVIII được mệnh danh là “thế kỷ nông dân khởi nghĩa”. Tình hình lịch sử - xã hội Việt Nam thế kỷ này có những đặc điểm nổi bật sau: 1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân Sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ: chiến tranh phong kiến trong hơn một thế kỉ sau khi nhà Lê sụp đổ đã tạo điều kiện cho các làng xã, địa phương xa trung ương tách khỏi sự quản lý trực tiếp từ nhà nước và nâng cao tính tự trị. Trước tình hình đó, năm 1664 nhà nước phải ban hành phép “Bình lệ” để có thể thu thuế. Tuy nhiên, do bấy giờ nhà nước chỉ đánh thuế ruộng công, nên số hộ tăng giảm thất thường, ruộng đất dần lọt vào tay các nhà hào phú. Cường hào địa chủ thi nhau vơ vét, chiếm đoạt ruộng đất của dân và còn làm lũng đoạn ruộng đất công vốn đã bị nhà nước cắt xén nhiều. 5 Vì lý do trên, trong mấy chục năm cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII đã diễn ra 9-10 trận đói lớn, cùng với đó hình thành những địa chủ lớn có hàng nghìn mẫu ruộng. Tình hình nghiêm trọng đến mức, năm 1728, chúa Trịnh Cương đã phải kêu lên “Ruộng đất rơi hết vào các nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một miếng đất cắm dùi.” [25, 393-394]. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở đồng bằng mà còn diễn ra ở cả những miền thượng du, bọn quyền thế làm văn khế giả để chiếm đoạt ruộng đất của dân cày, buộc người dân phải bỏ đi lưu tán, cuộc sống vô cùng khổ cực. Một tình trạng nổi bật nữa có thể kể đến là: do hậu quả của các cuộc chiến tranh phong kiến, cát cứ, nhiều người đã tình nguyện cúng ruộng đất tư của mình cho làng xã hay cho chùa, với hi vọng được thờ cúng sau khi qua đời (gọi là ruộng hậu). Từ đó, làng xã trở thành chủ một số ruộng đáng kể. Với tình trạng như vậy, năm 1722, chúa Trịnh đã thực hiện một cuộc cải cách về chế độ tô thuế, bắt đầu đánh thuế ruộng tư. Tuy nhiên, khi thực hiện, nhà nước lại quy định miễn thuế ruộng tư cho quan lại theo thứ bậc, thành ra ruộng đất của quan lại, địa chủ lại ngày càng tăng lên. Cuộc sống của nhân dân vốn không được cải thiện mà ngày càng khổ cực. Mâu thuẫn, đối kháng giai cấp trở lên quyết liệt hơn, năm 1740 Trịnh Doanh thực hiện chính sách “tỉnh điền” với hi vọng “quân bình giàu nghèo”, “san đều thuế dịch”. Tuy nhiên, việc làm đó không cải thiện được tình hình là bao, bởi việc khám đạc ruộng đất chỉ thêm phiền nhiễu, nạn trộm cướp vẫn hoành hành chưa được giải quyết. Sự phát triển của chế độ tư hữu địa chủ về ruộng đất đã đạt đến đỉnh cao, ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội. Bộ máy quan lại thời Lê - Trịnh ở đầu thế kỷ XVIII không còn được như trước nữa. Để thực hiện chính sách chuyên quyền, nắm hết quyền hành trong tay, phủ chúa đã thay 3 phiên cũ trước đây thành 6 phiên mới (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), mỗi phiên gồm 60 người, phụ trách chính những hoạt động của các bộ. Số lượng quan lại tăng lên, bộ máy quan lại cồng kềnh. Bãi bỏ chế độ lộc điền cũ, nhà Lê - Trịnh đặt ra chế độ ban cấp xã dân lộc cho các quan, trực tiếp đặt gánh nặng phú dịch lên xã dân. Khi đặt chế độ thuế khóa ruộng đất, mọi chính sách của nhà nước đều bất lợi và đè nặng lên người dân. Khiến đời sống của nông dân ngày càng khổ cực. 6 Đói kém xảy ra liên miên, nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng gia tăng, nhân dân không nộp được thuế phải bỏ đi lưu tán. Lúc này nhà nước lại đặt ra lệ mua quan bán tước để thu tiền, thóc; không chỉ thế còn đặt “tiền thông kinh” (cứ nộp tiền là được vào thi Hương). Điều này dẫn đến tình trạng khoa cử suy đồi, quan lại thối nát tham nhũng ngày càng gia tăng. Trong tình trạng đó, thay vì các chúa tập trung giải quyết tình hình, quan tâm đến đời sống của nhân dân thì chính các chúa lại làm gia tăng sự khổ cực cho người dân bằng việc xây dựng các chùa chiền, cung tẩm… Do bất lực trong việc quản lý và bảo về các công trình thủy lợi, chính vì vậy nhà nước Lê - Trịnh đã bỏ mặc cho quan lại các địa phương thu tiền của người dân và thuê người làm. Bọn chúng thừa cơ hội nhũng nhiễu nhân dân, hạch sách, tham ô, vơ vét tiền của không kể siết. Lụt lội, mất mùa, đói kém xảy ra liên miên trong suốt các năm từ 1690 đến năm 1729, thảm cảnh xảy ra khi dân nghèo phải ăn vỏ cây, rau cỏ, lá cây, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều. Thiên tai, sản xuất nông nghiệp chỉ là một trong nhiều nguyên nhân đẩy nhân nhân đến thảm cảnh đói khổ. Chính chính sách thuế khóa nặng nề của nhà nước mới là nguyên nhân lớn gây ra sự cực khổ của người dân. Khắp nơi làng xóm điêu tàn, kinh tế suy sụp, người nông dân lưu tán hoặc chết đói, tha phương cầu thực hoặc dùng chút lực tàn cuối cùng để khai phá đất hoang hay canh tác trên các thửa ruộng bỏ hóa của các hộ lân cận. Cuối cùng, khi tình hình không thể cứu vãn được nữa, “tức nước vỡ bờ”, họ đành nổi dậy chống phá, lật đổ giai cấp cường hào ác bá và nhà nước phong kiến. Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền, trở thành xu thế thời đại này. 1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa” Bước sang thế kỷ XVIII, đặc biệt là giữa thế kỷ XVIII, phong trào nổi dậy của nhân dân diễn ra ở khắp nơi. Năm 1737, có cuộc nổi dậy của nhà sư Nguyễn Dương Hưng ở vùng Sơn Tây. Năm 1738, có cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật ở Thanh Hoá, cuộc khởi nghĩa này duy trì được đến năm 1770. Năm 1740 - 1741 có cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Thoan, thủ lĩnh Thiều lãnh đạo ở Hưng Hoá. Ở Sơn Tây có cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Tương từ năm 1741 đến năm 1752. Hay Toản Cơ 7 lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn từ năm 1740 đến 1742. Ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa khác ở vùng trung tâm đồng bằng bắc bộ như: Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vĩ Trác Oánh, Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, Nguyễn Danh Phương (1741 - 1751), Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), Hoàng Công Chất (1739 - 1769). Mặc dù hầu hết các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, nhưng ít nhiều nó đã góp phần làm cho bộ máy chính tri ̣ của chúa Trịnh ngày một suy tàn và sau đó bi ̣ kết thúc bởi cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ. 1.1.3. Về triều đại Tây Sơn 1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn Nhà Tây Sơn được ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Ở Đàng Ngoài thế lực họ Trịnh ngày một suy yếu, mệt mỏi bởi các cuộc khởi nghĩa liên miên, bản thân nội bộ họ Trịnh cũng lục đục chia rẽ. Bên cạnh đó thế lực họ Trịnh đã từ lâu không thể kiểm soát nổi họ Nguyễn ở Đàng Trong, nên lúc này họ Trịnh không còn thời gian chú ý đến các việc xảy ra ở Đàng Trong nữa. Trong khi đó ở Đàng Trong, tuy các cuộc khởi nghĩa không nhiều nhưng đúng lúc đó nhà Nguyễn rơi vào cảnh suy tàn dưới tay của Trương Phúc Loan. Chính vì thế, sau khi cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Nhạc phát động với khẩu hiệu “diệt Trương Phúc Loan phò chúa Nguyễn” đã nhanh chóng được người dân ủng hộ, khiến cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn từ một cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ bỗng chốc gặt hái được nhiều thành công. Trong khoảng thời gian từ 1771 đến 1789, không chỉ dẹp tan chế độ Trịnh - Nguyễn mà đội quân Tây Sơn với sức mạnh phi thường đã đánh tan được các cuộc ngoại xâm của Trung Hoa. Trước những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Nhạc tự lập làm Hoàng đế lấy là năm đầu niên hiệu Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là thành Hoàng Đế. Đồng thời phong cho Nguyễn Lữ là Tiết chế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long tướng Tướng quân. Như vậy, có thể nói giai đoạn này quân Tây Sơn đã dần hình thành một vương triều phong kiến chứ không còn mang dáng dấp của một cuộc khởi nghĩa nông dân nữa, trong đó những quyền lợi của mỗi cá nhân cũng được phân định theo ngôi thứ. 8 Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ một lần nữa đại thắng tại Cần Giờ, quân họ Nguyễn phải chạy ra đảo Côn Lôn. Năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Vương phải chạy sang Xiêm cứu viện nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh cho đại bại. Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ tiếp tục phản công chiếm đuợc thành Phú Xuân, sai người mang thư về cho Nguyễn Nhạc nói dẫn thủy quân tiến thẳng ra Đàng Ngoài, trong vòng một tháng đã đánh tan quân Trịnh. Trong suốt khoảng thời gian từ năm 1785 đến 1786 Nguyễn Huệ thực sự phát huy đuợc vai trò của mình trong việc đánh tan giặc ngoại xâm và tiêu diệt hai tập đoàn Trịnh Nguyễn. Không dừng ở đó, sau khi dẹp tan chế độ họ Trịnh và trao quyền lại cho nhà Lê chẳng bao lâu, năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ một lần nữa phải kéo quân ra Bắc để dẹp loạn. Lúc này để giữ yên Đàng Ngoài vì bộ máy chính quyền nhà Lê thực sự đã suy yếu không còn sức để vực dậy được nữa, nên Nguyễn Huệ đã cho Ngô Văn Sở trấn giữ Thăng Long, đồng thời chiêu mời các sĩ phu tài giỏi ở Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch, Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm… giúp mình giữ yên đất nước trên các mặt trận ngoại giao cũng như chiến trận. 1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn Trong lịch sử Việt Nam, nhà Tây Sơn tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng để lại một vết son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cả về quân sự lẫn nghệ thuật ngoại giao. Ngay từ những buổi đầu trứng nước, dưới sự lãnh đạo tài tình và khéo léo của Nguyễn Huệ, nhà Tây Sơn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều đáng chú ý hơn cả, với vai trò là một người lãnh đạo đất nước, vấn đề mà Nguyễn Huệ luôn quan tâm, đó là việc tránh cho dân không bị rơi vào cảnh chiến tranh, tận dụng cơ hội, tranh thủ xây dựng đất nước vững mạnh. Chính vì thế ông đã có chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Thanh. Quan điểm này đã được thể hiện rất rõ trong lời nói của Nguyễn Huệ như sau: “Chẳng qua 10 ngày là có thể đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ nó là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi thua trận ắt lấy làm hổ thẹn mà cố báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt, thật 9 không phải phúc cho dân, lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó chỉ có một cách nói thật khéo thì mới ngăn được cái ngòi chiến tranh” [22, 372]. Qua đây ta thấy thêm tình cảm yêu quý dân của Nguyễn Huệ, đồng thời thấy được cả trách nhiệm của ông trong việc xác định phương thức ngoại giao. Đối với nhà Thanh, một kẻ thù mạnh nhất lúc bấy giờ, việc khôn khéo trong xử lý khi nước nhà vẫn còn đang chìm trong thù trong giặc ngoài là một điều hết sức khôn ngoan. Để có thể có một chiến lược lâu dài ra sức củng cố xây dựng đất nước, ông cho rằng chỉ có sức mạnh nội lực mới thực sự là chỗ dựa của đất nước. Chính sách ngoại giao dù khôn khéo đến đâu nhưng nền kinh tế không đủ mạnh thì không thể đem lại nền hòa bình thực sự và lâu dài. Điều này được thể hiện khi Nguyễn Huệ ra Tam Điệp đã từng nói với Ngô Thì Nhậm: “Cứ để cho ta mười năm nữa, nước ta giàu dân ta mạnh, thì ta có sợ gì chúng” [22]. Cuộc ngoại giao đầu tiên giữa Nguyễn Huệ với nhà Thanh không phải sau khi nhà Tây Sơn chính thức được nhà Thanh công nhận, mà ngay từ khi Tôn Sỹ Nghị đưa quân sang xâm lược với danh nghĩa giúp nhà Lê thì Nguyễn Huệ đã có những động thái ngoại giao quan trọng. Khi sắp kéo quân sang Đại Việt, Tôn Sỹ Nghị cho người đưa thư loan báo: “Ai bắt sống được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem nộp sẽ được công đầu”. Đây thực chất là mục đích phô trương thanh thế, cũng như muốn thị uy với dân Đại Việt của Tôn Sỹ Nghi ̣. Y đã đưa ra một chỉ dụ hòng mượn tay của những kẻ phản bội để giết anh em nhà Tây Sơn một cách dễ dàng, từ đó có thể nhanh chóng xâm lược Đại Việt. Sau khi chiếm được Thăng Long một cách dễ dàng, Tôn Sĩ Nghi ̣vô cùng hống hách. Hiểu rõ được vấn đề này, Nguyễn Huệ một mặt củng cố lòng tin cho quân sỹ để chiến đấu chống quân Thanh, một mặt “Để nuôi lòng kiêu căng của giặc, vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "Thiên triều", đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh có bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi còn đóng ở Thăng Long. Tôn Sỹ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể 10 nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn”. Chính vì thế sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nguyễn Huệ đã rất khôn khéo nhìn nhận rõ tình hình trong nước lúc bấy giờ không thể tiếp tục gây chiến hoặc có thêm bất kỳ cuộc chiến nào với nhà Thanh, nên Nguyễn Huệ đã sai nguời sang gặp Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả Giang Binh bị đạo để mở đường cho cuộc giảng hòa. Về phía nhà Thanh sau cuộc bại trận của Tôn Sỹ Nghị, các quan tướng nhà Thanh cũng rất e ngại thế mạnh của Đại Việt, đặc biệt là Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp cũng không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Nên khi đoàn sứ giả của Đại Việt sang đã rất vui mừng và tận tình giúp đỡ. Thậm chí ngay cả sau này mọi thuận lợi của Nguyễn Huệ có được cũng do sự giúp đỡ của Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp. Ngoài việc cho sứ giả sang gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng để dọn đường cho công việc giải hòa và cầu phong vương, ở trong nước Nguyễn Huệ cũng thực thi những chính sách tạo nên uy tín và thể hiện thiện chí hòa hữu với nhà Thanh. Cụ thể đối với đám tàn quân của nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã nghiêm cấm quân lính và người dân truy giết, đồng thời cho phép quân Thanh được ra đầu thú. Đối với những binh lính nhà Thanh sau khi ra đầu thú còn được cấp lương ăn, quần áo mặc chờ ngày trao trả về nước. Với những chính sách nhân đạo của Nguyễn Huệ và được sự giúp đỡ của Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhà Thanh đã chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ, đồng nghĩa với việc nhà Thanh công nhận Đại Việt chính thức có một vương chủ mới. Đây được coi là một trong những thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao của nhà Tây Sơn với nhà Thanh. Điều đáng chú ý hơn nữa, khi Nguyễn Huệ từ chối sang Trung Quốc nhận phong vương theo thông lệ thì nhà Thanh đã cho sứ thần sang Đại Việt để thực hiện việc phong vương cho Nguyễn Huệ. Lần thứ hai Nguyễn Huệ từ chối ra Thăng Long nhận phong vương với lý do sức khỏe không tốt, thì nhà Thanh lại một lần nữa nhún mình đến tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ. Có thể nói, mặc dù Nguyễn Huệ trên danh nghĩa chấp nhận triều kiến nhà Thanh, nhưng trên thực tế, nhà Thanh luôn bị động trước những mưu tính khôn 11 khéo của Nguyễn Hụê. Chính vì thế mà nhà Thanh hết lần này đến lần khác phải nhượng bộ những yêu cầu của Nguyễn Huệ, điều mà trong lịch sử Việt Nam trước đây chưa bao giờ làm được. Thậm chí ngay việc sang dự lễ bát tuần của Càn Long, Nguyễn Huệ cũng không đi mà sai người đóng giả đi thay. Sau những thành công kể trên của nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tiếp tục thực hiện thêm những chính sách phản kháng của mình với nhà Thanh. Cụ thể Nguyễn Huệ yêu cầu nhà Thanh bỏ tục cống người vàng, và mở chợ buôn bán giao thương tại Cao Bằng và Lạng Sơn. Tiếp đó, năm 1792 Nguyễn Huệ còn cử Vũ Văn Dũng làm Chánh sứ mang biểu sang cầu hôn công chúa nhà Thanh và đòi lại vùng đất Lưỡng Quảng. Thật đáng tiếc ngày 16 tháng 9 năm 1792, Nguyễn Huệ đột ngột qua đời khiến cho những kế hoạch còn dang dở của ông không thực hiện được. Có thể nói sau 15 năm khởi nghĩa đánh Nam dẹp Bắc, quân Tây Sơn đã hoàn thành một sứ mệnh to lớn, thay đổi tình tình đất nước trên mọi phương diện: đánh đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê; làm chủ cả đất nước. Mặc dù sự nghiệp của phong trào Tây Sơn chưa trọn vẹn do thế lực của nhà Lê còn lay lắt và trong bước đường cùng đã cầu cứu nhà Thanh “cõng rắn cắn gà nhà”; tuy nhiên phong trào và những chính sách và thành tựu to lớn mà nhà Tây Sơn đạt được đã ghi dấu trong sử sách và trong lòng dân tộc những dấu son sáng chói. Bên cạnh đó, phong trào cũng làm nổi bật tài năng, đức độ của vị tướng tài, anh hùng giải phóng dân tộc - Quang Trung (Nguyễn Huệ), cùng với đó là hàng loạt các trí thức đã góp phần to lớn vào những thành tựu của đất nước trong giai đoạn này. Họ không chỉ góp sức vào công cuộc ổn định tình hình chính trị, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, vì nhân dân; mà bằng tài năng họ đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn chương có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó không thể không kể đến tác phẩm Bang giao hảo thoại của trí sĩ Ngô Thì Nhậm. 1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại 1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp 1.2.1.1. Cuộc đời Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, tức ngày 25 tháng 10 năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam (nay thuộc 12 huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Thuở nhỏ có tên là Phó, sau đổi thành Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên (khi nghiên cứu Thiền học ông lấy đạo hiệu Hải Lượng). Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc đồng Kinh Bắc, rồi thăng tới chức Công bộ Hữu thị lang. Năm 29 tuổi - 1775 Ngô Thì Nhậm ra phụng sự nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng, trao cho chức Thị lang Bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng đến chức Thượng thư Bộ Binh. Ông mất ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (tức ngày 9 tháng 3 năm 1803). Cuộc đời của Ngô Thì Nhậm có những nét cơ bản như sau: Ngô Thì Nhậm là con trưởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), tên tự là Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong, biệt hiệu Nhị Thanh cư sỹ. Ngô Thì Sỹ có tài, từ chương lại nổi tiếng nhưng nhiều năm thi không đỗ, vì vậy gia cảnh đã nghèo túng lại càng nghèo túng hơn. Đến khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1752), ông lại thi trượt, tuy nhiên được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mến tài cho làm một chức nhỏ Thiêm sai tri Công phiên ở Phủ Chúa. Nếu như người cha Ngô Thì Sỹ 7 tuổi đi học, 8 tuổi làm được văn, 9 tuổi biết làm thơ, 11 tuổi mồ côi cha phải theo học ông nội Đan Nhạc công (tức Ngô Trân), thì Ngô Thì Nhậm 7 tuổi cũng đi học và đến năm 11 tuổi cũng được cụ nội Đan Nhạc công dạy bảo. Chỉ 2 năm sau đó, Ngô Thì Nhậm đã đọc thông các loại sách Kinh, Truyện, Sử và Tính lý; đến năm 16 tuổi (tức năm Tân Tỵ - 1761) cụ nội Đan Nhạc qua đời thì Ngô Thì Nhậm mới học với phụ thân Ngô Thì Sỹ. Vốn thiên tư thông minh, lại chăm chỉ học hỏi, nên mới 16 tuổi Ngô Thì Nhậm đã soạn sách Nhị thập thất sử toát yếu (đây là sách chủ yếu dùng trong học tập). Năm 17 tuổi, Ngô Thì Nhậm trải qua 2 lần sát hạch ở trường đều đạt loại ưu. Cùng năm này, mẹ ông qua đời ở tuổi 33, để lại 5 người con. Năm 1763 (năm Quý Mùi), Ngô Thì Nhậm 18 tuổi, người cha Ngô Thì Sỹ được chúa Ân Vương Trịnh Doanh, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự trung Bộ Công. Đến năm sau, 1764 (năm Giáp Thân) trao cho chức Giám sát Ngự sử đạo Sơn Tây, và chỉ vài tháng sau đó đã thăng đến chức Đốc đồng xứ Thái Nguyên (Hào mân ai lục). Từ đây gia đình Ngô Thì Sỹ mới dần thoát khỏi cảng 13 nghèo khó, và cũng năm này Ngô Thì Sỹ lấy vợ kế, bà đưa 4 người con chồng đến nhậm sở ở với chồng tại Sơn Tây. Lúc này chỉ còn lại Ngô Thì Nhậm ở nhà với người vợ mới cưới là Ngô Thị Anh, tiếp tục học tập. Năm 1766 (năm Bính Tuất), Ngô Thì Nhậm 20 tuổi, ông đã cùng Lưu Hi Trí (người cùng ấp, đỗ đầu thi Hương khoa Ất Dậu), đến theo học thầy Đan Sỹ là Tham chính Thanh Hóa; và cũng năm đó phụ thân ông - Ngô Thì Sỹ thi đậu Hoàng giáp (khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 - 1766). Năm 1771 (năm Mậu Tý), Ngô Thì Nhậm 23 tuổi, ông thi Hương đậu giải Nguyên, năm sau ông lại đỗ Sỹ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương (hàm Chánh thất phẩm). Ngô Thì Nhậm là một người thanh liêm, giản dị; khi rỗi việc ông mở lớp dạy học, học trò theo học rất đông. Năm 1771 (năm Tân Mão), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An, tư đồ Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép ông vào tội gian lận ở trường thi Hương, bị cách chức tước mất mấy năm liền. Cùng năm đó, vợ kế của Ngô Thì Sỹ qua đời khi ông đang ở Nghệ An. Mọi việc thuốc thang lúc đau ốm và tang ma khi mất của mẹ kế đều Ngô Thì Nhậm một tay lo liệu. Sau đó, Ngô Thì Nhậm cũng xin cáo quan về quê với lý do sớm hôm phụng dưỡng cha, năm đó ông 26 tuổi. Năm 1772 (năm Nhâm Thìn), Ngô Thì Nhậm dự khảo khóa ở Quốc Tử Giám, đỗ hạng ưu, nhưng lấy lý do ốm, cố từ chối không ra làm quan. Năm 1775 (năm Ất Mùi), Ngô Thì Nhậm thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến Sỹ xuất thân, đứng hàng thứ 5, khi đó ông vừa tròn 30 tuổi. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm Hộ bộ Đô cấp sự trung, năm sau thì thăng đến chức Giám sát Ngự sử sạo Sơn Nam, lại được làm quan Giám khảo trường thi ở Hải Dương. Đến năm 1778 (năm Mậu Tuất), Ngô Thì Nhậm được thăng chức Đốc đồng Kinh Bắc. Chức Đốc đồng một trấn, dưới chức Trấn thủ một bậc, là chức phó, có nhiệm vụ tra xét ngục tụng. Năm đó phụ thân ông cũng nhậm chức Đốc trấn Lạng Sơn. Hai cha con cùng đi nhậm chức một ngày (Ngô gia thế phả). Cùng năm đó, Ngô Thì Nhậm còn kiêm giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên. Tại đây, ông đã cùng cha phối hợp với Trấn thủ Tuân Vãng hầu, đánh dẹp tại vùng Vũ Nhai, và cũng năm đó ông soạn xong tập Công vụ thành thư. Năm 1779 (năm Kỷ Hợi), Ngô Thì Nhậm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan