Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội giết người từ thực tiễn tỉnh bắc giang...

Tài liệu Luận văn tội giết người từ thực tiễn tỉnh bắc giang

.PDF
77
101
51

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ THIÊM TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ THIÊM TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH Hà Nội - 2020 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI .................................................................................................. 8 1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người ............................................... 8 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giết người ............. 18 Tiểu kết Chương 1..................................................................................... 26 Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI TẠI TỈNH BẮC GIANG ....... 27 2.1. Những yếu tố tác động đến áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội giết người tại tỉnh Bắc Giang ............................................. 27 2.2. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người tại tỉnh Bắc Giang ........................................................................... 30 Tiểu kết Chương 2..................................................................................... 44 Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI........ 45 3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người ............................................................................................. 45 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người ........................................................................................ 46 KẾT LUẬN .................................................................................................... 63 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự ĐTD Định tội danh QĐHP Quyết định hình phạt TNHS Trách nhiệm hình sự TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình xét xử các tội xâm phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm so với tổng số tội phạm được TAND hai cấp tỉnh Bắc Giang xét xử giai đoạn 2015 – 2019. Bảng 2.2. Tình hình xét xử tội giết người so với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đã được TAND tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019. Bảng 2.3. Những hình phạt đối với các bị cáo phạm giết người từ năm 2015 đến năm 2019 được TAND tỉnh Bắc Giang áp dụng. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền sống là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quan trọng của quốc tế, của các quốc gia khác nhau và của nước ta như: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966; Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm 1989; Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776; Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam 1945... Tại Điều 3 của bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”. Trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2 tháng 9 năm 1945 không những đã kế thừa tinh hoa về quyền con người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới bằng việc nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ và “Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền” của Pháp. Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đặc biệt, tại Điều 19 Hiến pháp 2013 một lần nữa đã khẳng định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Bên cạnh sự ghi nhận trên của Hiến pháp, để bảo vệ quyền sống, tính mạng của con người không thể không kể đến vai trò to lớn của pháp luật hình sự mà trực tiếp là Bộ luật hình sự, với “nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân 1 theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”, đã quy định hành vi xâm phạm quyền sống, tính mạng của con người là tội phạm với những chế tài rất nghiêm khắc tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt Bộ luật hình sự 2015). Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội thì tình trạng xâm phạm quyền sống, tính mạng của người khác đang diễn biến hết sức phức tạp trong đó có tỉnh Bắc Giang. Theo thống kê của TAND tỉnh Bắc Giang giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, Tòa án tỉnh đã xét xử sơ thẩm 53 vụ với 73 bị cáo tội giết người, chiếm tỷ lệ 36,05% số vụ và 26,54 % trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đã được TAND tỉnh đưa ra xét xử sơ thẩm, trong đó có những vụ rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội có tính chất côn đồ, manh động gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: Vụ án Dương Minh Sơn ở xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang dùng búa đánh chết 02 người xảy ra ngày 07/4/2018; vụ Nguyễn Thị Nga ở xã Thượng Lan, huyện Việt Yên dùng dao cắt gân, động mạnh ở cổ tay và chân ông Nguyễn Đức Liên ở cùng xã gây tử vong, xảy ra ngày 08/4/2018; vụ Hà Thị Móc ở xã Liên Sơn, huyện Tân Yên do mâu thuẫn gia đình đã dùng 02 lọ thuốc diệt chuột trộn với cháo để cho chồng và con ăn xảy ra ngày 29/4/2018 [50]... Nhiều tội phạm giết người xuất phát từ mâu thuẫn trong gia đình, xã hội như: Vụ Nông Văn Thùy, sinh năm 1982 ở xã An Lập, huyện Sơn Động do mâu thuẫn gia đình đã dùng chày gỗ đánh vào đầu mẹ đẻ là Nông Thị Quỳ, sinh năm 1953 làm bà Quỳ bị chết xảy ra ngày 01/02/2015; vụ Đỗ Văn Thành, sinh năm 1990 ở xã Phượng Sơn, huyện Lục Nam do mâu thuẫn trong lúc làm ruộng đã dùng cuốc bản đập vào đầu em ruột là Đỗ Thị Thủy, sinh năm 1996 gây tử vong xảy ra ngày 07/3/2015; vụ Tạ Văn Sỹ, sinh năm 1973 ở xã Hà Châu, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên do mâu thuẫn trong việc đòi nợ đã dùng 01 khẩu súng colt bắn bị thương chị Nguyễn Thị Lâm, sinh năm 1977 ở 2 xã Thanh Vân, huyện Hiệp Hòa xảy ra ngày 21/01/2015 [50].... đã thể hiện sự phức tạp và sự xuống cấp về mặt đạo đức của một nhóm đối tượng trong xã hội. Trong khi đó, khảo sát một số bản án của TAND tỉnh Bắc Giang vẫn cho thấy một số vụ án bị hủy để điều tra lại do thiếu chứng cứ buộc tội đối với bị cáo (như vụ án Vi Văn Phượng) trước đó là vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, Hàn Đức Long...và việc quyết định hình phạt vẫn còn không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội...nguyên nhân xuất phát từ năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức Cơ quan tố tụng trong tỉnh vẫn còn hạn chế. Sau khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật toàn bộ từ ngày 01/01/2018 thì một số quy định về tội giết người chưa được hướng dẫn, giải thích kịp thời gây khó khăn cho việc áp dụng...Tính đến nay, về đề tài “Tội giết người” chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện trên địa bàn một tỉnh là Bắc Giang trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, vì vậy, việc nghiên cứu “Tội giết người từ thực tiễn tình Bắc Giang” có tầm quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian vừa qua, liên quan đến đề tài nêu trên, đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết tạp chí, bài nghiên cứu đề cập đến, mà điển hình là: (i) Về giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo: GS.TS.Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên) (2018), 3 Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội; TS Nguyễn Đức Mai (2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học luật hình sự (phần các tội phạm), tập I, Nxb Tp. Hồ Chí Minh; Trần Văn Luyện (2001), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội; Đỗ Đức Hồng Hà (2009), Tội giết người và đấu tranh phòng, chống tội phạm giết người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội; v.v... Tóm lại: Các công trình khoa học trên chủ yếu nghiên cứu tội giết người với 04 yếu tố cấu thành tội phạm, cùng với các tội danh khác, chưa đi sâu phân tích tồn tại, hạn chế và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội danh này. (ii) Về luận án, luận văn Đỗ Đức Hồng Hà (2006), Tội Giết người trong Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Trịnh Văn Toản (2017), Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học Viện khoa học xã hội, Hà Nội; v.v… (iii) Một số công trình khác: Nguyễn Đức Dũng (2007), Nguyễn Công, Đoàn Minh Hợp phạm tội giết người, Tạp chí Toà án nhân dân, số 11, Hà Nội; Nguyễn Văn Lam (2007), Hồ Ngọc Sang, Nguyễn Công, Đoàn Minh Hợp phạm tội giết người hay tội cố ý gây thương tích, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7, Hà Nội; Đỗ Đức Hồng Hà (2004), Một số quan điểm khác nhau về định nghĩa về đối tượng tác động của tội giết người, Tạp chí Tòa án, số 13/2004; Đỗ Đức Hồng Hà (2004), Chủ thể của tội giết người – Một số vấn đề lý luận và thực 4 tiễn, Tạp chí Tòa án, số 23/2004, Hà Nội. Nhận xét chung: Các công trình khoa học nêu trên chủ yếu nghiên cứu tội giết người cùng với các tội danh khác, hoặc chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh của tội giết người, đa số các công trình nghiên cứu trong bối cảnh BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về tội giết người theo pháp luật hình sự hiện hành từ thực tiễn một địa bàn cụ thể là tỉnh Bắc Giang, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài trên có tính cấp thiết về cả lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội giết người, kiến nghị những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án giết người. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: Phân tích một số vấn đề lý luận về tội giết người trong pháp luật Việt Nam như khái niệm, dấu hiệu pháp lý, phân biệt tội giết người với một số tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm dễ gây nhầm lẫn; lịch sử lập pháp tội giết người từ sau năm 1945 đến BLHS năm 2015. Phân tích khái quát tình hình thụ lý, giải quyết các vụ án giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giết người trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, với những kết quả đạt được và một số tồn tại, thiếu sót cùng nguyên nhân trong các hoạt động này. Từ kết quả phân tích trên, luận văn đưa ra một số giải pháp đảm bảo 5 áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội giết người trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và địa bàn cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về định tội danh và quyết định hình phạt tội giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, từ năm 2015 đến năm 2019. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các hoạt động vận dụng, áp dụng các quy định của pháp luật về tội giết người để buộc tội người thực hiện hành vi phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang. Phạm vi khảo sát: tỉnh Bắc Giang. Phạm vi thời gian: từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn bản pháp luật của Nhà nước về các vấn đề tội phạm và hình phạt; lý luận về Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nghiên cứu tài liệu, trao đổi phỏng vấn, quy nạp, diễn dịch, mô tả ... để hoàn thiện luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận, nhận thức pháp luật về tội giết người, vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với người 6 phạm tội. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học giải nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài. Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là nguồn tài liệu tham khảo trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội giết người của Cơ quan có thẩm quyền tố tụng, đặc biệt là tỉnh Bắc Giang. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho hoạt động ban hành pháp luật, đồng thời là nguồn tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương, cụ thể là: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người. Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người tại tỉnh Bắc Giang. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 1.1. Những vấn đề lý luận về tội giết người 1.1.1. Khái niệm tội giết người Tội giết người là một trong những tội phạm truyền thống, được thể hiện trong rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả đưa ra khái niệm tội giết người trong các công trình khoa học khác nhau. Một số khái niệm tiêu biểu như: Theo GS. TS. Võ Khánh Vinh: Tội giết người là hành vi trái pháp luật của người đủ năng năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước đoạt quyền sống của người khác [51; tr. 51]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra quan điểm: Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác [26; tr. 57]. Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp, trong cuốn Bình luận khoa học luật hình sự cho rằng: Giết người được hiểu là hành vi làm chết người khác một cách cố ý và trái pháp luật. [12; tr. 28]. TS. Trần Văn Biên và TS. Đinh Thế Hưng cho rằng: Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi giết người là một hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm trực tiếp đến tính mạng người khác bị xã hội kịch liệt lên án. [7; tr. 138]. Trong đó “tước đoạt” là “tước và chiếm lấy sự sống của người khác” và “tước đoạt” đã bao gồm sự cố ý nên không cần thiết phải quy định “tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng” [6, tr. 1652 và 1767]. Nhận xét: Các công trình khoa học nêu trên đều thống nhất với nhau ở nội hàm tội giết người, đó là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, xâm phạm đến quyền sống của họ. 8 Trong pháp luật hình sự Việt Nam vẫn có những trường hợp tước đoạt mạng sống người khác được pháp luật cho phép như: Thi hành hình phạt tử hình đối với người bị kết án tử hình (sau khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và không được giảm xuống chung thân), hoặc trường hợp phòng vệ chính đáng, rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ… Mặc dù BLHS năm 2015 nhà làm luật chưa đưa ra khái niệm pháp lý về tội giết người nhưng khái niệm tội phạm đã được ghi nhân tại Điều 8: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Đây là khái niệm pháp lý tương đối hoàn chỉnh về tội phạm, là cơ sở quan trọng để xây dựng khái niệm các tội phạm cụ thể. Trong BLHS năm 2015 thì tội giết người được quy định tại Điều 123, Chương II, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng của người khác (là hành vi có lỗi xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác). Theo tác giả, để xây dựng khái niệm về tội giết người hoàn chỉnh bên cạnh chỉ ra được bản chất của tội giết người là tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, cần phải nêu được yếu tố chủ thể, khách thể của tội phạm. Tiếp thu kết quả nghiên cứu của một số công trình nêu trên và quy định của pháp luật hiện hành, tác giả đưa ra khái niệm về tội giết người như 9 sau: Tội giết người là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật, nhằm xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý tội giết người * Thứ nhất: Khách thể của tội giết người Tội giết người được quy định tại Điều 123, Chương II: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng của người khác. Khách thể loại của tội là quan hệ nhân thân, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phạm, danh dự của con người. Còn khách thể trực tiếp của tội này là quyền được sống, được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Tuy nhiên, để xâm phạm đến khách thể tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng, chủ thể phải tác động thông qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, đây là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [28; tr. 94]. Theo đó, đối tượng tác động của tội giết người là con người đang sống, được xác định từ thời điểm một người sinh ra, độc lập với cơ thể mẹ và chấm dứt khi có cái chết về mặt sinh học. Khoa học pháp y chia quá trình chết theo 03 giai đoạn là giai đoạn hấp hối, giai đoạn chết lâm sang và giai đoạn chết sinh học. Trong đó chết sinh học là giai đoạn chết thực thể của mô – tế bào. Quá trình trao đổi chất của cơ thể ngừng lại. Bắt đầu xuất hiện sự thoái hóa, hoại tử không còn khả năng hồi phục [30; tr. 51]. Tuy nhiên, nếu thai nhi sinh ra và còn sống trong 07 ngày tuổi trở lại, mà người mẹ giết con mình thì không cấu thành tội giết người mà cấu thành tội giết con mới đẻ theo Điều 124 BLHS. 10 * Thứ hai: Mặt khách quan của tội giết người: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [27, tr.116]. - Về hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, đây là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ, có thể được thực hiện bằng hình thức: + Hành động: người phạm tội đã chủ động thực hiện các hành vi mà pháp luật không cho phép (có hoặc không sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm) như hành động bắn, đâm, chém, bóp cổ, đẩy xuống sông, dùng thuốc độc...) nhằm tước bỏ tính mạng người khác. + Hành vi khác quan của tội giết người cũng có thể là không hành động, khi chủ thể có nghĩa vụ phải hành động, phải làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những việc làm đó, gây ra cái chết cho con người. Ví dụ: Người mẹ không cho con 02 tuần tuổi của mình ăn, uống, bỏ mặc đến chết. - Dấu hiệu hậu quả của tội phạm: Tội giết người là tội có cấu thành vật chất. Tội phạm được coi là hoàn thành khi có hậu quả chết người. - Dấu hiệu quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người: Người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác chỉ phải chịu TNHS về hậu quả chết người xảy ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra đó. * Thứ ba: Chủ thể của tội giết người: Chủ thể của tội giết người là chủ thể thường, là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định thông qua tình trạng không có năng lực 11 trách nhiệm hình sự tại Điều 21 BLHS và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS. Căn cứ theo các quy định trên thì chủ thể của tội giết người là cá nhân, từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. ` * Thứ tư: Mặt chủ quan của tội giết người Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm chỉ bao gồm lỗi, mục đích và động cơ, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP. [28; tr. 133,134]. - Dấu hiệu lỗi của chủ thể: Lỗi của người phạm tội được xác định trong CTTP tội giết người là lỗi cố ý (có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Đối với trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra, thì khoa học luật sự xác định một số trường hợp như sau: Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp thì người phạm tội phải chịu trách nhiệ hình sự về tội giết người chưa đạt. + Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý gián tiếp thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệ hình sự về tội cố ý gây thương tích (nếu thương tích xảy ra thỏa mãn đòi hỏi của CTTP tội này) mà không phải chịu TNHS về tội giết người chưa đạt [29]. Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự, việc xác định lỗi của chủ thể là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp không đơn giản mà trong nhiều trường hợp hết sức phức tạp. Trong trường hợp này cần dựa vào các biểu hiện của mặt khách quan như sự mãnh liệt của hành vi tấn công, hung khí, công cụ phạm tội, vị trí tấn công. - Dấu hiệu mục đích, động cơ phạm tội: Mục đích, động cơ phạm tội không được mô tả trong CTTP (cơ bản) của tội giết người. Tuy nhiên, trong thực tế hành vi cố ý tước đó mạng người khác vì mục đích nhất định hoặc do động cơ nhất định có thể cấu thành tội phạm khác mà không cấu thành tội giết người. Ví dụ: Hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật của người khác vì mục 12 đích chống chính quyền nhân dân cấu thành tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân Điều 113 BLHS… 1.1.3. Phân biệt tội giết người với một số loại tội phạm trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người 1.1.3.1. Phân biệt với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (nhưng dẫn đến hậu quả chết người) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 (BLHS 2015) với tình tiết tăng nặng là “Làm chết người” dễ gây nhầm lẫn với “Tội giết người” quy định tại Điều 123 Bộ luật này. Giữa hai tội danh này có những điểm khác nhau cơ bản sau đây: - Mục đích của hành vi phạm tội: + Tội giết người: Có mục đích tước đoạt tính mạng của người khác. + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (hậu quả làm chết người): Chỉ có mục đích gây thương tích mà không có ý định tước bỏ tính mạng của người khác. Chú ý: Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người” [15]. - Mức độ tấn công, cường độ tấn công, vị trí tác động: + Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn 13 công mạnh có thể gây chết người. Tấn công vào các vị trí trọng yếu của nạn nhân: đầu, ngực, bụng… + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (hậu quả làm chết người): Mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập với cường độ tấn công nhẹ hơn. Không nhằm vào các vị trí trọng yếu. - Hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: + Tội giết người: Có tính chất nguy hiểm cao: súng, dao… + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (hậu quả làm chết người): Ít nguy hiểm hơn, khó gây chết người hơn so với tội giết người. - Lỗi của người phạm tội với hậu quả chết người: + Tội giết người: Có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (hậu quả làm chết người): Có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Chú ý: Với trường hợp người phạm tội thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng bỏ mặc cho hậu quả ra sao cũng được thì phải dựa vào hậu quả để định tội danh: Nếu hậu quả là chết người thì tội danh là “Giết người”. Nếu hậu quả là gây thương tích thì tội danh là “Cố ý gây thương tích”. - Tính nguy hiểm cho xã hội và hình phạt: + Tội giết người: Có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn. Hình phạt nghiêm khắc hơn: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 1); Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (khoản 2). + Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (hậu quả làm chết người): Có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn. Hình phạt ít nghiêm khắc hơn: Phạt tù từ 07 năm đến 14 năm (khoản 4); Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 5). 14 1.1.3.2. Phân biệt với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 125 BLHS năm 2015. Việc phân biệt hai tội danh này chủ yếu dựa vào yếu tố tâm lý là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội, hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. - Định tội danh là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi thỏa mãn đồng thời các dấu hiệu sau đây: + Về trạng thái tinh thần: “Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình…” [32], nhưng chưa đến mức mất toàn bộ khả năng điều khiển hành vi, diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó sẽ trở lại bình thường. + Nạn nhân phải có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với những người thân thích của người phạm tội như xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản...Hoặc cũng có thể là hành vi trái pháp luật, trái đạo đức diễn ra thường xuyên, liên tục gây ức chế tâm lý cho người phạm tội. [32]. + Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. * Thực tiễn theo Án lệ số 28/2019/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì: Bị hại là người gây sự, tấn công bị cáo trước. Hành vi tấn công của bị hại diễn ra liên tục với mức độ tăng dần. Hành vi của bị hại 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan