VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIỆU THU TRANG
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIỆU THU TRANG
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS, TS. NGUYỄN NGỌC ANH
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Triệu Thu Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI
HÀNH CÔNG VỤ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến tội chống người thi
hành công vụ....................................................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi hành
công vụ ............................................................................................................. 29
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................... 37
2.1. Tổng quan tình hình xét xử tội chống người thi hành công vụ tại thành
phố Hà Nội ....................................................................................................... 37
2.2. Thực tiễn định tội danh chống người thi hành công vụ tại thành phố
Hà Nội .............................................................................................................. 43
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công
vụ tại thành phố Hà Nội ................................................................................... 51
2.4. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội chống người thi hành công vụ và nguyên nhân nhân ..................... 55
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ .............. 66
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự .................................................................. 70
3.2. Nâng cao năng lực của lực lượng thi hành công vụ ................................ 74
3.3. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của quần chúng nhân dân ........... 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
- Bộ luật Hình sự
BLTTHS
- Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
- Cơ quan điều tra
CTTP
- Cấu thành tội phạm
CSHS
- Chính sách hình sự
HĐXX
- Hội đồng xét xử
NXB
- Nhà xuất bản
QĐHP
- Quyết định hình phạt
TAND
- Tòa án nhân dân
THTT
- Tiến hành tố tụng
TNHS
- Trách nhiệm hình sự
XXST
- Xét xử sơ thẩm
VKS
- Viện kiểm sát
UBND
- Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu hình sự giai đoạn 2015 - 2019 trên cả nước ....................... 37
Bảng 2.2. Số liệu hình sự tội chống người thi hành công vụ giai đoạn 2015
- 2019 trên cả nước.................................................................................. 37
Bảng 2.3. Tỷ lệ XXST tội chống người thi hành công vụ trong tổng số tội
phạm giai đoạn 2015 – 2019 ................................................................... 38
Bảng 2.4. Số liệu hình sự giai đoạn 2015-2019 của Hà Nội........................... 40
Bảng 2.5. Tỉ lệ XXST các vụ án ở Hà Nội trong tổng số vụ án XXST giai
đoạn 2015 - 2019 ...................................................................................... 40
Bảng 2.6. Tỷ lệ số vụ án XXST về tội chống người thi hành công vụ trong
tổng số tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2015- 2019 . 41
Bảng 2.7. Các hình phạt được áp dụng đối với tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019 ............. 42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, từ khi
tỉnh Hà Tây sáp nhập vào, Hà Nội có diện tích là 3.358,6 km², là địa phương
đứng thứ hai cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh về dân số với 8,05 triệu
người (năm 2019), tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì
dân số thực tế của Hà Nội năm 2019 là gần 10 triệu người. Hà Nội có mật độ
dân số đông với mức bình quân là 2.398 người/km², mật độ phương tiện giao
thông lớn với mức là 105,2 xe/km² mặt đường [26]. Thực hiện Nghị quyết của
Quốc hội về việc mở rộng địa chính thành phố Hà Nội vào năm 2008, hiện nay
thành phố có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã
với 584 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 386 xã, 177 phường và 21 thị trấn. Tính
đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, theo điều tra dân số trên địa bàn thành phố Hà
Nội, 55% dân số sống ở đô thị và 45% dân số sống ở nông thôn. Thành phố Hà
Nội tiếp giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên ở phía Bắc; giáp các tỉnh
Hòa Bình, Hà Nam ở phía Nam; phía Đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh
và Hưng Yên; phía Tây giáp các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ. Hà Nội nằm chếch
về phía Tây Bắc của trung tâm vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng cách
thành phố Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành tam
giác phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Thành phố Hà Nội là một đô thị đặc biệt, là một trong năm thành phố
trực thuộc trung ương không chỉ với lý do là Thủ đô của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, mà Hà Nội thỏa mãn các tiêu chuẩn của một đô thị
loại đặc biệt như: có quy mô dân số trên 5 triệu người; mật độ dân số bình
quân từ 15.000 người/km²; tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao
động trên 90%; cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ... Tổng sản phẩm trên địa
bàn (GRDP) năm 2019 ước tính tăng 7,62% so với năm 2018, quy mô GRDP
năm 2019 theo giá hiện hành ước tính đạt 971,7 nghìn tỷ đồng; GRDP bình
1
quân đầu người đạt 120,1 triệu đồng, tăng 7% so với năm 2018 (tăng 7,9 triệu
đồng) [27], kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, tình hình an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững nhưng theo đó là những khó khăn,
thách thức trong vấn đề kiểm soát tội phạm.
Tình hình tội phạm ở Hà Nội đang có những diễn biến rất phức tạp,
phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, liều lĩnh, gây ra những thiệt hại lớn
về người và tài sản, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự ở địa
phương. Đáng chú ý là, tội phạm chống người thi hành công vụ có chiều
hướng gia tăng cả về số vụ, tính chất, mức độ nghiêm trọng. Thậm chí, người
có hành vi chống người thi hành công vụ còn sử dụng vũ khí, công cụ nguy
hiểm tấn công người thi hành công vụ. Trước diễn biến phức tạp của tội phạm
chống người thi hành công vụ, đặt ra yêu cầu, đòi hỏi bảo vệ tính nghiêm
minh của pháp luật cũng như tính hợp pháp của quyền lực của nhà nước mà
đại diện là người thi hành công vụ cấp thiết hơn bao giờ hết.
Với mong muốn góp phần nâng cao nhận thức trong các cấp, các
ngành, các địa phương về phương pháp tiếp cận lý luận về tội chống người thi
hành công vụ; đồng thời, qua nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự về
tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn thành phố Hà Nội sẽ đánh giá
kết quả đã đạt được, đồng thời rút ra được những mặt còn hạn chế, khó khăn,
vướng mắc và nguyên nhân trong việc xử lý tội chống người thi hành công
vụ; từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm chống người thi hành công vụ tại
thành phố Hà Nội và sẽ đóng góp thêm kinh nghiệm cho các địa phương khác
trên cả nước, nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Tội chống người
thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Hà Nội” làm đề tài luận văn cao học.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới phương diện nghiên cứu, đã có nhiều công trình khoa học tập
trung nghiên cứu về tội phạm chống người thi hành công vụ. Tiêu biểu như:
- Bài báo khoa học “Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật
Hình sự Việt Nam” đăng tải năm 2012, tác giả Nguyễn Anh Thu, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Bài báo khoa học “Đấu tranh với tội phạm chống người thi hành công
vụ: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”, đăng tải trên Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 7/2011, tác giả Hồ Thế Hòe;
- Sách chuyên khảo “Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi
hành công vụ ở nước ta hiện nay” do tác giả Phạm Văn Tỉnh chủ biên với sự
tham gia của tác giả Đào Bá Sơn;
- Luận văn thạc sĩ “Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn Thành
phố Hà Nội: Tình hình, nguyên nhân và các giải pháp phòng ngừa”, tác giả Hà
Thị Thanh Huyền, bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học xã hội năm 2014;
- Luận văn thạc sĩ “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”, tác giả Lê Đức Sơn, bảo vệ
thành công tại Học viện Khoa học xã hội năm 2016;
- Luận văn thạc sĩ “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả Bùi Sơn Hà,
bảo vệ thành công tại Học viện Khoa học xã hội năm 2017…
Dưới góc độ lý luận khoa học luật hình sự, nhận thức lý luận liên quan
tới tội chống người thi hành công vụ đã được đề cập cụ thể trong các giáo
trình chuyên ngành Luật của một số cơ sở đào tạo như: Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2017; Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
xuất bản năm 2015; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Học viện An ninh
3
nhân dân xuất bản năm 2014; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Học viện
Cảnh sát nhân dân năm xuất bản 2014…
Bằng việc tham khảo, kế thừa các tài liệu trên và dựa trên những thông
tin từ thực tiễn của thành phố Hà Nội (từ năm 2015 đến năm 2019), tác giả làm
rõ thêm một số vấn đề trong hoạt động định tội danh và QĐHP đối với loại tội
phạm chống người thi hành công vụ; từ đó, có những định hướng, giải pháp
trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề về mặt lý luận cũng
như các yếu tố cấu thành tội chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự
Việt Nam. Đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm pháp lý hình sự, dấu hiệu cấu
thành của loại tội phạm này cũng như thực tế áp dụng pháp luật vào đời sống
để từ đó bổ sung, hoàn thiện lý luận về định tội danh và QĐHP của tội chống
người thi hành công vụ. Thông qua đó có thể đưa ra được những giải pháp,
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả xét
xử và hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm này trên địa bàn thành
phố Hà Nội nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích như đã nêu luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những quy định về tội chống người thi hành công vụ trong
lịch sử và trong pháp luật hình sự Việt Nam, làm rõ khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý của tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330
Chương XXII về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính trong BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi chung là BLHS năm 2015);
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về
định tội danh và QĐHP của tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn
thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019.
4
- Đề xuất giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả các quy định của pháp luật
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống và xử lý loại tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một số vấn đề lý luận về tội chống người thi hành
công vụ, thực trạng của tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội, việc áp
dụng những quy định của luật hình sự trong thực tiễn xét xử tội chống người
thi hành công vụ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
tội chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 BLHS năm
2015. Bên cạnh đó, để có cái nhìn tổng quan và cụ thể hơn về tội phạm này,
luận văn cũng đã đề cập tới một số văn bản pháp luật liên quan đến tội chống
người thi hành công vụ nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết nhiệm vụ và đối
tượng nghiên cứu mà luận văn đã nêu.
Địa bàn, thời gian, nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu về thực
tiễn áp dụng các quy phạm của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi
hành công vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019
thông qua số liệu xét xử hình sự của TAND tối cao và các bản án hình sự sơ thẩm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những chính sách, quan điểm
của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn là sự tham khảo và kế thừa những thành công của các chuyên
ngành khoa học pháp lý như: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Lịch
5
sử nhà nước và pháp luật, Tội phạm học, Xã hội học, Luật Hình sự, những
luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu cũng như các bài viết,
những bình luận khoa học của các nhà khoa học được đăng trên báo và tạp chí
chuyên ngành, các văn bản pháp luật… Luận văn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp, lịch sử…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tương đối
cụ thể và có hệ thống về tội chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự
Việt Nam, thực tiễn của tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội và các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội chống người thi hành công vụ.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao
nhận thức về tội chống người thi hành công vụ, pháp luật hình sự về tội chống
người thi hành công vụ, từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử
lý tội phạm này trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội chống người thi hành công vụ
trong pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
chống người thi hành công vụ tại thành phố Hà Nội.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về tội chống người thi hành công vụ.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CÔNG VỤ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến tội chống người
thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm về công vụ
“Công vụ” là một khái niệm rộng và có ý nghĩa quan trọng trong nền
hành chính nhà nước. Trong lý luận khoa học, công vụ được cấu thành từ
nhiều yếu tố tổng hợp lại như: đội ngũ cán bộ, công chức, tổ chức bộ máy cơ
quan nhà nước và cuối cùng là thể chế công vụ [21].
Nhiều văn bản pháp lý đã đề cập tới thuật ngữ “công vụ” dưới nhiều
góc độ khác nhau. Cụ thể là: trong Mục 1, Chương 2, Nghị quyết số
04/HĐTPTANDTC/NQ, ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối
cao đưa ra định nghĩa khái niệm công vụ như sau: “Công vụ là một công việc
mà cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực hiện”.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tại Điều 2, nêu như sau: “Hoạt động
công vụ của cán bộ, công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ,
công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”
[18]. Theo quy định này, phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ đã được xác
định cụ thể là hoạt động nhằm thực hiện công việc do Nhà nước giao trên cơ
sở quy định của pháp luật. Do đó, đặc điểm quan trọng nhất của “công vụ” là
tính tuân theo pháp luật. Đồng thời, đối tượng thực hiện “công vụ” cũng được
xác định cụ thể là “cán bộ, công chức”.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, tại Điều 3 có nêu
phạm vi hoạt động “công vụ” như sau: “Người thi hành công vụ là người được
bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà
7
nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc
người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có
liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án” [19].
Như vậy, phạm vi hoạt động của “công vụ” được giới hạn ở trong lĩnh vực quản
lý hành chính, tố tụng và trong thi hành án.
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra những đặc điểm và tính chất của
công vụ cũng như mục đích phục vụ Nhân dân và xã hội của công vụ: Công
vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội
ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của Nhà nước trong quá trình
quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội do công chức nhân danh Nhà
nước tiến hành. Đối với khái niệm hoạt động công vụ, có thể hiểu hoạt động
này là việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước, mang
tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước và chịu sự tác động, điều
chỉnh bởi ý chí của Nhà nước, hướng tới mực tiêu quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội theo quy định của pháp luật, phục vụ lợi ích của nhân dân và xã
hội, không có yếu tố lợi nhuận, hoạt động này được tiến hành bởi công chức
nhà nước theo trình tự pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Hoạt động công vụ
có đặc điểm là được tiến hành thường xuyên, mang chuyên nghiệp cao. Ngoài
ra hoạt động công vụ còn là những hoạt động của các tổ chức do nhà nước
thành lập (được nhà nước ủy quyền). Đặc điểm quan trọng nhất của công vụ
là tính đúng pháp luật, đúng quy trình, đúng thủ tục và người được giao theo
đúng thẩm quyền. Nếu hoạt động không tuân thủ pháp luật, không đúng quy
trình của hoạt động công vụ thì được coi là “làm trái công vụ” hoặc không
phải là hoạt động công vụ.
1.1.2. Khái niệm người thi hành công vụ
Để xác định như thế nào là người thi hành công vụ phải xét ở ba khía
cạnh: Về chủ thể, về phạm vi thực hiện nhiệm vụ và về thời gian thực hiện
nhiệm vụ.
8
- Về chủ thể: Chủ thể thực thi công vụ phải là cán bộ, công chức, viên
chức theo quy định của pháp luật, hiện đang công tác, làm việc tại các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội hoặc một công dân bất kỳ nếu được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền huy động, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.
- Về phạm vi thực hiện nhiệm vụ: một người được coi là người thi hành
công vụ chỉ khi họ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức hướng đến mục tiêu phục vụ lợi ích chung của Nhà nước,
của cộng đồng. Người đang thi hành công vụ phải là người đang thực thi một
công vụ hợp pháp với các quy trình, thủ tục theo đúng pháp luật.
- Về thời gian thực hiện nhiệm vụ: Người đang thi hành công vụ là
người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc nhiệm vụ đó.
Theo quy định tại Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ, ngày
29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thì: “Người thi hành công
vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã
hội, thực hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công
dân được huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch
của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội”
[ ]. Phân tích quy định nêu trên cho thấy, người thi hành công vụ được hiểu là
những người có chức vụ và quyền hạn làm việc trong các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị, xã hội mà các cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình hoặc công dân được trưng dụng thực hiện các nhiệm vụ theo phân
công, yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền.
Điều 3, Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2017, nêu khái
niệm về “người thi hành công vụ” như sau: “Người thi hành công vụ là người
được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ
quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án
hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm
vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” .
9
Trong Điều 3, Nghị định số 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của
Chính phủ quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những
hành vi chống người thi hành công vụ nêu ra khái niệm: “Người thi hành công
vụ là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ
trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo
vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, Nhân dân và xã hội”.
Những khái niệm về người thi hành công vụ nêu trên đã bao quát được
một số khía cạnh về người thi hành công vụ, như: chủ thể và phạm vi thực hiện
nhiệm vụ của người thi hành công vụ nhưng chưa đề cập đến thời gian thực
hiện nhiệm vụ của người thi hành công vụ. Thời gian thực hiện nhiệm vụ của
người thi hành công vụ là một trong những yếu tố quan trọng, là cơ sở cần thiết
để xác định loại tội phạm này, bởi công vụ được xem là người thi hành công vụ
khi họ “đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ và chưa kết thúc nhiệm vụ đó”.
1.1.3. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi
hành công vụ
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm tội chống người thi hành công vụ
Nghị định số 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy
định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi chống
người thi hành công vụ quy định: “Hành vi chống người thi hành công vụ là
hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc không chấp hành hiệu lệnh, yêu
cầu của người thi hành công vụ hoặc có hành vi khắc nhằm cản trở người thi
hành công vụ thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc ép buộc người thi hành
công vụ không thực hiện nhiệm vụ được giao” [Điều 3].
Hành vi chống người thi hành công vụ trong tội chống người thi hành
công vụ là hành vi xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cơ quan,
10
tổ chức, cá nhân được giao quyền và có thể xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người được giao thi hành công vụ.
Tội chống người thi hành công vụ có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ có cấu thành tội phạm là
hành vi xâm phạm tới hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực hành
chính, tố tụng và thi hành án; xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan
nhà nước, tổ chức, cá nhân người thi hành công vụ làm giảm hiệu lực, hiệu
quả quản lý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có công vụ thực thi. Tội chống
người thi hành công vụ xâm hại, tác động trực tiếp tới quan hệ xã hội thuộc
lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án liên quan tới hoạt động
“công vụ” thông qua việc tác động trực tiếp đến người đang thi hành công vụ.
Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi thuộc tội chống người thi hành công
vụ phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (đủ độ tuổi chịu TNHS;
không thuộc trường hợp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển
hành vi do mắc bệnh theo quy định của luật).
Thứ ba, hành vi của tội chống người thi hành công vụ là hành vi cố ý
cản trở, gây khó khăn cho việc thực hiện công vụ do người thi hành công vụ
đang tiến hành. Có thể hiểu “cản trở người thi hành công vụ” là làm người thi
hành công vụ không thực hiện được công vụ hoặc làm họ thực hiện hành vi
trái với công vụ.
Người đang thi hành công vụ là người đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ
được giao và vẫn chưa kết thúc, trong trường hợp người được giao thực hiện
công vụ chưa bắt đầu công việc của mình hoặc đã kết thúc nhiệm vụ mà bị xâm
phạm thì không cấu thành tội chống người thi hành công vụ, mà tùy từng
trường hợp cụ thể để xác định cấu thành của một tội phạm khác có tình tiết “vì
lý do công vụ của nạn nhân”. Trường hợp người thi hành công vụ làm trái pháp
luật hay “trái công vụ” mà bị cản trở, xâm phạm thì người có hành vi cản trở,
xâm phạm không phải chịu trách nhiệm về tội chống người thi hành công vụ.
11
1.1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ
Trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam, CTTP được định nghĩa như sau:
“Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan và chủ
quan) do Luật Hình sự quy định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ
thể là tội phạm” [21]. Cấu thành tội phạm bao gồm các thành tố sau: Khách thể
của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt chủ quan
của tội phạm.
Nhìn nhận từ phương diện khoa học hình sự Việt Nam, tội chống người
thi hành công vụ có cấu thành hình thức, chính vì vậy hậu quả xảy ra không
phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội chống người thi hành công
vụ. Tội chống người thi hành công vụ được xác định hoàn thành tính từ thời
điểm người phạm tội thực hiện một trong các hành vi như: dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm cản trở người thi hành công vụ
thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Khách thể của tội phạm chống người thi hành công vụ là sự xâm phạm
trật tự quản lý hành chính, xâm phạm sự hoạt động bình thường của cơ quan
nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước. Nhóm các quan
hệ xã hội bị hành vi chống người thi hành công vụ xâm hại là các quan hệ
phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, còn đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp từ những tội phạm chính là những người thi hành công vụ.
Ngày nay, phạm vi và đối tượng tác động của loại tội phạm này ngày càng có
xu hướng mở rộng, tội phạm không chỉ chống người thi hành công vụ là Cảnh
sát giao thông, cán bộ công an, cán bộ chính quyền địa phương mà còn có
những hành vi chống đối rất nguy hiểm đối với cán bộ kiểm lâm, cảnh sát
biển, cảnh sát phòng, chống tội phạm về ma túy...
Mặt khách quan của tội phạm chống người thi hành công vụ là mặt bên
ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn
tại bên ngoài thế giới khách quan như: Hành vi nguy hiểm cho xã hội (gắn
12
liền với hành vi là các dấu hiệu như: Công cụ, phương tiện, thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh phạm tội, phương pháp và thủ đoạn…), hậu quả nguy hiểm
cho xã hội hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Theo Điều 330
BLHS năm 2015, hành vi của người phạm tội chống người thi hành công vụ
phải thỏa mãn một trong ba hành vi khách quan sau:
- Hành vi dùng vũ lực: Đó là hành vi dùng sức mạnh vật chất tấn công,
hành hung trực tiếp lên người thi hành công vụ cản trở người thi hành công vụ
thực hiện nhiệm vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
với những hành động như: Đấm, đá, bắt, nhốt, đâm, chém… Hành vi dùng vũ
lực đối với người thi hành công vụ có thể làm cho người thi hành công vụ bị
thương, bị tổn hại đến sức khỏe nhưng không đòi hỏi phải gây ra thương tích
đáng kể (có tỷ lệ tổn thương cơ thể). Trong trường hợp xảy ra hậu quả người
thi hành công vụ chết, thì căn cứ vào tình huống cụ thể để xem xét hành vi
chống người thi hành công vụ cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 BLHS năm 2015 hoặc Tội
giết người theo Điều 123 BLHS năm 2015, áp dụng tình tiết tăng nặng đó là
thực hiện hành vi “đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ
của nạn nhân”. Như vậy, khi xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự, thì phải
xem xét tới hậu quả của hành vi sử dụng vũ lực gây ra đối với người thi hành
công vụ để xem xét định tội danh khác nhau đối với người sử dụng vũ lực.
- Hành vi đe dọa sử dụng vũ lực: được xác định là những hành vi gây
uy hiếp tinh thần, đe dọa sử dụng sức mạnh vật chất để cản trở người thi hành
công vụ nếu như họ vẫn tiếp tục thực thi nhiệm vụ của mình, khiến cho người
thi hành công vụ sợ hãi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ
được giao hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi đe dọa
dùng vũ lực có thể bằng lời nói, hoặc cử chỉ có tính răn đe uy hiếp và mang
tính chất hiện thực khiến người thi hành công vụ tin rằng ngay lập tức nó có
thể được thực hiện.
13
- Hành vi dùng thủ đoạn khác, như: chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm, bôi nhọ hoặc vu khống, tuyên truyền sai sự thật về nhân thân và trách
nhiệm, nhiệm vụ của người thi hành công vụ; đe dọa công bố những thông
tin, tài liệu bất lợi, đe dọa hủy hoại tài sản của người thi hành công vụ hoặc
gây thương tích, đe dọa gây thương tích cho người thân của họ… nhằm mục
đích cản trở việc thực thi nhiệm vụ của người thi hành công vụ hoặc ép người
thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chủ thể của tội phạm chống người thi hành công vụ được xác định là
cá nhân cụ thể có đủ năng lực nhận thức và năng lực hành vi, đáp ứng yêu cầu
về độ tuổi chịu TNHS theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, chủ thể của
tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Theo quy định về
khung hình phạt ở khoản 1 Điều 330 về tội chống người thi hành công vụ phạt
“cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” và
quy định khung hình phạt tại khoản 2 với mức “phạt tù từ 02 năm đến 07
năm” thì tội chống người thi hành công vụ có thể là tội phạm ít nghiêm trọng
hoặc tội phạm nghiêm trọng nên chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và có năng lực TNHS.
Mặt chủ quan của tội phạm chống người thi hành công vụ có mối quan
hệ chặt chẽ với mặt khách quan và là một hiện tượng thống nhất, luôn gắn
liền với nhau, không tồn tại độc lập. Có thể hiểu nó là hoạt động tâm lý bên
trong của người phạm tội với ba yếu tố cơ bản: Lỗi, động cơ phạm tội và mục
đích phạm tội, điều này là cơ sở phân biệt với mặt khách quan của tội phạm.
Tuy nhiên, lỗi là dấu hiệu chủ quan bắt buộc trong tất cả các CTTP, nó có ý
nghĩa quyết định trong việc xác định TNHS, còn động cơ phạm tội và mục
đích phạm tội nó không mang tính chất bắt buộc, nhưng lại là dấu hiệu xác
định tội danh trong một số CTTP. Mặt chủ quan của tội phạm chống người thi
hành công vụ đặc trưng bởi hai dấu hiệu: Lỗi cố ý trực tiếp và mục đích cản
trở việc thi hành công vụ.
14
- Xem thêm -