VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THẾ THANH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THẾ THANH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.TRẦN HỮU TRÁNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nào.
TÊN TÁC GIẢ
NGUYỄN THẾ THANH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN .................................................................................... 9
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản ................. 9
1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam .............................................................................................. 21
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam........................................................ 32
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................... 40
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình
giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội ....................................................................................................... 40
2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận
Đống Đa – Thành phố Hà Nội .................................................................. 44
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN ĐỐNG ĐA –
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 66
3.1 Yêu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tội trộm cắp tài sản. ........ 66
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm cắp
tài sản ......................................................................................................... 68
3.3. Các giải pháp về tổ chức thực hiện các quy định pháp luật hình sự
Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành
phố Hà Nội ................................................................................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
NXB
Nhà xuất bản
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
TAND
Tòa án nhân dân
CSĐT
Cảnh sát điều tra
QPPL
Quy phạm pháp luật
DANH MỤC BẢNG
Bảng số 2.1: Tổng số vụ án, số bị cáo bị xét xử về tội trộm cắp tài sản
trong tương quan với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác trên địa
bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019 ...... 45
Bảng 2.2: Số vụ án hình sự bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm
2015 đến năm 2019 ............................................................................... 45
Bảng 2.3: Kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án phạm tội trộm cắp tài sản trên
địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố HN từ năm 2015 đến năm 2019...... 46
Bảng 2. 4: Thống kê chế tài được áp dụng khi giải quyết tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Đống Đa từ năm 2015 đến năm 2019 ................ 50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn lại ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta do Đảng lãnh
đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện trên tất các các mặt của đời
sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng
ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống
của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt
được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và không ít vấn đề bức xúc nảy sinh
chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống thực dụng
và hưởng thụ của một bộ phận con người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã
hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc
biệt là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Để
bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, từ Bộ luật
hình sự năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa cho đến Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong
phần các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội
trộm cắp tài sản.
Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm cho thấy,
nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao. Số vụ trộm cắp tài sản
trên địa bàn quận Đống Đa đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao và được đưa ra xét
xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói riêng trên địa bàn quận
Đống Đa vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do ý thức tự bảo vệ tài sản của
mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn
1
chưa cao; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế
nhưng công tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, không quan
tâm trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa
và chống tội phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù
để tái hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa được tạo điều
kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo điều kiện về công ăn việc
làm, do đó số đối tượng này không có việc làm còn nhiều nên tỷ lệ tái phạm còn
cao. Đặc biệt, quá trình áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
của các cơ quan bảo vệ pháp luật của Quận Đống Đa còn có những hạn chế, một
số vụ việc chưa đánh giá hết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nên việc định tội danh và áp dụng hình phạt còn chưa thật chính xác; việc áp
dụng một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả chưa
cao. Chính vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn
quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên
cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần bảo đảm việc
áp dụng đúng pháp luật hình sự, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản tại quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng pháp luật hình sự áp dụng
cho tội trộm cắp tài sản đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà tội phạm
học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu Luật. Tính đến thời điểm nghiên cứu có thể
chia các công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự
thành hai nhóm lớn sau:
Thứ nhất, nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: Các
công trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam nhắc đến như sau: Nguyễn Bá Vinh (2019), Tội Trộm cắp tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi,
2
Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Lê Ngọc Như Chi (2018), Áp
dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội; Phạm Tuấn
Anh (2018), Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã
hội; Lê Thị Bình (2018), Tội trộm cắp tài sản theo Pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội;
Phạm Thu Hà (2016) Tội trộm cắp tài sản trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tội
trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thu Ba (2016), Tội trộm cắp tài
sản theo Luật hình sự VN( trên cơ sở số liệu xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội…. Các công trình nghiên cứu này
đã phân tích, làm rõ được một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài
sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản cũng như lịch sử hình thành
và phát triển của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó
còn chỉ ra thực trạng xảy ra tội trộm cắp tài sản trên địa bàn nhất định Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang
tính lý luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này, Thêm vào đó
công trình đã được công bố từ lâu, chưa cập nhật được các quy định mới về
tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Thứ hai, nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này
có thể kể đến các bài viết như: Hồ Sỹ Sơn, Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ
so sánh pháp luật từ một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã
hội - Số 7/ 2016, tr.12-20; Đinh Công Thành, "Bình luận về tội trộm cắp tài
sản", Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2018, tr. 43 – 49; Phan Anh Tuấn, Một số đề
xuất hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
3
năm 2015, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 8/2015, tr.48-55; Dương Vân Anh,
Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản, Tạp chí Kiểm sát -số
23/ 2014, tr.49-52, 62; Nguyễn Thị Xuân, Hoàn thiện quy định cấu thành tội
trộm cắp tài sản tại điều 138 Bộ Luật hình sự, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21/2015, tr.37-40; Lê Văn Định, “Bàn về nguyên nhân và điều kiện của tội
trộm cắp tài sản ở Tây Nguyên”, Tạp chí Kiểm sát. Số 10/2017, tr. 20 – 24;
Lê Văn Định, “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” Tại chí Kiểm sát. Số 6/2015,
tr. 47 – 53; Đỗ Lường Thiện, “Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về
tội trộm cắp tài sản”, Tạp chí Nghề luật. Số 4/2017, tr. 71 – 73; Trần Mạnh
Hà, “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội
danh”, Tạp chí Toà án nhân dân. Số 10/2006, tr. 23 – 28……Các bài viết kể
trên đề cập những vấn đề cơ bản về lý luận của tội trộm cắp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam như: Khái niệm, ý nghĩa, các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có phân biệt giữa tội trộm cắp tài
sản với các tội trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu khác. Các bài
viết trên đều đến thực tiễn áp dụng cũng như chỉ ra những bất cập, vướng mắc
khi giải quyết án hình sự đối với tội danh là trộm cắp tài sản, đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện pháp luật liên quan đến tội danh trên cũng như các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm này diễn ra trên thực tế. Tuy nhiên các vấn
đề trên được phân tích đánh giá dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà chưa cập nhật các quy định mới của
tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Các công trình, bài báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên cứu về tội
trộm cắp tài sản trên những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định
rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở việc thiếu tính
hệ thống, tính toàn diện. Chưa có công trình nào nghiên cứu về tội trộm cắp
tài sản trong pháp luật hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – một trong Quận
4
lớn của thành phố Hà Nội, hơn nữa nhiều công trình đã nghiên cứu và được
công bố từ khá lâu, chưa cập nhật được những điểm mới của tội trộm cắp tài
sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 Vì vậy, thông qua quá trình nghiên cứu
Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản,
từ đó kế thừa những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu
của các tác giả trước đây để làm rõ một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài
sản, thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và thực
tiễn áp dụng tại Quận Đống Đa, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội
trộm cắp tài sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn chỉ ra những bất
cập hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và các giải pháp
khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận, bao gồm:
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội
trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay.
- Phân tích làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản trong pháp
luật hình sự Việt Nam, bao gồm khách thể của tội trộm cắp tài sản, mặt chủ quan
5
của tội trộm cắp tài sản, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội
trộm cắp tài sản.
Nhiệm vụ thứ hai: Làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, cụ thể
- Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và tình hình điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội.
- Phân tích làm rõ những kết quả đạt được trong áp dụng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống
Đa – Thành phố Hà Nội,
- Phân tích làm rõ những tồn tại và hạn chế trong áp dụng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống
Đa – Thành phố Hà Nội.
Nhiệm vụ thứ ba: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự, cụ thể như sau:
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội trộm
cắp tài sản
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp luật
hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về tội trộm cắp
tài sản; các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản
và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, trong đó giới hạn các hoạt động là
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam thời gian qua, đặc biệt
nghiên cứu tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017 có so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa trong khoảng thời gian từ năm
2015 đến năm 2019, trong đó giới hạn các hoạt động áp dụng pháp luật cơ
bản là định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác-Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược quốc gia
phòng, chống tội phạm giai đoạn năm 2016 đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2030 và các quan điểm đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Đối với
phương pháp phân tích, so sánh tác giả dùng nhằm luận giải những vấn đề lý
luận về tội trộm cắp tài sản, làm rõ những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội đối với chương 1, chương 3 của luận văn,
ngoài ra tác giả còn kết hợp sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê nhằm làm sáng tỏ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội được thể hiện ở chương
2 của luận văn .
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận của đề tài: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần vào nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý
luận về tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn của đề tài: Với kết quả đạt được trong nghiên cứu
của luận văn thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn
công tác chỉ đạo, điều hành và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, đặc
biệt là nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Với kết quả đạt được trong quá trình nghiên
cứu, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo
Luật và nghiên cứu khoa học
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa – Thành phố Hà
Nội
Chương 3: Những giải bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp
luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận Đống Đa
– Thành phố Hà
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.1 Khái niệm về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
Sở hữu là một phạm trù kinh tế, thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội,
phương thức chiếm hữu và phân phối tài sản trong các hình thái kinh tế - xã
hội và quan hệ xã hội nhất định. Ở Việt Nam, quyền sở hữu về tài sản luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm và được ghi nhận cụ thể tại Điều 32 Hiến
pháp năm 2013 như sau: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.”. Trong pháp luật dân sự,
khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Quyền sở hữu
có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban thành theo những trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu tài sản trong đời
sống lao động, xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, quyền sở hữu là các xử sự mà
pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong những điều kiện và
phạm vi nhất định đối với tài sản.
BLDS năm 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản theo
quy định của pháp luật”. Qua đó, quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu
(thực hiện mọi hành vi theo ý chí của chủ sở hữu để nắm giữ, chi phối tài sản
của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội), quyền sử dụng
(thực hiện việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản) và
quyền định đoạt (thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ
quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản).
9
Như vậy, tài sản và quyền sở hữu tài sản là những quy định pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm duy trì đời sống kinh tế - xã hội. Khi quyền sở
hữu tài sản bị xâm hại sẽ gây những ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế
- xã hội. Hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi của một người nhằm tác động
đến việc thực hiện các quyền sở hữu tài sản như phá hoại tài sản, chiếm đoạt
tài sản… Do đó, Nhà nước luôn có những quy định cụ thể để bảo vệ quyền sở
hữu tài sản. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu khi thỏa mãn đầy đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì được coi là
tội phạm.
Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu về tài sản luôn là vấn đề trọng tâm được
ghi nhận ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, bên cạnh cơ chế để
bảo vệ quyền sở hữu về tài sản thông qua các quy định được ghi nhận trong
bộ luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự, các chế tài xử phạt vi phạm hành
chí được Đảng và Nhà nước ta đã quy định cụ thể các chế tài hình sự trong Bộ
luật hình sự được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài
sản. Đây là biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất thể hiện quyền lực của nhà
nước trong xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu về tài sản một cách bất
hợp pháp. Từ BLHS năm 1985 lần đầu tiên được pháp điển hóa đến BLHS
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017, pháp luật hình sự Việt Nam đều dành một chương riêng trong phần
các tội phạm để quy định về các tội xâm phạm sở hữu, điều đó cho thấy phần
nào ý nghĩa, tầm quan trọng của chế định này. Dưới góc độ khoa học pháp lý
hình sự, theo đó các tội xâm phạm sở hữu được hiểu như sau:“Các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
hình sự quy định thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quan hệ sở
hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của Bộ luật
Hình sự phải bị xử lý hình sự”.
10
Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu. Hành vi trộm
cắp tài sản thuộc nhóm hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi "chiếm đoạt tài sản" có nhiều
quan điểm, như:
(i) “hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản
lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”
(ii) hoặc là “hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản đang do một chủ
thể quản lý thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt làm cho chủ tài sản
mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo khả năng cho người
phạm tội có thể thực hiện được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái pháp
luật tài sản đó. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt là tài
sản còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu”
(iii) hoặc là "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản
của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho
người khác mà mình quan tâm”.
Các quan điểm trên đây dưới góc độ khoa học luật hình sự, hành vi
chiếm đoạt tài sản có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự,
xâm phạm tới quyền sở hữu về tài sản. Trong một số trường hợp nhất định tùy
thuộc vào biểu hiện của hành vi chiếm đoạt tài sản mà hành vi trên còn có thể
xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người.
Thứ hai, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi dịch chuyển tài sản từ chủ
tài sản (người sở hữu hợp pháp tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản gọi
chung là người quản lý tài sản) sang người thực hiện hành vi chiếm đoạt, làm
cho chủ tài sản mất một trong các quyền sở hữu: quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc
quyền định đoạt tài sản của mình, và người chiếm đoạt có thể thực hiện việc
chiếm hữu, sử dụng, hoặc định đoạt tài sản đó một cách trái pháp luật.
11
Thứ ba, hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng và được thể hiện dưới
những dạng hành vi khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ giữa người chiếm
đoạt với tài sản bị chiếm đoạt, hình thức chiếm đoạt, ví dụ: hành vi trộm cắp
tài sản, hành vi cướp tài sản, hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi công nhiên
chiếm đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản...
Thứ tư, tài sản là đối tượng của hành vi chiếm đoạt phải còn nằm trong
sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát của người quản lý tài sản, và phải đáp ứng
đặc điểm riêng. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, quản lý, kiểm soát
của người quản lý tài sản thì không là đối tượng của hành vi chiếm đoạt.
Thứ năm, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi chiếm đoạt phải do
lỗi cố ý, mục đích khi họ thực hiện hành vi là “nhằm chiếm đoạt tài sản”. Do
vậy, lỗi của họ phải là cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản nhận thức rõ hành vi của mình, biết được sự nguy hiểm của hành vi cho
xã hội, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi này.
Trong khoa học luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về tội trộm
cắp tài sản, nhưng về cơ bản đều nêu lên được nội hàm của hành vi trộm cắp
tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam.
Quan điểm thứ nhất: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản
của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp
tinh thần của người quản lý tài sản”.
Quan điểm thứ hai: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài
sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa
án tích mà con vi phạm”.
Quan điểm thứ ba: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đọa tài
sản thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách
12
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức
lỗi cố ý”
Qua ba quan điểm nêu trên, có thể nhận thấy rằng hành vi trộm cắp tài
sản có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
Lén lút là hành vi thể hiện sự giấy giếm, vụng trộm, không công khai
và có ý đồ gian dối. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản được thể
hiện ở cả hành vi khách quan lẫn ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi
được coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Hành vi lén lút
được hiểu là sự giấu giếm vụng trộm lấy tài sản khi chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ khi tài sản bị chiếm đoạt họ
mới biết tài sản đã bị mất. Hành vi lén lút ở đây không nhất thiết là làm việc
mà không ai biết, nó có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm,
nhưng có thể được thực hiện một cách công khai, giữa nơi đông người. Tuy
nhiên, việc giấy giếm hay công khai thì chúng đều có một đặc điểm chung
thống nhất đó là “lén lút” với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý
tài sản. Ví dụ: Bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản
của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T. Tóm tắt vụ án như sau: do H không có
tiền trả nợ nên T xúi giục H cùng V đi đến đám cưới nhà anh Thắng ở xã
Nông Trường để trộm cắp xe máy. Đến nơi H phát hiện xe máy Sirius biển
kiểm soát 36B3 42482 màu vàng đen của anh B không có người trông coi nên
H dừng xe và bảo V xuống dùng chiếc vam vẫn mang theo phá khóa và lấy xe
nhưng V không phá được khóa nên H xuống trực tiếp phá khóa và lấy xe
mang về cho T. T bán xe cho chị Ng ở thôn Trúc Chuẩn 2 lấy 10.000.000đ,
chị Ng bán lại cho ông Nguyễn Thọ X lấy 12.000.000đ, khi chị H con gái ông
X mượn chiếc xe này đi lại thì bị anh B phát hiện và báo công an thu giữ.
Như vậy, thông qua ví dụ tại bản án 08/2018/HS-ST ngày 06/02/2018
về tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T trên có thể nhận
13
thấy rằng hành vi của T mặc dù có công khai tuy nhiên vẫn là lợi dụng lúc
anh B. lơ là, không quản lý trông coi tài sản. Hành vi chiếm đoạt tài sản của T
vẫn là lén lút với chủ sở hữu tài sản.
Thứ hai, trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật
Lén lút không phải đặc trưng duy nhất của hành vi trộm cắp tài sản mà
trong nhiều tội phạm, người thực hiện hành vi được coi là tội phạm cũng lén
lút nhưng là để thực hiện hành vi khác như: cố ý lẻn vào nhà người khác giết
hại những người trong gia đình vì mục đích hận thù hay lẻn vào phòng ngủ
của người khác để thực hiện hành vi hiếp dâm…Vì vậy, khi nói đến tội trộm
cắp tài sản thì không thể không đi kèm với hành vi chiếm đoạt tài sản, nếu lén
lút mà không chiếm đoạt tài sản thì không phải dấu hiệu pháp lý của tội trộm
cắp tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự xâm phạm
tới quyền sở hữu về tài sản. Xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài
sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá
trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài
sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lí không làm cho chủ sở hữu mất quyền
sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể
của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được
thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tuỳ thuộc vào mối quan hệ
cụ thể giữa người chiếm đoạt và tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức
chiếm đoạt cụ thể.[9] Để đánh giá các hành vi chiếm giữ tài sản có phạm tội
hay không, cần phải đánh giá: (1) việc nhận tài sản từ chủ sở hữu của người
phạm tội có phù hợp quy định của pháp luật dân sự hay không; (2) việc chiếm
giữ tài sản có thuộc một trong các trường hợp xác lập quyền sở hữu theo quy
định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (viết tắt là BLDS) hay không.
14
- Xem thêm -