Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh bắc ninh...

Tài liệu Luận văn tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
93
84
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN SƠN TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội – 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN SƠN TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐINH THỊ MAI Hà Nội – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của riêng tôi; các số liệu, ví dụ, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố trong công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI .............................................. 7 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai .................................................................................................... 7 1.2. Phân biệt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai với một số tội phạm có yếu tố chức vụ, quyền hạn ................................................................. 15 1.3. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 1945 đến khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật................................................................................ 21 1.4. Khái quát lý luận định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai…....................................................................29 Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................ 39 Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH .................................................................................................... 40 2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 40 2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ......................................................... 51 Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................ 58 Chương 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TẠI TỈNH BẮC NINH .......................... 60 3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai .............................................................. 60 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai tại tỉnh Bắc Ninh ............ 63 Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................ 77 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CTTP Cấu thành tội phạm ĐTD Định tội danh TNHS Trách nhiệm hình sự TAND Tòa án nhân dân VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội chủ nghĩa QĐHP Quyết định hình phạt DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thống kê tộivi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm giai đoạn 2015 – 2019. Bảng 2.2. Thống kê tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai so với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã được TAND tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử phúc thẩm giai đoạn 2015 – 2019. Bảng 2.3. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP cơ bản tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019. Bảng 2.4. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử theo CTTP tăng nặng tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từnăm 2015 đến năm 2019. Bảng 2.5. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử phạm nhiều tội trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019. Bảng 2.6. Thống kênhững hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019. Bảng 2.7. Nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ năm 2015 đến năm 2019. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ thể hóa Hiến pháp, Luật Đất đai năm 2013 đã có các quy định về quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và thống nhất quản lý đất.Nhà nước thực hiện quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn mức giao đất nông nghiệp, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định thời hạn sử dụng; trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Nhà nước có trách nhiệm quản lý thống nhất đất đai theo pháp luật. Để thực hiện trách nhiệm này, Nhà nước phân công, phân cấp trong quản lý đất đai. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước; Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai; Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền. Có thể nói, với những chính sách và quy định của pháp luật về chế độ quản lý đất đai cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước ta nói chung và trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Với việc BLHS 2015 được ban hành mới, có hiệu lực toàn bộ kể từ ngày 01/01/2018, đã đáp ứng cơ bản với tình hình thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, đặc biệt là việc BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa những tình tiết có tính định tịnh như “đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn” và “gây hậu quả nghiêm trọng”, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức của tỉnh Bắc Ninh đã được nâng cao hơn...góp phần nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt tội này trong thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn cả nước và trong địa 1 bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy những vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này có xu hướng phức tạp, có vụ án gây thiệt hại lớn cho kinh tế, trật tự quản lý của Nhà nước như vụ án “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Đà Nẵng năm 2019, với các bị cáo đa phần là những người đứng đầu, giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của thành phố Ðà Nẵng, gây hậu quả thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho Nhà nước, gây thất thoát ngân sách hơn 22.000 tỷ đồng, hay vụ án với 29 bị can bị truy tố về tội “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.Theo thống kế của TAND tỉnh Bắc Ninh cho thấy trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn tỉnh xảy ra không nhiều vụ án về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai nhưng có những vụ án Tòa án phải trả hồ sơ điều tra 02 lần mới giải quyết dứt điểm vụ án; năng lực, trình độ của cán bộ công chức cơ quan tư pháp trong tỉnh mặc dù đã cải thiện hơn nhưng vẫn còn không đồng đều, còn hạn chế về nhận thức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ còn hạn chế, trong khi đó về mặt lý luận và quy định pháp lý về tội này vẫn còn những điểm chưa phù hợp. Những điều này cho thấy sự khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong bối cảnh hiện nay. Do vây, việc nghiên cứu tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng công cuộc đấu tranh phòng chống tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai ở tỉnh Bắc Ninh. Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài trên có thể kể đến như: (i) Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo: Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội; TS Nguyễn Đức Mai (2018), Bình luận khoa học – Bộ luật hình sự (hiện hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2 2017, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí; Ths. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, tập VI – Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010), Bình luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội. Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên có đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Tuy nhiên, các công trình trên đều nghiên cứu tội danh này cùng với các tội danh khác của BLHS, chưa phân tích làm rõ một cách sâu sắc, những tồn tại, hạn chế trong quy định tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, cũng như thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. (ii) Luận văn, luận án tiến sĩ luật học: - Luận văn thạc sĩ: Lương Duy Hinh (2013), Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Nhận xét: Đây là luận văn có đề cập trực tiếp đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Tuy nhiên luận văn nghiên cứu đề tài cùng với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn đấu tranh xử lý trên địa bàn thành phố Hà Nội và trong phạm vi từ năm 2008 đến 2012, khi mà BLHS năm 2015 chưa được ban hành - Luận án tiến sĩ: Nguyễn Chí Công (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Nhận xét: Luận án có đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Tuy nhiên luận án tập trung nghiên cứu những nội dung xung quanh TNHS đối với tội xâm phạm trật tư quản lý kinh tế, trong đó có tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai, mà chưa đi sâu vào phân tích một khái niệm và các dấu hiệu pháp lý cụ thể của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS năm 2015. Ngoài ra còn có một số công trình khác như: Chuyên đề “Hoàn thiện các quy định của luật hình sự về các tội phạm kinh tế trong điều kiện hiện nay”, của tác giả Trần Văn Độ, trong Sách tham khảo dành cho bậc sau đại học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, năm 1997; Sách “Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb. Tư pháp, năm 3 2006; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cho phù hợp với thực tiễn xét xử, Tạp chí TAND, số 02/2009, của tác giả Đinh Văn Quế; Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học (Chuyên san kinh tế - luật). Nhận xét chung:Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai ở khía cạnh, góc độ khác nhau, có nhiều đề tài được nghiên cứu trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Tính đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam, một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS Việt Nam và đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm sáng tỏ những vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong pháp luật hình sự Việt Nam, mà trọng tâm là BLHS năm 2015. - Phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt, kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đaitrên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai mà trọng tâm là BLHS năm 2015 hiện hành, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sử dụng số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi không gian: tỉnh Bắc Ninh Phạm vi thời gian: khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nhà nước ta, làm kim chỉ nam xuyên suốt trong toàn bộ cấu trúc nghiên cứu của luận văn. Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn dịch – quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật liên quan với tội phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận và nâng cao nhận thức trong hoạt động áp dụng pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp đưa ra,luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trong BLHS hiện hành. Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng hoàn thiện các 5 quy định về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Ngoài ra, kết quả đạt được trong nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễngiải quyết các vụ án tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền nói chung và trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Chương 2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai 1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, đây là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế”[38, tr.79]. Trong khoa học pháp lý cũng đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra khái niệm về tội danh này, mà tiêu biểu như: Có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm”[10, tr.400]. Quan điểm khác cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật [4, tr.348]. Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp lại cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai, được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý Nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật. [23, tr.239]. Trong cuốn Bình luận khoc học BLHS năm 2015, các tác giả PGS.TS. Trần Văn Luyện, PGS.TS. Phùng Thế Vác…cho rằng: Vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý nhà nước về đất đai đã lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, 7 cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật [25, tr.397]. Nhận xét: Các quan điểm trên đều đã nêu được bản chất của tội danh này theo quy định của pháp luật hình sự, tuy nhiên các tác giả vẫn chưa thể hiện được yếu tố lỗi của tội phạm, năng lực TNHS, khách thể mà chỉ mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm. Trong pháp luật hình sự từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 2015 thì khái niệm tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS. Theo đó: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [31, Điều 8]. BLHS năm 2015 hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương XVIII, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế “Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật...”,hành vi này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai nói riêng trong giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Tội phạm được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt, ngoài các dấu hiệu về tuổi, năng lực TNHS, đó còn là người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý đất đai, được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội biết được hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, theo quy định của Luật đất đai, các Nghị định của Chính phủ hoặc các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân hoặc của Ủy ban nhân nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra những vẫn thực hiện. Trên cơ sở tiếp thu các quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học và quy định hiện hành của BLHS, tác giả đưa ra khái niệm tội vi phạm các quy định về 8 quản lý đất đai như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý về đất đai được Nhà nước bảo hộ. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai Trong pháp luật hình sự hiện hành thì tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015. Thứ nhất, về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [39, tr. 86]. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, phân biệt 03 loại khách thể là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất bị tội phạm xâm hại, đây là cơ sở để nhà làm luật xếp vào các chương khác nhau trong phần các tội phạm của BLHS. Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại tới. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thuộc Chương XVIII, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tội này có khách thể loại là trật tự quản lý nhà nước về kinh tế. “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản lý, vận hành nền kinh tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước, các chủ thể kinh tế và người tiêu dùng” [27, tr.18]. Còn khách thể trực tiếp của tội phạm là trật tự quản lý nhà nước về đất đai, trong đó:Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.Bộ Tài nguyên và Môi trường 9 chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.Đối với tội này thì việc xâm phạm trật tự quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện trong việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Sự gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc tác động vào đối tượng tác động của tội phạm, đây là bộ phận cấu thành của khách thể tội phạm, bị tội phạm tác động đến, gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì đối tượng tác động chính là đất đai, thông qua sự tác động trái phép vào đối tượng này, hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và công dân. Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm: - Dấu hiệu hành vi khách quan: Có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. - Lợi dụng chức vụ quyền hạn. Được hiểu là việc sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao như là một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đai trái pháp luật [36]. - Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là việc người phạm tội thực hiện những công việc vượt quá quyền hạn, trách nhiệm của họ để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyên mục đích sử dung đất đai trái pháp luật(Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định thu hồi đất, trong khi việc thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện). Trong đó:Nhà nước giao đất là việc Nhà nước ban hành quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.[32, khoản 7, Điều 3]. + Nhà nước cho thuê đất là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất.[32, khoản 8, Điều 3]. 10 + Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. [32, khoản 9, Điều 3]. + Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất là Nhà nước quyết định cho phép đối tượng có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng từ loại đất này sang sử dụng vào mục đích khác. + Nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất là Nhà nước quyết định cho phép đối tượng có nhu cầu thực hiện các quyền như chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê sang cho đối tượng khác có nhu cầu. - Giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật. Được hiểu là hành vi thực hiện các nội dung này không đúng quy định của pháp luật về đất đai.Cụ thể: [14, Điều 97 ]. + Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện tích đất trên thực địa. + Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Ví dụ: Không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 59 Luật đất đai năm 2013:“1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; b) Giao đất đối với cơ sở tôn giáo; c) Giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 3 Điều 55 của Luật này; d) Cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 56 của Luật này; đ) Cho thuê đất đối với tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao. 2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trong các trường hợp sau đây: 11 a) Giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ với diện tích từ 0,5 héc ta trở lên thì phải có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi quyết định; b) Giao đất đối với cộng đồng dân cư. 3. Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn. 4. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được ủy quyền”. + Giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu kinh tế, cảng hàng không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. - Thu hồi đất bị coi là trái pháp luật nếu thuộc trường hợp[14, Điều 97 ] +Không thông báo trước cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 67 của Luật Đất đai. + Thu hồi đất không đúng thẩm quyền; không đúng đối tượng; không đúng với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Ví dụ:Thu hồi đất không đúng thẩm quyền là không đúng quy định tại Điều 66: “1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này; b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. 2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. 12 3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất”. -Cho phép chuyển quyền sử dụng đất được coi là trái pháp luật khi: cho phép chuyển quyền sử dụng đất không đúng thủ tục, đối tượng và căn cứ cho phép chuyển quyền sử dụng đất. -Ngoài ra còn có một số dạng vi phạm như: [14, Điều 97 ]. a) Không nhận hồ sơ đã hợp lệ, đầy đủ, không hướng dẫn cụ thể khi tiếp nhận hồ sơ, gây phiền hà đối với người nộp hồ sơ, nhận hồ sơ mà không ghi vào sổ theo dõi; b) Tự đặt ra các thủ tục hành chính ngoài quy định chung, gây phiền hà đối với người xin làm các thủ tục hành chính; c) Giải quyết thủ tục hành chính không đúng trình tự quy định, trì hoãn việc giao các loại giấy tờ đã được cơ quan có thẩm quyền ký cho người xin làm thủ tục hành chính; d) Giải quyết thủ tục hành chính chậm so với thời hạn quy định; đ) Từ chối thực hiện hoặc không thực hiện thủ tục hành chính mà theo quy định của pháp luật về đất đai đã đủ điều kiện để thực hiện; e) Thực hiện thủ tục hành chính không đúng thẩm quyền; g) Quyết định, ghi ý kiến hoặc xác nhận vào hồ sơ không đúng quy định gây thiệt hại hoặc tạo điều kiện cho người xin làm thủ tục hành chính gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và công dân; h) Làm mất, làm hư hại, làm sai lệch nội dung hồ sơ. - Hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai được coi là hệ quả của hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được coi là tiền đề, là thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để làm trái với quy định của Nhà nước về quản lý đất đai. Nếu trường hợp cũng lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn nhưng không làm trái với quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, mà trái với các quy định khác về quản lý kinh tế, quản lýhành chính, quản lý cán bộ…thì không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội có thể bị truy cứu 13 TNHS về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế hoặc tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc các tội phạm tương ứng có quy định lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố tăng nặng định khung hình phạt… * Hậu quả: Đối với tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. * Các dấu hiệu khách quan khác: Ngoài hành vi khách quan, hậu quả, đối với tội vi phạm các quy định của Nhà nước về sử dụng đất đai, nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác, nếu hành vi thõa mãn một trong các dấu hiệu sau thì mới CTTP (khoản 1, Điều 229): + Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2). + Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp. + Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Được hiểu là người đó đã bị xử lý kỷ luật bằng một trong hình thức kỷ luật theo quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức như khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lượng; giáng chức...về vi phạm trong lĩnh vực quản lý đất đai như thu hồi đất trái pháp luật, cho thuê trái pháp luật...với diện tích đất, giá trị quyền sử dụng đất thấp hơn quy định ở trường hợp a hoặc b, khoản 1 Điều 229, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luậtlại thực hiện một trong các hành vi đó. Thứ ba, chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Đối với người khác chỉ có thể là đồng phạm với vai trò người giúp sức, xúi giục hoặc chủ mưu của tội phạm. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan