Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh n...

Tài liệu Luận văn trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

.PDF
80
666
70

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI __________________ ĐỖ THỊ THU HIỀN TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH. LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI - năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ___________________ ĐỖ THỊ THU HIỀN TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH. Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI - năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới hình thức nào trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Quảng Ninh, ngày tháng năm 2019 NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Thị Thu Hiền LỜI CẢM ƠN Tác giả xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Như Phát là người hướng dẫn khoa học cho tác giả. Trong quá trình hướng dẫn, PGS.TS. Nguyễn Như Phát bằng tinh thần, trách nhiệm, sự nhiệt tình đã hướng dẫn, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình tác giả theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học. Sau cùng, tác giả xin được cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo vệ và kính mong nhận được sự quan tâm, nhận xét của các Thầy, Cô để tác giả có điều kiện hoàn thiện tốt hơn những nội dung của luận văn nhằm đạt được tính hiệu quả, hữu ích khi áp dụng vào trong thực tiễn. Xin trân trọng cảm ơn! Tác giả Đỗ Thị Thu Hiền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP .................................... 7 1.1.Khái niệm về doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp ............................... 7 1.2. Những điều kiện đăng ký doanh nghiệp .................................................. 11 1.3 Trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp .................................................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH ................................................ 30 2.1. Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp ............. 30 2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh. .................................................................... 42 Chương 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỈNH QUẢNG NINH. ..................................................................................... 52 3.1. Nhu cầu và định hướng hoàn thiện .......................................................... 52 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện ..................................................................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là đất nước nằm ở vị trí chiến lược trong khu vực Đông Nam Á, là cửa ngõ quan trọng nối liền với các nước trong khối ASEAN và thế giới. Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để đầu tư kinh doanh như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, tình hình chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào, môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, quy định pháp luật đang dần được hoàn thiện. Từ những điều kiện thuận lợi đó Việt Nam đang ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư kinh doanh. Trong thời gian qua, không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực của những doanh nghiệp đem lại đối với nền kinh tế, đời sống, xã hội của nước ta như tạo việc làm cho người lao động, đóng góp thuế cho ngân sách nhà nước, tăng mức thu nhập cho người dân, xây dựng nhiều công trình vui chơi, giải trí, phúc lợi xã hội... Vì vậy, để điều tiết nền kinh tế, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau. Một trong những công cụ sắc bén nhất và không thể thiếu như không thể thay thế được là pháp luật. Do đó, Nhà nước đã liên tục tiến hành những cải cách trong pháp luật để cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Trong nền kinh tế thị trường, tự do kinh doanh được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản. Không những vậy, nó còn là một trong những quyền cơ bản của công dân, được thể hiện trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Trong đó, quyền này trước hết thể hiện ở quyền thành lập doanh nghiệp. Vì vậy, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp (trước đây gọi là đăng ký kinh doanh) là một nội dung, là một chế định quan trọng trong pháp luật doanh nghiệp. Đây là thủ tục hành chính cho sự ra 1 đời của một doanh nghiệp và có vai trò pháp lý và thông tin quan trọng đối với các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ vai trò quan trọng của đăng ký thành lập doanh nghiệp, Đảng và Nhà nước đã và đang đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Điều đó được thể hiện rõ nét ở việc ban hành các luật doanh nghiệp như Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990, Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1990, Luật doanh nghiệp 2005 và mới nhất là Luật doanh nghiệp 2014. Sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2014 với nhiều quy định mới tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam được kỳ vọng sẽ đem lại tác động tích cực trong việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp và rút ngắn thời gian ra nhập thị trường của doanh nghiệp. Ở đây, cần thiết nghiên cứu cụ thể, sâu sắc các quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2014, đặc biệt những quy định liên quan đến “khuôn khổ pháp luật” để doanh nghiệp tự do thực hiện quyền đăng ký thành lập doanh nghiệp của mình. Trên thực tế, Luật Doanh nghiệp 2014 nói chung và những quy định về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo Luật này nói riêng được áp dụng trong phạm vi cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Ninh. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khởi nghiệp, Quảng Ninh đã đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 phải có 25.000 doanh nghiệp. Hiện nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã có gần 18.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, như vậy để hoàn thành mục tiêu, trong thời gian tới phải thành lập thêm gần 10.000 doanh nghiệp mới. Đây được coi là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, do đó tỉnh Quảng Ninh đã và đang tập trung vận động thành lập, phát triển 2 doanh nghiệp và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, trong đó có hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hơn thế nữa, Quảng Ninh được coi là tỉnh đi đầu trong việc thực hiện các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp gia nhập thị trường với thời gian nhanh nhất. Trong đó, trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp được xem xét đầu tiên và góp phần phục vụ doanh nghiệp trong phát triển kinh tế. Vì vậy, với mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ quy định mới của pháp luật doanh nghiệp về trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh qua đó chỉ ra những điểm tích cực, điểm hạn chế của quy định pháp luật và kiến nghị hoàn thiện những quy định còn chưa phù hợp nên em xin chọn đề tài luận văn: “Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Trong những năm gần đây, vấn đề pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp đã được một số tác giả tìm hiểu, quan tâm nghiên cứu, tổng hợp. Ở mỗi góc độ có cách thức nghiên cứu, đánh giá về Luật doanh nghiệp 2014 khác nhau. Vì vậy, tùy theo chủ quan của từng tác giả mà có cách phân tích, nhìn nhận khác nhau, mang tính cá nhân. Đã có rất nhiều bài viết về phân tích, đánh giá quy định pháp luật về đăng ký doanh nghiệp. Do đó, đây là một đề tài nghiên cứu thực tiễn, góp phần xây dựng cơ sở lý luận về thực thi về pháp luật đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Không chỉ vậy, luận văn còn chỉ ra những điểm vướng mắc, hạn chế trong việc áp 3 dụng các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Cụ thể: - Luận văn thạc sĩ Luật “Đăng ký doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp Việt Nam – thực trạng và một vài kiến nghị”. Người thực hiện: Lê Thế Phúc. Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan Hương. Khoa Luật năm 2006. Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận của hoạt động đăng ký kinh doanh. - Luận văn thạc sĩ Luật “Đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Người thực hiện: Đinh Thị Kiều Oanh. Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Học viện Khoa học xã hội 2018. Những công trình nghiên cứu trên đây đã nêu và giải quyết những vấn đề pháp lý về đăng ký doanh nghiệp nói chung trên toàn quốc và ở địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, tiếp cận từ thực tiễn của Tỉnh Quảng Ninh. Do đó, đề tài nghiên cứu này hoàn toàn độc lập và không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu đã được công bố trước đó. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của luận văn là xác định và làm rõ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Bên cạnh đó đánh giá thực trạng pháp luật, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam ở một địa phương cụ thể là tỉnh Quảng Ninh. Đối tượng nghiên cứu là quy định pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể là Luật 4 doanh nghiệp 2014 và thực tiễn trong hoạt động đăng ký kinh doanh tại tỉnh Quảng Ninh. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu và phân tích những quy định về việc đăng ký đối với doanh nghiệp mới thành lập; phân tích và đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh. Căn cứ pháp lý chủ yếu là dựa vào Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn luật (Nghị định 78//2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp) 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu pháp lý liên quan đến các vấn đề, có kết hợp so sánh, tổng hợp với thực tiễn để rút ra kết luận. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài của luận văn được nghiên cứu dựa trên những quy định của Luật doanh nghiệp 2014 với nhiều quy định mới mang tính cải cách trong thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Luận văn là bản phân tích những quy định pháp luật; chỉ ra những điểm mới, tiến bộ so với quy định pháp luật trước đây; đánh giá đầy đủ thực trạng pháp luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Kết quả luận văn mong muốn góp phần xác định những quy phạm pháp luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của quy định pháp luật hiện hành từ 5 thực tiễn tỉnh Quảng Ninh và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, mục lục, phần kết luận thì kết cấu của luận văn này gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký và trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại Quảng Ninh. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh. Do thời gian nghiên cứu hạn chế, nội dung luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP 1.1.Khái niệm về doanh nghiệp và đăng ký doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đầu tư thành lập doanh nghiệp đang là xu thế chung của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Điều này xuất phát từ tầm quan trọng của các doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ: doanh nghiệp là đơn vị sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu chủ yếu của toàn xã hội. Do vây, để hiểu được khái niệm doanh nghiệp một cách toàn diện và sâu sắc nhất, ta phải xem xét từ góc độ kinh tế cũng như từ góc độ pháp lý. Ở góc độ kinh tế, doanh nghiệp là một loại hình tổ chức nên mang những đặc điểm chung như bao gồm thành viên, có một cấu trúc rõ ràng để các thành viên thực hiện nhiệm vụ công việc của mình. Có thể nói đặc trưng riêng có của doanh nghiệp để phân biệt doanh nghiệp với các đơn vị khác như cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội… chính là mục tiêu mà doanh nghiệp luôn hướng tới đó là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm “doanh nghiệp” được pháp luật nhìn nhận với những đặc trưng riêng. Theo Luật Công ty năm 1990, doanh nghiệp được định nghĩa như là “một đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo định nghĩa này, tất cả những đơn vị kinh doanh có hoạt động kinh doanh sẽ được công nhận là doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Công ty năm 1990 lại chưa thể hiện được những đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp cho đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và mới 7 nhất là Luật Doanh nghiệp 2014 được ban hành và đưa ra một khái niệm doanh nghiệp một cách cụ thể và đầy đủ hơn: “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. 1.1.2. Khái niệm đăng ký doanh nghiệp Có thể nói rằng, sự hình thành của các doanh nghiệp là một quy luật tất yếu khách quan của nền kinh tế. Từ ý tưởng thành lập doanh nghiệp để thực hiện hoạt động kinh doanh, chủ thể kinh doanh cần tiến hành hoạt động đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thành lập hợp pháp doanh nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp (hay có thể nói là đăng ký thành lập doanh nghiệp) chính là việc chuẩn bị các điều kiện vật chất cần và đủ để hình thành một tổ chức kinh doanh. Người thành lập doanh nghiệp trước hết phải chuẩn bị trụ sở, trang thiết bị phục vụ kinh doanh, đội ngũ nhân công, người quản lý… Tại Việt Nam, khái niệm đăng ký doanh nghiệp được ghi nhận đầu tiên trong Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, khái niệm đăng ký doanh nghiệp cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ quản lý nhà nước, một trong những biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế đó là đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đăng ký thành lập doanh nghiệp là một trong những hoạt động quản lý đầu tiên của nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể thực hiện các hoạt động quản lý tiếp theo khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Thông qua việc đăng ký thành lập doanh nghiệp, cơ quan nhà nước sẽ tiếp nhận được các 8 thông tin cần thiết về một doanh nghiệp, từ đó việc quản lý các doanh nghiệp cũng sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Dưới góc độ kinh tế, đăng ký doanh nghiệp là hoạt động khởi tạo doanh nghiệp của chủ đầu tư bao gồm các hoạt động đầu tiên tạo cơ sở vật chất cần thiết để doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt động kinh doanh của mình và các thủ tục pháp lý cần thiết để khai sinh hợp pháp ra doanh nghiệp đó. Ở dưới góc độ pháp lý, đăng ký thành lập doanh nghiệp là một trong những thủ tục pháp lý được thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp, mức độ cải cách hành chính và thái độ của Nhà nước đối với quyền tự do kinh doanh, mà thủ tục pháp lý này có tính đơn giản hay phức tạp khác nhau. Nói cách khác, đăng ký thành lập doanh nghiệp là thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định để thành lập hợp pháp doanh nghiệp. Với tư cách là một chế định pháp lý, đăng ký thành lập doanh nghiệp là tổng hợp các quy định do nhà nước ban hành, quản lý sự xuất hiện trên thị trường của một chủ thể kinh doanh mới. Theo đó, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy định của pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được Nhà nước công nhận và bảo hộ bằng việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Đây là thủ tục pháp lý bắt buộc chung đối với tất cả các chủ thể khi tiến hành hoạt động kinh doanh, là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận tư cách và khả năng kinh doanh cho chủ thể kinh doanh, đồng thời khẳng định tư cách pháp lý và xác nhận địa vị pháp lý cho các chủ thể này. 1.1.3. Nhu cầu và mục đích của đăng ký doanh nghiệp. Như đã nói ở trên, đăng ký thành lập doanh nghiệp là thủ tục “khai sinh” ra doanh nghiệp. Hay nói cách khác, tư cách của doanh nghiệp chỉ được thừa 9 nhận và làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với doanh nghiệp khi thông qua việc đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đối với Nhà nước: việc quy định về đăng ký thành lập doanh nghiệp là thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước bằng pháp luật đối với các chủ thể hoạt động kinh doanh nói chung và các chủ doanh nghiệp nói riêng được thể hiện qua việc quy định việc đăng ký thành lập doanh nghiệp. Đồng thời, Nhà nước sẽ thực hiện chức năng quản lý cơ cấu các thành phần kinh tế xã hội, số lượng, hình thức, ngành nghề kinh doanh dựa trên địa bàn, kiểm soát các hoạt động kinh doanh theo đường lối đã đề ra. Trên cơ sở đó Nhà nước sẽ nắm bắt được thực trạng kinh tế của từng địa phương, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề để từ đó có những chủ trương, chính sách, biện pháp khuyến khích hoặc điều chỉnh phù hợp, giúp Nhà nước can thiệp một cách kịp thời và có mức độ vào nền kinh tế, bảo đảm có được một nền kinh tế hiện đại nhưng không xã rời chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Ngoài ra, thông qua hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp, Nhà nước sẽ thu đúng và đủ thuế. Bởi khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng là thời điểm làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đối với chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp: sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp được thừa nhận về mặt pháp lý, tức doanh nghiệp đã được xác lập tư cách chủ thể. Do đó, doanh nghiệp có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh như đã đăng ký dưới sự bảo hộ của pháp luật. Đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng chính là cơ sở pháp lý chắc chắn nhất để một doanh nghiệp yêu cầu cơ quan Nhà nước bảo vệ các quyền và lợi ích cũng như tài sản hợp pháp của mình, đồng thời bảo đảm tính pháp lý đối với các hoạt động của mình trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi hiện nay phần lớn các doanh 10 nghiệp không muốn thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước. Nhưng khi các chủ doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký doanh nghiệp theo yêu cầu của Nhà nước đồng nghĩa với việc giúp cho những dự án kinh doanh mà doanh nghiệp đã hoạch định sẽ có tính khả thi cao hơn. Về mặt xã hội: đăng ký thành lập doanh nghiệp còn giúp chủ thể doanh nghiệp thể hiện sự công khai hóa trước công chúng, khẳng định được việc thành lập của họ là có thực, tránh tình trạng lừa đảo, gây tổn hại tới lợi ích của bên thứ ba. Thông qua việc giám sát quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ thể từ khi thành lập đến khi giải thể hoặc phá sản của nhà nước cũng góp phần ngăn ngừa hoạt động kinh doanh trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể khác trong trường hợp phá sản hoặc giải thể. Đăng ký thành lập doanh nghiệp còn có ý nghĩa kinh tế, khi bước vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vừa có tư cách là một thành viên trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các hoạt động của doanh nghiệp còn góp phần tác động vào sự phát triển kinh tế của toàn xã hội. Như vậy, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ bảo đảm quyền lợi của bản thân các doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với việc bảo đảm trật tự quản lý Nhà nước và bảo vệ lợi ích cho các chủ thể khác trong xã hội. Chính vì vậy, đăng ký thành lập doanh nghiệp vừa là một nhu cầu tất yếu, vừa đòi hỏi mang tính nghĩa vụ đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay. 1.2. Những điều kiện đăng ký doanh nghiệp 1.2.1. Điều kiện về chủ thể Một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và được pháp luật bảo vệ là quyền thành lập doanh nghiệp, Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể 11 trong xã hội đều có quyền thành lập doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 và Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về đăng ký doanh nghiệp, việc thành lập, đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, đây là quyền của cá nhân và tổ chức được Nhà nước bảo hộ. Pháp luật doanh nghiệp nghiêm cấm các cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan khác gây phiền hà cho người thành lập doanh nghiệp 1. Luật doanh nghiệp 2005 đã có sự mở rộng chủ thể thành lập Doanh nghiệp là tổ chức, cá nhận nước ngoài và họ có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ở Việt Nam 2; đồng thời họ cũng có quyền góp vốn, mua cổ phần đối với các công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty Hợp danh và công ty Cổ phần3. Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn ghi nhận sự mở rộng chủ thể thành lập Doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định thông thoáng hơn, không có sự phân biệt, tách bạch giữa chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài nên pháp luật hiện hành không dành một điều để quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện, nội dung cho việc đăng ký kinh doanh, đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tại Việt Nam. Về nguyên tắc, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện quyền đăng ký doanh nghiệp như các chủ doanh nghiệp trong nước. Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định 06 đối tượng không được thành lập doanh nghiệp, đó là: (1) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình là việc sử dụng thu nhập dưới Điều 5 NĐ 78/2015/NĐ-CP, Điều 18 LDN 2014. Khoản 1 điều 13 LDN 2005 3 Khoản 3 điều 13 LDN 2005 1 2 12 mọi hình thức có từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục đích sau đây: Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị 4. Việc pháp luật quy định các chủ thể này không được tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp là nhằm đảm bảo công khai, minh bạch trong huy động, sử dụng ngân sách nhà nước. Đồng thời cũng góp phần ngăn chặn các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước, gây thiệt hại cho nguồn ngân sách nhà nước. (2) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức. Theo điều 20 Luật Cán bộ công chức năm 2008 có quy định: “Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền”. Tại điểm b Khoản 1 Điều 37 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005 cũng không cho phép cán bộ, công chức được “thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Có thể thấy, các đối tượng này đều đang đảm nhiệm công việc công, công việc ổn định, thường xuyên và được trả lương từ ngân sách nhà nước để đảm bảo đời sống, có nghĩa vụ phải hết lòng, tận tâm phục vụ xã hội, 4 Khoản 3 Điều 14 NĐ 102/2010/NĐ-CP 13 phục vụ nhân dân nên không thể dành thời gian thực hiện hoạt động kinh doanh mang tính chất công việc tư. Vì thế, pháp luật không cho phép cán bộ, công chức được thành lập doanh nghiệp là để tránh sự lạm quyền, nhập nhằng giữa công việc chung và công việc tư, làm ảnh hưởng tới hiệu quả công việc được giao. Đồng thời ngăn ngừa vì tư lợi cá nhân mà lạm dụng quyền hạn của mình để làm phương hại đến lợi ích chung của xã hội, của Nhà nước. (3) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Những chủ thể này có vai trò quan trọng, được Nhà nước đầu tư giáo dục, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của quốc gia, được hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước. Do vậy, việc tham gia thành lập doanh nghiệp có thể ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tư tưởng, hiệu quả công việc được giao nên pháp luật đã quy định cấm những chủ thể này không được thành lập doanh nghiệp. (4) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác. Đây là những người được Nhà nước giao nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Pháp luật quy định cấm những chủ thể này nhằm tạo điều kiện để họ tập trung vào công việc quản lý nhằm mang lại hiệu quả công việc cũng như để tránh sự tham nhũng, quan liêu của những cán bộ lãnh đạo trong việc sử dụng nguồn vốn nhà nước. 14 (5) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân. Nói đến tư cách chủ thể là nói đến khả năng mà chủ thể có thể tham gia vào quan hệ pháp luật với tư cách là một chủ thể độc lập, có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật đã tham gia.Một cá nhân có tư cách chủ thể đầy đủ, độc lập và hoàn thiện khi họ đã có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự 5. Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự 6. Năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực tự chịu trách nhiệm hành vi dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Người chưa thành niên, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì khả năng thực hiện các nghĩa vụ dân sự của họ cũng sẽ bị hạn chế. Tương tự, tổ chức không có tư cách pháp nhân, tức tổ chức không được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan; không có tổ chức theo quy định; không có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và không tự chịu trách nhiệm bằng tài sản; không được nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Vì vậy, pháp luật cấm những chủ thể này không được thành lập doanh nghiệp bởi nếu tham gia thành lập đăng ký doanh nghiệp sẽ dẫn đến nguy cơ hoạt động của doanh nghiệp không được đảm bảo. (6) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ 5 6 Khoản 1 Điều 16 BLDS 2015 Điều 19 BLDS 2015 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan