Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễ...

Tài liệu Luận văn tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
99
211
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ HỒNG LÊ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ HỒNG LÊ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ KIM OANH HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công trình khoa học trước đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN TẠ HỒNG LÊ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................7 1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ...7 1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .10 1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ....15 1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. .................................................................................................................18 1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự ......................21 1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm......................................................................................................29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .33 2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .................................................................33 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 – 2018 ...........................................................................................................41 2.3. Thực tiễn thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................................42 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .........................................................67 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh .........................................................67 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh .........................................................72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử HSST Hình sự sơ thẩm HTND Hội thẩm nhân dân TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1.Số liệu thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp trênđịa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.2.Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm có người bào chữa tham gia trên tổng số vụ án thụ lý của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018 Bảng 2.3. Quyết định của HĐXX về giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Tranh luận là cái gốc của sự thật”, vấn đề này đã được các triết gia Hy Lạp nhận thức từ thời cổ đại và cho đến bây giờ việc tranh luận tại phiên tòa vẫn luôn là một bước không thể thiếu được của trình tự xét xử vụ án tại phiên tòa.Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề quyền con người, quyền công dân và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nhất là trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, trong các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước đã quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đảm bảo quyền tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa. Với khía cạnh tranh tụng, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thể hiện rõ là “nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp đến cần nhắc đến Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 nêu lên rằng “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, trong Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định về vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử. Một trong những điểm cụ thể hoá đó là Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận: “…Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa...”. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, pháp luật đã có những quy định đảm bảo cho việc tham gia của người bảo chữa và đảm 1 bảo thực hiện hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Thực tế tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xét xử vụ án hình sự, một mặt góp phần đảm bảo quyền của bị cáo trong việcnhờ người khác bào chữa, mặt khác còn bảo đảm cho quá trình phân tích, đánh chứng cứ của vụ án ngay tại phiên tòa, góp phần giúp Hội đồng xét xử đưa ra những biện pháp xử lý, giải quyết vụ án phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc tranh luận của người bào chữa trong nhiều phiên toà hình sự còn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều phiên tòa không có người bào chữa tham gia, trách nhiệm và năng lực của người bào chữa vẫn còn nhiều bất cập. Có phiên toà chưa thật sự dân chủ, quyền bào chữa của người bào chữa chưa được tôn trọng. Số án sơ thẩm bị huỷ, bị cải sửa ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hằng năm vẫn còn xảy ra nhiều. Từ thực tế đó, tác giả luận văn thấy rằng việc làm rõ các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tranh luận của người bào chữa trong phiên tòa hình sự nhằm đánh giá các kết quả đạt được, làm rõ các hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường chất lượng thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự là hêt sức cần thiết. Do đó, tác giả luận văn lựa chọn đề tài: “Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan tới đề tài Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đến nay trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu, trong số đó tiêu biểu có các công trình sau: - Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Bảo Trâm năm 2008, trường Đại học Quốc gia Hà Nội là: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tác giả đã khái quát, lý luận chung về 2 nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của các đối tượng trong quá trình điều tra truy tố xét xử như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. - Vũ Thế Lân (2014), Bảo đảm bình đẳng trong quan hệ tố tụng, Báo Nhân dân, (215), tr.7. Bài viết đã nhận định Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Tác giả Dương Thanh Biểu với tác phẩm sách tham khảo “Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm” do NXB Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2007. Công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật về các trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đến việc tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm. - Tác giả Lê Hữu Thể với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” do Nxb Tư pháp Hà Nội phát hành năm 2008. Nội dung đề tài góp phần làm rõ hơn tinh thần, nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính trị. - Bài nghiên cứu của Hồ Nguyễn Quân năm 2013, “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, tại trang http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/303. Bài viết này đã phân tích được quy định của pháp luật về TTHS Việt Nam với một số vấn đề liên quan trong tranh tụng tại phiên tòa. - Liên quan đến giai đoạn điều tra có Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả Lê Hồng Sinh năm: “Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS với số liệu thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận về chức năng bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra có nghiên cứu trong Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thủy năm 2017 là đề tài “Chức năng bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Luận văn trên cơ sở lý luận dưới cách tiếp cận khoa học về TTHS, đồng thời đã làm rõ hơn quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bào chữa của Luật sư với các dữ kiện thực tiễn tại thành phố Hà Nội. 3 Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, các nguyên tắc của hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, vị trí vai trò của người bào chưa trong phiên tòa hình sự. Đặc biệt, các công trình trên đã đề cập đến thực tiễn pháp luật Việt Nam và thực hiện pháp luật Việt Nam về hoạt động tranh tụng trong các phiên tòa hình sự để từ đó thấy được những mặt tích cực, cũng như những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nước ta hiện nay. Tuy vậy, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về vấn đề tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung, gắn với địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Ðể thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Khảo sát thực tế, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực trạng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thực tiễn đó xem xét các kết quả đã đạt được về mặt hiệu quả, các vấn đề còn hạn chế chưa đạt được, bên cạnh đó tìm kiếm làm rõ các nguyên nhân chính yếu dẫn đến những hạn chế ấy và có hướng giải quyết. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. - Về chủ thể: Người bào chữa. - Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình nghiên cứu đề tài trên, tác giả đã sử dụng tổng thể và phối hợp giữa các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: - Phương pháp phân tích tài liệu; - Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu; - Phương pháp tổng kết thực tiễn; - Phương pháp điều tra điển hình; - Phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học - Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. 5 - Luận văn có khả năng được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực luật học như luật Hình sự và Tố tụng hình sự. 6.1. Ý nghĩa thực tiễn - Là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có liên quan đến tranh tụng trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, đặc biệt là vấn đề tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Là tài liệu cho người bào chữa, những người tiến hành tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng hình sự tham khảo, vận dụng trong thực hiện hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận trong quá trình xét xử. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục; nội dung được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh 6 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Trong tố tụng hình sự, nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng là đảm bảo phát hiện kịp thời và xử lý minh bạch công bằng mọi hành vi phạm tội, tiêu chí là không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; Từ đó góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng như quyền công dân. Mặt khác nhìn nhận xa hơn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Hoặc giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quá trình tố tụng hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải quyết xong. Việc xét xử vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, phải đảm bảo hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong giai đoạn xét xử sở thẩm, Tòa án tiến hành xét xử công khai trước sự tham gia đầy đủ của các bên và những người tham dự phiên tòa. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất của vụ án, bao gồm: việc xác định có tội phạm hay không, nếu có tội phạm thì tội gì và quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trong giai đoạn xét xử các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập, củng cố ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố nhằm thu thập, củng cố chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, còn hoạt động xét xử chủ yếu nhằm kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ đã được thu thập nhằm đảm bảo việc ra bản án của Tòa án là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng được coi là giai đoạn trung tâm, mang tính quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Để đảm bảo chất lượng xét xử sơ thẩm, đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con 7 người của người bị buộc tội nói riêng, pháp luật tố tụng hình sự phải quy định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, người bào chữa là một chủ thể tham gia tố tụng, khi tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm người bào chữa được BLTTHS đảm bảo thực hiện hoạt động tranh luận. Trọng tâm của hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm chính là việc người bào chữa đánh giá chứng cứ, sử dụng lý lẽ, lập luận để đối đáp, tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Tùy vào từng vụ án cụ thể, người bào chữa sẽ lựa chọn nội dung, kỹ năng và phương pháp tranh luận thích hợp. Việc người bào chữa thực hiện tốt hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phàm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền con người của người bị buộc tội. Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, tuy nhiên trong pháp luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm về hoạt động này. Theo từ điển Tiếng Việt tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải [45, tr.943]. Như vậy theo khái niệm trên thì tranh luận có thể xuất hiện trong việc lĩnh vực của đời sống xã hội, nội dung của tranh luận là bàn cãi, mục đíc của hoạt động này là tìm ra lẽ phải. Đây là khái niệm chung về tranh luận nên chưa mang tính cụ thể và chưa đầy đủ về hoạt động tranh luận của người bào chữa trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. Dưới góc độ pháp luật, theo thuật ngữ pháp lý thì tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự, đồng thời làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho việc xem xét và quyết định về vụ án được đúng đắn [12, tr.425-453]. Như vậy, dưới góc độ pháp lý tranh luận tại phiên tòa được tiếp cận là một thủ tục tố tụng. Việc xét xử tại phiên tòa trải qua nhiều thủ tục khác nhau trong đó có thủ tục tranh 8 luận giữa các bên, bản chất của việc tranh luận giữa các bên là làm sáng tỏ sự thật của vụ án, mục đích của hoạt động này giúp cho Tòa án có thể đưa ra được phán quyết cuối cùng được đúng đắn. Qua phân tích trên, có thể nhận khái niệm về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của người bào chữa là một vấn đề chưa được đề cập trong các từ điển phổ thông và từ điển pháp lý, trong khoa học pháp lý khái niệm này cũng chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Để xây dựng khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm thì cần xác định những đặc điểm đặc trưng của đối tượng này. Dựa trên các đặc điểm về chủ thể của tranh luận, nội dung tranh luận, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo hoạt động tranh luận, mục đích của hoạt động này có thể đưa ra khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST như sau: Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS được người bào chữa thực hiện tại phiên tòa HSST trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận, đối đáp của mình và phản bác chứng cứ, lập luận của bên buộc tội về vụ án dưới sự điều khiển, quyết định của HĐXX sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, góp phần giải quyết vụ án đúng đắn vụ án. Như vậy, đối với người bào chữa việc tham gia tranh luận chủ yếu và tập trung nhất trong thủ tục tranh tụng. Theo đó, sau khi xét hỏi, HĐXX sẽ đảm bảo cho các bên tham gia tranh luận và người bào chữa sẽ thực hiện hoạt động tranh luận của mình để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo chữa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích bị cáo. Phần tranh luận tại phiên tòa được xem là yếu tố mang tính đặc trưng tiêu biểu của tranh tụng trong tố tụng hình sự bởi hai bên buộc tội và bên bào chữa đều vận dụng tất cả những dữ liệu có từ hồ sơ, chứng cứ, và xét hỏi trước đó cùng căn cứ pháp luật để hai bên cùng đưa ra lập luận quan điểm của mình và nhận phản biện từ phía bên kia để tìm ra sự thật khách quan dung với bản chất sự việc nhất, mọi diễn tiến đều diễn ra dưới sự điều hành phòng xét xử của Chủ toạ phiên toà. Phía buộc tội nghiêng về bảo vệ các quan điểm có trong cáo trạng, 9 còn phía người bào chữa dựa trên cả quá trình để lập luận xem cáo trạng và lập luận của Kiểm sát viên có đúng hay không về tính chất và mức độ. Về quá trình tranh luận, người bào chữa sẽ không bị hạn chế thời gian cho việc tranhh luận làm sáng tỏ sự việc trong vụ án. Có quyền đề nghị HĐXX làm rõ các tình tiết còn bị bỏ sót hoặc không rõ ràng, trong cuộc tranh luận theo trình tự nhất định nếu có xuất hiện các tình tiết hoặc chứng cứ mới liên quan ảnh hưởng đến vụ án thì HĐXX sẽ quay lại phần hỏi để làm rõ hơn các tìn tiết ấy mục đích không ngoài việc có được góc nhìn đa diện hơn vụ án. Trong sự tranh luận của các bên tại Toà, HĐXX luôn điều khiển về mặt thủ tục để việc tranh luận đúng hướng, đúng quy định về mặt hình thức và nội dung. Đồng thời lắng nghe và phân tích cùng nhìn nhận với vai trò như một trọng tài, tức là không nghiêng về bên nào với sự dẹp bỏ ý chí chủ quan khi chưa nắm bắt hết được các vấn đề một cách toàn diện. Sự phán quyết có đúng hoặc sai bản chất phụ thuộc trong phần này rất nhiều vì hai bên sẽ bóc tách từng vấn đề một cách khoa học logic và hình thành nên cái nhìn khách quan hơn cho HĐXX. Từ đó mới có cơ sở bảo đảm việc nhận định và phán quyết cuối cùng đúng người đúng tội. 1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Qua khái niệm đã được trình bày ở trên, có thể rút ra những đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như sau: Thứ nhất, tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS. Bộ luật TTHS quy định trình tự thủ tục để khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình sự và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tố tụng hình sự là tổng thể các hoạt động tố tụng do cơ quan, người có thẩm quyền, người tham gia tố tụng thực hiện theo quy định của Bộ luật TTHS để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Bộ luật TTHS năm 2015 10 quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong đó quy định thủ tục tranh tụng. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm theo luật định sẽ bao gồm hai thủ tục chính yếu quan trọng: Một là thủ tục xét hỏi, hai là thủ tục tranh luận. Việc tranh luận của người bào chữa nói riêng và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nói chung được thực hiện theo trình tự, cách thức mà Bộ luật TTHS đã quy định. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để thực hiện việc tranh luận với bên buộc tại và những người tham gia tố tụng khác người bào chữa phải sử dụng chứng cứ, lý lẽ, lập luận nhằm đối đáp, phản đối và thuyết phục những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm đánh giá chứng cứ của mình. Việc tranh tụng phải thực hiện dưới dạng một hoạt động mang tính chủ động, có mục đích của người bào chữa. Người bào chữa phải vận dụng kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kỹ năng và phương pháp tranh luận phù hợp với diễn biến cụ thể của từng vụ án để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháo cho bị cáo mà mình bảo vệ. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và hoạt độn tranh luận của người bào chữa nói riêng Bộ luật TTHS đã quy định chặt chẽ về hoạt động này. Khi thực hiện hoạt động tranh luận người bào chữa phải tuân thủ và thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận. Thứ hai, chủ thể của việc thực hiện tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm rất rộng, trong đó có người bào chữa. Trong tố tụng hình sự việc tranh luận tại phiên tòa với mục đích làm rõ hơn bản chất của vụ án cũng như sự thật khách quan đã diễn ra. Các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm rất rộng bao gồm Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, đương sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự. Như vậy, người bào chữa là một trong những chủ thể thực hiện hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Người bào chữa là một chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại phiên tòa, đồng thời góp phần bảo vệ sự thật khách quan của vụ án. Với địa vị và mục đích tham gia tố tụng của người bào chữa tại phiên tòa HSST đòi hỏi Bộ luật TTHS phải đảm bảo cho người bào chữa thực hiện hoạt động tranh luận bình đẳng, 11 công bằng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Việc đảm bảo hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án... Đồng thời thể hiện bản chất nhân đạo và daan chủ của Đảng và Nhà nước ta. Thứ ba, đặc điểm về nội dung, phạm vi tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Nội dung tranh luận tại phiên toà bao gồm nội dung chính về các vấn đề vụ án bao gồm (1) làm rõ sự việc diễn ra bao gồm các chủ thể, tình tiết, không gian, thời gian liên quan vụ án bằng các chứng cứ, cách thu thập xử lý đánh giá chứng cứ, sự logic trong lập luận; (2) về việc áp dụng pháp luật trong vệc định tội danh và đưa ra bản cáo trạng; (3) về thực hiện quy trình tố tụng trước đó. Theo trình tự tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra quan điểm như bản cáo trạng buộc tội bị cáo trên các cơ sở hồ sơ mà cơ quan điều tra cung cấp trước đó. Lúc này về nguyên tắc đã bắt đầu xuất hiện chức năng bào chữa. Bằng sự điều hành của Chủ toạ, việc xét hỏi để làm rõ các tình tiết và bắt đầu theo như quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 xoay quanh các vấn đề: Xác định về hành vi sự kiện như có hành vi phạm tội hay không, ai là người thực hiện và tham gia, động cơ mục đích phạm tội, tính chất mức độ…Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nghe ý kiến của các nhà chuyên môn và ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan trình bày cũng được các bên sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Thông qua việc điều tra công khai, trực tiếp của các chủ thể bên buộc tội, bên gỡ tội và HĐXX tại phiên tòa; các tình tiết về vụ án được làm sáng tỏ. Lúc này, nội dung tranh luận mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập, kiểm tra, đánh giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tòa giữa 12 bên buộc tội với bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên bào chữa - là hai bên của cuộc tranh luận về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án. Đến giai đoạn xét hỏi xong, Kiểm sát viên lập luận đưa ra quan điểm toàn bộ về vụ án bao gồm kết hợp việc đánh giá chứng cứ với các tình tiết và kết luận trong việc áp dụng pháp luật đối với bị cáo. Người bào chữa cũng đến phần của mình là cũng dựa vào các tình tiết chứng cứ, cùng các đánh giá và kết luận của Viện Kiểm sát để đưa ra quan điểm bào chữa của mình, chấp nhận hay phản bác các ý kiến của Kiểm sát viên, những lập luận đó có phù hợp, logic và biện chứng hay không, việc áp dụng quy trình tố tụng có chính xác chưa. Hay việc áp dụng pháp luật vào việc buộc tội như vậy có chính xác thoả đáng đúng với tinh thần luật hay không, Kiểm sát viên có bỏ sót vấn đề nào liên quan đến sự vô tội hay giảm nhẹ của người bị buộc tội hay không… các vấn đề trên đều được tranh luận qua lại đến khi mọi thứ rõ ràng minh bạch và không còn những góc khuất của vấn đề, mọi thứ như trải ra dưới sự điều hành và quan sát lắng nghe của Chủ toạ. Như vậy, nội dung tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là người bào chữa sẽ sử dụng chứng cứ mình thu thập được theo quy định của Bộ luật TTTHS, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ được cung cấp mới tại phiên tòa, đồng thời sử dụng lý lẽ, lập luận, kỹ thuật, phương pháp tranh luận phù hợp nhằm đối đáp, phản bác, hoặc thuyết phục bên đối lập chấp nhận quan điểm mà mình đưa ra. Trên đây là nội dung của tranh luận tại phiên toà hình sự, tuy nhiên nó cũng giới hạn về phạm vi, nghĩa là có một phạm vi nội dung mà luật cho phép được tranh luận chứ không mở rộng một cách không có giới hạn. Vậy Phạm vi của tranh luận cần được xác định là như thế nào là hiệu quả. Như đã biết, bản chất của tranh luận tại toà là sự phản biện, có đôi khi phủ nhận lẫn nhau về việc chứng minh sự việc, đối tượng và áp dụng pháp luật giữa hai bên công tố và bào chữa không ngoài mục đích là mỗi bên đều chứng minh quan điểm của mình dựa trên chứng cứ và pháp luật. Một mặt khác sự tranh luận này đối 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan