Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn truyền thuyết vùng lục đầu giang (nghiên cứu trên địa bàn huyện quế võ ...

Tài liệu Luận văn truyền thuyết vùng lục đầu giang (nghiên cứu trên địa bàn huyện quế võ và gia bình, tỉnh bắc ninh)

.PDF
177
102
94

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––– TRẦN THỊ NHUNG TRUYỀN THUYẾT VÙNG LỤC ĐẦU GIANG (Nghiên cứu trên địa bàn huyện Quế Võ và Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––– TRẦN THỊ NHUNG TRUYỀN THUYẾT VÙNG LỤC ĐẦU GIANG (Nghiên cứu trên địa bàn huyện Quế Võ và Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả khảo sát và nghiên cứu chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả Trần Thị Nhung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn ii LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ quý báu của nhiều đơn vị và cá nhân. Đầu tiên, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy Cô tham gia giảng dạy lớp Cao học Văn học Việt Nam khóa 11, quý Thầy Cô công tác tại Phòng Sau Đại học Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường THPT Quế Võ Số1-Huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh và các bạn đồng nghiệp. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương, người đã hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình chuẩn bị, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng luận văn này sẽ không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy Cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được bổ sung hoàn thiện nhằm giúp cho công tác sưu tầm và bảo tồn kho tàng truyền thuyết và lễ hội dân gian ở vùng đất Lục Đầu Giang đặc biệt là hai huyện Quế Võ, Gia Bình tỉnh Bắc Ninh cho mai sau. Xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả Trần Thị Nhung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn iii MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. ii MỤC LỤC ................................................................................................................. iii MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 6 6. Cấu trúc của luận văn.............................................................................................. 7 7. Những đóng góp của luận văn ................................................................................ 8 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 9 Chương 1. LỤC ĐẦU GIANG VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI, TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ....................................... 9 1.1. Vùng đất Lục Đầu Giang ..................................................................................... 9 1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội ............................................................. 9 1.1.2. Văn hóa truyền thống ...................................................................................... 12 1.2. Văn học dân gian vùng Lục Đầu Giang............................................................. 21 1.2.1. Loại hình tự sự dân gian ................................................................................. 21 1.2.2. Thơ ca dân gian ............................................................................................... 23 1.2.3. Tục ngữ phương ngôn và câu đố .................................................................... 25 1.3. Một số vấn đề lý luận và các nhóm truyền thuyết tiêu biểu vùng Lục Đầu Giang ... 27 1.3.1. Một số vấn đề lý luận về truyền thuyết........................................................... 27 1.3.2. Các nhóm truyền thuyết tiêu biểu vùng Lục Đầu Giang ................................ 29 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................... 31 Chương 2. GIÁ TRỊ TRUYỀN THUYẾT VÙNG ĐẤT LỤC ĐẦU GIANG .... 32 2.1. Giá trị nội dung của các nhóm truyền thuyết vùng đất Lục Đầu Giang ............ 32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn iv 2.1.1. Truyền thuyết Lục Đầu Giang phản ánh những giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc ..................................................................................................... 32 2.1.2. Truyền thuyết vùng Lục Đầu Giang ca ngợi công đức và tài năng hơn người của các nhân vật lịch sử, nhân vật văn hóa.......................................... 37 2.2. Giá trị nghệ thuật của truyền thuyết vùng đất Lục Đầu Giang .......................... 65 2.2.1. Cốt truyện ....................................................................................................... 65 2.2.2. Nhân vật .......................................................................................................... 66 2.2.3. Mô típ .............................................................................................................. 68 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................... 75 Chương 3. TRUYỀN THUYẾT VÙNG LỤC ĐẦU GIANG TRONG KHÔNG GIAN LỄ HỘI VÀ TÂM THỨC DÂN GIAN ..................................... 77 3.1. Truyền thuyết huyện Quế Võ với lễ hội dân gian về các vị Thánh ................... 78 3.1.1. Truyền thuyết về những người theo Gióng đi đánh giặc và các lễ hội ........... 78 3.1.2. Truyền thuyết Thánh Tam Giang với lễ hội ở xã Vân Dương ....................... 83 3.1.3. Truyền thuyết Thánh Nguyễn Minh Không với lễ hội rước nước ở chùa Phả Lại ........................................................................................................... 85 3.1.4. Truyền thuyết Đức Thánh Trần với lễ hội đền thượng làng Lê Độ, đền làng Hôm, đền làng Thịnh Lai… ................................................................... 87 3.2. Truyền thuyết huyện Gia Bình với lễ hội dân gian về các vị tướng .................. 88 3.2.1. Truyền thuyết các tướng Hai Bà Trưng với các lễ hội tiêu biểu .................... 88 3.2.2. Truyền thuyết Cao Lỗ Vương với lễ hội đền Cao Lỗ ở xã Cao Đức ............. 91 3.3. Truyền thuyết vùng đất Lục Đầu Giang trong tâm thức dân gian ..................... 94 3.3.1. Tâm thức hướng về cội nguồn ........................................................................ 94 3.3.2. Tâm thức đoàn kết sức mạnh cộng đồng ........................................................ 96 3.3.3. Tâm thức bảo tồn và lưu truyền văn hóa ........................................................ 97 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................................... 98 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 103 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vùng đất Lục Đầu Giang là nơi có địa thế phòng thủ hiểm yếu “Lục long tranh châu”. Đây là cửa ngõ đường thủy để tiến vào thành Thăng Long. Chính vì vậy vùng đất này trở thành nơi có bề dày lịch sử và có truyền thống văn hóa lâu đời. Nhân dân hai bên bờ sông Lục Đầu rất cần cù lao động và rất sáng tạo. Họ cũng là những con người yêu quê hương, yêu đất nước. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, những người dân vùng đất Lục Đầu Giang đã góp công sức thậm chí cả máu xương của mình để lập nên những chiến công vang dậy, bảo vệ vững chắc mảnh đất thiêng của tổ quốc. “Hơn bảy trăm năm trải mấy triều Khí thiêng phảng phất núi non cao” (Á Nam Trần Tuấn Khải) Trong hành trình khảo sát văn hóa và văn học dân gian ở các địa phương hai huyện Quế Võ, Gia Bình nằm bên bờ sông Lục Đầu, chúng tôi nhận thấy hệ thống truyền thuyết dân gian và lề hội của mảnh đất này rất phong phú. Truyền thuyết dân gian là một trong những thể loại quan trọng góp phần tạo nên nền văn hóa của mỗi vùng đất cũng như nền văn hóa dân tộc. Các nhân vật trong truyền thuyết vừa là các vị thần tự nhiên như: Pháp vân, pháp vũ, pháp lôi, pháp điện, sơn thần, thủy thần, thạch thần… vừa là các nhân thần, đó là những nhân vật lịch sử được dân gian hóa. Chính vì vậy thông qua những tác phẩm truyền thuyết ta thấy rất nhiều những tri thức về cuộc sống của người xưa từ đời sống vật chất, công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, phong tục tập quán và đời sống tâm linh. Việc tìm hiểu cái hay cái đẹp của các tác phẩm truyền thuyết tiêu biểu của vùng đất Lục Đầu Giang ta sẽ hiểu được tâm tư, tình cảm và cả tư duy của nhân dân trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của dân tộc. Vì vây mỗi triều đại từ: Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần, hậu Lê và triều Nguyễn… đều để lại những dấu ấn đậm nét lên phong tục tập quán, văn hóa, văn học dân gian của những làng quê bên bờ sông Lục Đầu. Trải qua những thăng trầm của lịch sử nhiều ngôi đình, ngôi đền, ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá không còn dấu vết, thần tích, thần phả cũng bị thiêu trụi bởi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 2 ngọn lửa oan nghiệt của chiến tranh. Khi chiến tranh đi qua nhân dân lại mải miết làm kinh tế, dựng xây nhà cửa khang trang, làm đường giao thông to đẹp mà họ quên mất việc khôi phục những di sản văn hóa, văn học dân gian có giá trị tinh thần vô cùng to lớn của ông cha. Đây là một thực trạng đáng buồn, đáng lo ngại. Là một người con sinh ra và lớn lên ở vùng đất Lục Đầu Giang, hơn nữa còn là một giáo viên dạy văn ở trường THPT nên tôi thiết nghĩ việc nghiên cứu về truyền thuyết dân gian vùng đất Lục Đầu Giang chủ yếu ở hai huyện Quế Võ và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh là một việc làm vô cùng cần thiết, để giới thiệu những truyền thuyết và lễ hội ở quê nhà cho thế hệ sau, giúp cho người dân thêm tự hào, yêu quý mảnh đất quê hương mình. Đó cũng là cơ hội để người viết tích lũy thêm kiến thức về kho tàng văn học dân gian ở địa phương. Vốn kiến thức này sẽ rất hữu ích góp phần giảng dạy văn học dân gian và mở rộng liên hệ thực tế về sự ảnh hưởng của văn học dân gian tới văn học viết. Điều đó giúp các em học sinh thấy được sự phong phú và giá trị của thể loại truyền thuyết dân gian ở quê nhà nói riêng, kho tàng văn học dân gian nói chung. Từ đó khơi dậy trong các em lòng tự hào dân tộc, các em sẽ có ý thức trân trọng, biết giữ gìn, bảo tồn và phát huy vốn văn hóa, văn học dân gian của cha ông. 2. Lịch sử vấn đề 2. 1. Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết ở Việt Nam Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử.Thể loại truyền thuyết ở nước ta ra đời sớm từ giai đoạn một nghìn năm Bắc thuộc nhưng phải đến thế kỷ XIV, XV một số nhà nho như: Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh, Trần Thế Pháp, Kiều Phú, Ngô Sỹ Liên…mới có ý thức dày công sưu tầm truyền thuyết dân gian và tập hợp lại trong các cuốn sách: Báo cực truyện, Ngoại sử ký, Việt điện U Linh, Lĩnh Nam trích quái và Đại Việt sử ký toàn thư… Nhưng việc sử dụng thuật ngữ truyền thuyết vào việc nghiên cứu văn học dân gian ra đời muộn mãi đến năm 1957 với sự chào đời của hai cuốn sách: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý Đôn ( gồm các ông: Lê Thước,Trương Chính,Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Liên, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu) và tác phẩm Sơ thảo lịch sử văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 3 học Việt Nam do các tác giả Văn Tân,Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi,Hoài Thanh,Vũ Ngọc Phan biên soạn thì thuật ngữ truyền thuyết mới được dùng. Trong cuốn giáo trình của trường Đại học Sư phạm xuất bản năm 1961- 1970 đã đưa truyền thuyết vào cơ cấu các thể loại văn học dân gian như: thần thoại, cổ tích…Chúng đều thuộc loại hình tự sự dân gian có cốt truyện, có nhân vật. Năm 1971 các tác giả: Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc Côn và Kiều Thu Hoạch đã đưa ra định nghĩa về truyền thuyết, chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thể loại văn học này. Đây là những đóng góp to lớn cho thể loại truyền thuyết. Năm 1973 khi nói về ý nghĩa, tầm quan trọng của di sản văn hóa dân tộc mà cha ông để lại, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những định hướng về thể loại truyền thuyết “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa, gửi gắm vào nó tâm tình thiết tha của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tửng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn học mà đời đời con người ưa thích” [17,Tr 506]. Năm 1990 trong cuốn giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” của tác giả Hoàng Tiến Tựu và cuốn sách “Văn học dân gian Việt Nam” của tác giả Lê Chí Quế đã đưa ra khái niệm và cách phân loại truyền thuyết một cách hợp lý, rất có sức thuyết phục. Năm 2002 cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của tác giả Phạm Thu Yến đã có những định hướng khá toàn diện cho việc nhận diện thể loại truyền thuyết từ đặc điểm nội dung đến các thủ pháp nghệ thuật quen dùng của thể loại văn học dân gian này. Những năm gần đây đã có nhiều hướng nghiên cứu mới về truyền thuyết trong đó nổi bật là hướng nghiên cứu liên ngành. Điểm qua các công trình sưu tầm, tìm hiểu, nghiên cứu về truyền thuyết dân gian trong nhiều giai đoạn lịch sử chúng tôi nhận thấy thể loại truyền thuyết đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị ra đời. Đây sẽ là nguồn tư liệu vô cùng quan trọng để người viết áp dụng vào đề tài nghiên cứu của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 4 2.2. Tình hình nghiên cứu truyền thuyết dân gian ở Bắc Ninh và vùng đất Lục Đầu Giang Cho đến nay việc sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian nói chung, thể loại truyền thuyết nói riêng tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã được khá nhiều người quan tâm. Bắng chứng rõ nhất là có rất nhiều những cuốn sách đã ra đời như: Việt điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái của triều đại nhà Trần, được coi là hai tác phẩm đặt nền móng cho việc tìm hiểu truyện kể và truyền thuyết dân gian trong đó có những sự tích về: Thần Phù Đổng (Thánh Gióng), truyện rùa vàng, nguyễn Minh Không… Đầu thời Nguyễn có cuốn sách Bắc Ninh phong thổ tạp ký ghi chép lại sự tích các vị thần và Phật ở các đền chùa của Kinh Bắc. Tác phẩm Bắc Ninh toàn tỉnh dư địa chí và cuốn Bắc Ninh dư địa chí của triều Nguyễn đã ghi chép lại những nét văn hóa tiêu biểu của miền quê quan họ Kinh Bắc và các truyện kể dân gian về các vị thánh thần. Cuốn sách Truyện cổ xứ Bắc của nhóm tác giả Xuân Cần, Anh Vũ sưu tầm có nhiều thể loại truyện kể: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, giai thoại. Cuốn sách Các nữ thần Việt Nam đã kể lại cuộc đời và chiến công của cá vị nữ thần ở Việt Nam, trong đó có nhiều nữ thần người Kinh Bắc. Cuốn sách Lễ hội Bắc Ninh của tác giả Trần Đình Luyện đã giới thiệu khá đầy đủ tên và nơi tổ chức và thời gian tổ chức các lễ hội từ lớn đến nhỏ của Bắc Ninh, Truyền Thuyết thành cổ Luy Lâu của Phạm Thuận Thanh chủ yếu đi vào giới thiệu những truyền thuyết vùng huyện Thuận Thành. Người anh hung làng Dóng của Cao Huy Đỉnh giúp cho người đọc có cái nhìn toàn diện từ nguồn gốc xuất thân, con đường Dóng ra trận, con đường Dóng trở về quê nhà và bay lên trời. Danh Nhân lịch sử Kinh Bắc của Trần Quốc Thịnh đã kể về cuộc đời và sự nghiệp của hai trăm tám ba danh nhân của mảnh đất Kinh Bắc. Truyện cổ ca dao tục ngữ các làng quan họ của Lê Danh Khiêm chủ yếu kể về thủy tổ Quan họ, những sự tích liên quan đến các làng Quan họ và một phần nhỏ là ca dao - Tục ngữ. Thần tích sắc phong các vị thần thành hoàng làng tỉnh Bắc Ninh của Lê Viết Nga liệt kê đầy đủ các thần tích, thần sắc và lễ hội đình, đền ở tất cả các làng xã ở các huyện, thành phố của Bắc Ninh trong đó có nhiều lễ hội, nhiều thần tích bị mai một khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi tiếc nuối. Truyền thuyết về các vị tổ nghề của tỉnh Bắc Ninh, đã giới thiệu lịch sử Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 5 các làng nghề trong tỉnh Bắc Ninh và tóm tắt thần tích các vị tổ nghề đã được thờ phụng trong các làng nghề tiêu biểu. Văn chương Bắc Ninh của hai tác giả Ngọc Lâm và Khắc Đàm giúp người đọc thấy một phần nhỏ các tác phẩm Truyện cổ, ca dao, tục ngữ và một vài tác phẩm văn thơ của người con Kinh Bắc… Ở những cuốn sách này các tác giả đã dày công sưu tầm các thể loại văn học dân gian ở quê nhà như: tục ngữ, ca dao, các giai thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết, dân ca quan họ, sự tích và ý nghĩa một số các địa danh, trang sử các địa phương trong tỉnh, phong tục tập quán, lễ hội đình chùa… trong không gian văn hóa thôn làng. Bên cạnh đó dưới góc độ khoa học văn học, truyền thuyết dân gian Bắc Ninh cũng đã được đề cập trong các công trình như: Truyện kể dân gian trong không gian văn hóa xứ Bắc (năm 2011, luận án tiến sĩ của Nguyễn Huy Bỉnh). Làng tranh dân gian Đông Hồ (năm 2012, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hạnh). Tín ngưỡng thành hoàng làng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay (năm 2013 của...). Truyền thuyết và lễ hội chùa Dâu (năm 2014, luận văn thạc sĩ của Trần Xuân Chương) Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tín ngưỡng bà chúa kho ở châu thổ Bắc Bộ (năm 2015, luận án tiến sĩ của Phan Phương Anh), Đại học sư phạm Hà Nội. Như vậy, cho đến thời điểm này chưa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu một cách toàn diện về truyền thuyết vùng đất Lục Đầu Giang, đặc biệt là truyền thuyết ở hai huyện Quế Võ và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu đi trước, với ý thức muốn giữ gìn những di sản văn hóa của quê hương Kinh Bắc, chúng tôi chọn “Truyền thuyết dân gian vùng Lục Đầu Giang (nghiên cứu trên địa bàn huyện Quế Võ và Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh)” làm đề tài cho công trình nghiên cứu của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài luận văn là Truyền thuyết dân gian vùng Lục Đầu Giang (chủ yếu ở hai huyện Quế Võ và Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). - Tìm hiểu thêm một số lễ hội dân gian tiêu biểu ở nơi đây 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi căn cứ vào các văn bản truyện kể dân gian xứ rong Kinh Bắc đã được các nhà Nho, nhà nghiên cứu ghi chép trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 6 các cuốn sách đã được xuất bản như: Người anh hùng làng Dóng, Danh nhân lịch sử Kinh Bắc, kể chuyện lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc... - Mặt khác, chúng tôi cũng tham khảo các thần tích, thần sắc ở các đền thờ, đình thờ ở các địa phương vùng Lục Đầu Giang. - Tư liệu nghiên cứu chủ yếu là các: Truyền thuyết dân gian vùng đất Lục Đầu Giang trong một không gian cụ thể là hai huyện Quế Võ, Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh. Tập trung vào những nhóm truyền thuyết tiêu biểu về: Thánh Tam Giang, Thánh Gióng, Nguyễn Minh Không, Cao Lỗ, các tướng thời Hai Bà Trưng, Trần Thủ Độ, Thiên Tướng Hoàng Bà... 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Nhận diện giá trị của truyền thuyết với tư cách một thể loại văn học dân gian và dấu ấn, vai trò của nó trong không gian lễ hội và tâm thức người dân. - Từ đó góp tiếng nói khẳng định bề dày và trầm tích văn hóa ở những nơi tiêu biểu của vùng đất Lục Đầu giang. - Bước đầu định hướng chung về bảo tồn và phát huy giá trị truyền thuyết và lễ hội dân gian đất Lục Đầu vùng Giang. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát, mô tả một cách hệ thống truyền thuyết dân gian ở hai huyện nằm bên bờ sông Lục Đầu là Quế Võ, Gia Bình và những nét văn hóa tiêu biểu của vùng đất Kinh Bắc. - Phân tích các giá trị nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết và mối liên hệ giữa truyền thuyết với lễ hội ở vùng đất Lục Đầu Giang. - Đưa ra một số định hướng chung về bảo tồn và phát huy giá trị truyền thuyết và lễ hội dân gian nơi mảnh đất địa linh nhân kiệt này. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp sưu tầm điền dã: Đây là một trong những phương pháp quan trọng mà chúng tôi sử dụng trong luận văn này. Chúng tôi đã tiến hành điền dã đến tận các làng có thờ các vị thánh và thần như: Thánh Tam Giang, Thánh Gióng, Cao Lỗ Vương, Nguyễn Minh Không... của tỉnh Bắc Ninh, khảo sát các nơi thờ cúng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 7 sưu tầm các truyền thuyết, phỏng vấn những người cao tuổi có hiểu biết về lịch sử ngôi đền, chụp ảnh tư liệu... - Phương pháp khảo sát thống kê: Trên cơ sở những tài liệu truyện kể, truyền thuyết... thu thập được qua quá trình điền dã, kết hợp với những nguồn tài liệu sách, báo viết về các vị thánh, thần nói trên đã được công bố, xuất bản, các hồ sơ di tích, lễ hội ở địa phương, chúng tôi tiến hành thống kê phân loại, sắp xếp thành từng nhóm. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ những truyền thuyết ở hai huyện Quế Võ, Gia Bình chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá và nhìn nhận về đặc điểm nội dung và nghệ thuật truyền thuyết dân gian vùng đất Lục Đầu Giang. - Phương pháp so sánh loại hình: Chúng tôi tiến hành mở rộng liên hệ so sánh với một số truyền thuyết dân gian ở một số vùng lân cận để thấy được những giá trị nổi bật trong những truyền thuyết vùng Lục Đầu Giang và chỉ rõ những nét chung và riêng mang đậm dấu ấn văn hoá của vùng miền ở các truyền thuyết dân gian này. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: là phương pháp nghiên cứu có sự kết hợp phương pháp của nhiều ngành khoa học khác nhau: văn hóa học, Sử học, Dân tộc học,... để tập trung làm rõ giá trị của truyền thuyết dân gian vùng đất Lục Đầu Giang và ý nghĩa to lớn của các truyền thuyết trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Lục Đầu Giang, vùng đất, con người, truyền thống văn hóa và một số vấn đề lý luận Chương 2: Giá trị của truyền thuyết vùng Lục Đầu Giang Chương 3: Truyền thuyết vùng Lục Đầu Giang trong không gian lễ hội và tâm thức dân gian. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 8 7. Những đóng góp của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống và khá toàn diện về các truyền thuyết ở Quế Võ, Gia Bình, hai huyện nằm bên bờ sông Lục Đầu và văn hóa lễ hội gắn với những truyền thuyết nơi đây. Thêm một ý kiến khẳng định vị trí quan trọng của các truyền thuyết dân gian vùng đất Lục Đầu Giang và những nét văn hóa tâm linh đặc trưng của các truyền thuyết này. Từ đó, người viết mong muốn được góp phần công sức nhỏ bé của mình vào việc gìn giữ và giới thiệu vốn văn hoá vừa phong phú vừa đặc sắc của quê hương Kinh Bắc thương yêu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 9 PHẦN NỘI DUNG Chương 1. LỤC ĐẦU GIANG VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI, TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ MỘT SỐ VÂN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRUYỀN THUYẾT Trong phạm vi cho phép của đề tài nghiên cứu, chúng tôi không có tham vọng đi sâu vào mọi vấn đề thuộc về điều kiện tự nhiên, xã hội và vấn đề văn hóa của vùng đất Lục Đầu Giang ở hai huyện Quế Võ, Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh mà chỉ đi vào tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự hình thành các truyền thuyết dân gian và lễ hội của hai huyện này. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu chúng tôi chỉ tập trung vào những vấn đề sau: Vùng đất Lục Đầu Giang, con người và văn hóa, văn học dân gian của vùng đất Lục Đầu ở hai huyện Quế Võ, Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh. 1.1. Vùng đất Lục Đầu Giang 1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội Về mặt vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng Lục Đầu Giang là điểm hẹn của sáu dòng sông là: sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Thầy, sông Thái Bình mà thành. Chính vì vậy mà “người xưa coi đây là biểu tượng hợp lưu của tứ đức trong vũ trụ” cũng bởi vì trong sáu dòng sông nói trên có bốn dòng sông đều có một chữ đức trong tên của mình: sông Thương (Nhật Đức), sông Lục Nam (Minh Đức), sông Cầu (Nguyệt Đức),sông Đuống (Thiên Đức). Nhân tâm trong trời đất đều được hội tụ lại ở quãng sông Lục Đầu này,đem lại sự bình yên, thịnh vượng cho cuộc sống của nhân dân. Bãi Nguyệt Bàn là một bãi bồi toàn đất phù sa mầu mỡ, cây cối xanh tốt quanh năm. Nó lại nằm ở giữa dòng Lục Đầu Giang giống như một hòn ngọc xanh quý giá. Sáu dòng sông giống như sáu con rồng đều quay đầu về phía Bãi Nguyệt Bàn, nên nhân dân mới gọi hiện tượng tự nhiên kì thú này là: Lục long tranh châu. Thời phong kiến dòng sông này trở thành dòng sông huyền thoại đã ghi dấu biết bao chiến công của cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đặc biệt là chiến công của triều đại nhà Trần trong ba lần đại phá giặc Nguyên Mông. Dòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 10 sông Lục Đầu là ranh giới chia tách giữa hai tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương. Nằm bên bờ phía Tây Bắc của dòng sông là huyện Chí Linh của tỉnh Hải Dương, nằm ở phía bờ Đông Nam là hai huyện Quế Võ và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh. Hai huyện này chạy men theo đôi bờ của dòng sông Thiên Đức. Đây là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng là cửa ngõ đường thủy để tiến vào kinh thành Thăng Long xưa và cũng là thủ đô Hà Nội ngày nay. Quốc lộ mười tám chạy dọc giữa huyện Quế Võ,quốc lộ ba tám nồi huyện Gia Bình với Hải Dương và Hải Phòng, cùng với cây cầu Bình Than và tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua đây,đã góp phần nối kết vùng đất Lục Đầu với những trung tâm kinh tế, văn hóa và thương mại lớn là Hà Nội, Quảng Ninh,Hải Phòng.Đây là tam giác kinh tế trọng điểm của miền Bắc Việt Nam. Không chỉ thuận tiện về giao thông đường bộ, vùng đất này cũng khá thuận tiện về giao thông đường thủy, phía Bắc của huyện Quế Võ là dòng sông Cầu, phía Nam là dòng sông Đuống rất thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa cũng như vấn đề an ninh quốc phòng. Quá trình bồi đắp phù sa của hai dòng sông Nguyệt Đức và Thiên Đức đã tạo nên những bãi bồi rộng lớn chạy dọc theo đôi bờ của hai dòng sông này. Đây là nơi nhân dân ven sông trồng các loại cây hoa màu như: chuối, ngô, khoai, đỗ, lạc, vừng…Chẳng thề mà nhà thơ Hoàng Cầm viết về quê hương trong bài Bên kia sông Đuống (sông Thiên Đức) với hình ảnh về một miền quê trù phú “Xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc”. Vùng đất Lục Đầu Giang về phía Bắc Ninh có diện tích 159, 482 km2, địa hình không bằng phẳng,có độ dốc theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện rõ qua dòng chảy của hai dòng sông. Miền quê này không hoàn toàn là đồng bằng mà có xen kẽ những đồi núi thấp như dãy núi Nam Sơn, núi Dạm, núi Thiên Thai,núi Đông Du, núi Hiền Lương... Nhưng đồng bằng chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của hai huyện. Khu vực này có khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành bốn mùa rõ rệt đó là: xuân, hạ, thu, đông.Mùa xuân khí hậu thường ấp áp và ẩm thấp vì có gió nồm và mưa phùn, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại cây trồng phát triển xanh tốt.Mùa hè bầu không khí rất oi bức, nóng nực và hay có những trận mưa rào nên những khu đồng chiêm trũng ở đây hay bị ngập úng, mực nước của hai con sông dâng lên rất cao dễ gây ra vỡ đê và lụt lội. Nhân dân ở đây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 11 còn nhớ mãi những trận lụt lịch sử năm 1968 và năm 1971. Mùa thu khí hậu rất mát mẻ với sự xuất hiện của những làn gió heo may, lượng mưa không nhiều như mùa hè, công việc cấy, cày của nhà nông được thuận lợi. Mùa đông thời tiết giá lạnh với những trận gió mùa đông bắc ùa về nhưng đây lại là thời tiết lý tưởng để những cây trồng vụ đông phát triển đặc biệt là khoai tây và cải bắp… Xưa kia vùng đất Lục Đầu Giang cũng có những cánh rừng rậm như rừng tre ngà ở làng Ngườm (Nghiêm Xá), rừng gỗ lim ở làng Can Vũ, những khu rừng này gắn liền với truyền thuyết về Thánh Gióng đi đánh giặc Ân. Nhưng nay phần lớn những khu rừng bị tàn phá chỉ còn lại những cái tên: Đồng rừng, Bãi rừng, Bãi lim, Vườn Cam… Nên tài nguyên rừng không lớn, vì chủ yếu là rừng trồng. Tài nguyên khoáng sản chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: đất sét, cát để sản xuất đồ gốm, gạch ngói các loại. Vùng đất Lục Đầu Giang ngày xưa còn có một hồ nước rộng lớn chạy dài suốt từ khu vực huyện Yên Dũng của Bắc Giang đến hai huyện Gia Bình, Lương Tài của Bắc Ninh. Hồ nước đó có tên gọi là hồ Lãng Bạc. Hồ nước này gắn liền với truyền thuyết Hai Bà Trưng. Nhưng theo thời gian và những thay đổi về kiến tạo địa chất, một lượng phù sa lớn từ dòng Lục Đầu đã bồi đắp thành những cánh đồng và làng mạc, phố phường dân cư đông đúc.Chính những yếu tố tự nhiên này đã tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của nền văn hóa, văn minh nông nghiệp lúa nước ở vùng Lục Đầu Giang, trong đó có văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng. Về điều kiện xã hội,dân số của vùng đất Lục Đầu Giang theo số liệu điều tra năm 2015 là 167672 người, với hai mươi bảy dân tộc sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh, Tày, Nùng.Trong số các dân tộc đang sinh sống ở vùng đất này thì người Kinh chiếm số lượng lớn nhất, đông đảo nhất.Họ là những người giữ vai trò chủ đạo trong quá trình khai phá, dựng xây và phát triển các làng xã ở miền quê này. Ngày từ thời nhà nước Văn Lang, Âu Lạc những người Kinh ở vùng đất này đã có nền sản xuất văn minh tương đối phát triển. Họ phát triển kinh tế vừa dựa vào việc khai thác những thứ có sẵn trong tự nhiên như: bắt cá, cua ốc, trai hến và hái các loại hoa quả: khế, cam… Họ còn biết cấy lúa, trồng ngô và chăn nuôi gà, lợn. Biết làm các nghề thủ công: rèn sắt, đan tre, đan cói, đúc đồng. Nhưng sản xuất nông nghiệp, cấy lúa nước và trồng cây vẫn là lĩnh vực kinh tế chủ đạo. Các nông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 12 cụ phục vụ sản xuất của người dân Lục Đầu ngày càng tinh sảo. Sau một thời gian dài cấy trồng cây lương thực người Kinh đã biết tích lũy cho mình những kinh nghiệm phong phú và những phương pháp canh tác phù hợp hơn với điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu của miền đất này.Những kinh nghiệm ấy được lưu truyền đến ngày nay qua những bài ca dao, những câu tục ngữ và phương ngôn của xứ Bắc. Các dân tộc Tày, Nùng…chỉ chiếm số lượng rất nhỏ. Họ là những người về làm dâu, làm rể ở vùng đất này hoặc mốt số người dân di cư từ mạn Bắc Giang, Lạng Sơn… xuống vì thấy điều kiện sống ở đây thuận lợi nên họ cư trú lâu dài.Chính điều này tạo nên điều kiện thuận lợi để giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, để nền văn hóa của vùng đất Lục Đầu ngày một phong phú, đa dạng. Cư dân vùng Lục Đầu Giang chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo: Nho, Phật, Đạo… sớm muộn khác nhau. Đạo phật có ảnh hưởng mạnh tới địa phương từ thời nhà Lý, một loạt ngôi chùa được xây dựng trong thời gian này, những giáo lý của nhà phật khá phù hợp với đạo lý truyền thống của người dân nên được đón nhân và truyền bá rộng rãi. 1.1.2. Văn hóa truyền thống Lục Đầu Giang là một trong những vùng đất địa linh nhân kiệt, một trong những nơi hội tụ nhiều nhất các di tích lịch sử, văn hóa. Gia Bình và Quế Võ là hai địa danh văn hóa tiêu biểu của vùng đất Lục Đầu Giang thuộc địa phận tỉnh Bắc Ninh. Đây là vùng đất giàu truyền thống văn hóa. Văn hóa miền đất này rất đa dạng có sự hội nhập và tiếp thu có chọn lọc nhiều yếu tố văn hóa trong và ngoài nước.Có những yếu tố văn hóa truyền thống của người Việt từ cách ăn ở, lao động sản xuất,mối quan hệ trong gia đình đến mối quan hệ ngoài xã hội.Bên cạnh đó có những yếu tố văn hóa là kết quả của sự hội nhập từ nước ngoài đặc biệt là hai nước láng giềng Trung Quốc và Ấn Độ. Ở những địa phương này còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Văn hóa vật thể là những yếu tố văn hóa tồn tại hữu hình người ta có thể ngắm nhìn bằng mắt, có thể cầm lên bằng tay, có thể cảm nhận qua các giác quan như: thị giác, xúc giác, vị giác. Những yếu tố văn hóa này tồn tại qua nhiều thời đại và được các thế hệ người dân giữ gìn và phát huy. Yếu tố văn hóa vật thể được nhắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 13 đến trước tiên là kiến trúc tổng thể của những thôn (làng) ở Quế Võ, Gia Bình cũng mang những nét chung của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Hệ thống đường giao thông ở các làng quê vùng đất Lục Đầu cũng khá độc đáo. Phần lớn những con đường vào các xóm đều rất nhỏ, chạy quanh co nên những phương tiện giao thông hiện đại như ô tô chỉ có thể đỗ ở đầu làng, không thể vào trong các ngõ xóm. Làng nào cũng có từ hai đến ba trục đường chính chạy ở mặt phía trước làng, đường chạy giữa làng, đường chạy phía sau làng. Những con đường này thường rộng gấp đôi đường trong ngõ xóm, cây cối được trồng hai bên đường xanh tốt, phần lớn là những lũy tre.Ngày xưa toàn là đường đất, nên trời mưa là lầy lội trơn trượt, nhưng ngày nay theo chính sách phát triển giao thông nông thôn của Đảng và nhà nước những con đường ở các làng quê đều đã được đổ bê tông rất sạch sẽ. Yếu tố văn hóa vật thể được nhắc đến tiếp theo là kiến trúc của những ngôi nhà trong các thôn(làng), ngày xưa những gia đình giàu có thì xây nhà ngói sân gạch khung nhà được làm bằng gỗ lim rất chắc chắn, còn những gia đình nghèo thì sống trong những ngôi nhà mái lợp bằng rơm rạ, khung nhà bằng tre, tường nhà là vách đất, để có vách đất chắc chắn những người dân nghèo ở Lục Đầu Giang đã biết dùng rơm rũ dối ngào lẫn với bùn đất và chát lên khung tre của ngôi nhà. Kiến trúc nhà cửa ngày nay đã khác xưa nhưng vẫn còn kẻ giàu người nghèo nên nhà cửa vẫn thể hiện rõ điều kiện kinh tế của từng gia đình. Nhà giàu xây cao tầng, xây biệt thự, nhà vườn… trang trí cầu kì đẹp mắt, nhà nghèo là nhà cấp bốn cũ kĩ, thấp bé. Văn hóa vật thể còn được thể hiện rõ nét ở những ngôi chùa cổ kính có lịch sử tồn tại lâu đời, có kiến trúc độc đáo như: Chùa Hàm Long được xây dựng từ thời nhà Lý trên dãy núi Nam Sơn,dãy núi như hình con rồng cha, chỗ xây chùa là vị trí miệng của con rồng nên mới có tên gọi Hàm Long.Đường lên chùa là những bậc đá xanh, hai bên là những cây cổ thụ tỏa đầy bóng mát.Sân chùa không rộng nhưng được trồng nhiều cây xanh. Mới vào đến sân chùa đã cảm nhận thấy bầu không khí trong lành thanh tịnh chốn cửa thiền. Tòa nhà chính điện có bốn pho tượng đồng có niên đại khoảng gần một trăm năm. Đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng linh thiêng là nơi nhốt vong an toàn nhất nên khách thập phương đến để cầu cúng và gửi vong hồn những người trong gia đình bị mất vào giờ nặng rất đông.Cách chùa Hàm Long Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 14 không xa là ngôi đền Tấm Cám và ngôi chùa Dạm, dưới chân núi là ngòi Con Tên, Ngòi Con Tên chạy thẳng đến chân núi con Rùa tạo thành một quần thể danh thắng đẹp và linh thiêng .Nếu như dãy núi Nam Sơn được ví như con rồng cha để người dân Lục Đầu xây dựng chùa Hàm Long thì dãy núi Thiên Thai nằm bên bờ hữu ngạn của dòng sông Thiên Đức được ví như con rồng mẹ. Đây là dãy núi hội tụ nhiều linh khí nên từ thời nhà Lý cũng xây dựng ở đây hai ngôi chùa là Chùa Đông Lâm và chùa Tĩnh Lư thiên tự .Cửa sông Lục Đầu còn có ngôi chùa thờ hai vị quốc sư của triều đình nhà Lý là Dương Không Lộ và Khổng Minh Không (Nguyễn Minh Không) đó chính là Chùa Phả Lại, có tên chữ là Chúc Thánh tự. Ngôi chùa này tọa lạc trên đỉnh núi Phả Lại hướng ra cửa sông Lục Đầu (Lục Đầu Giang) thuộc xã Đức Long, huyện Quế Võ.Quần thể đình,đền, chùa Phả Lại được xây dựng vào thời Lý ở thế kỷ XI.Khuôn viên chùa rất rộng, cổng chùa mới được xây dựng lại thời gian gần đây. Sân chùa có nhiều cây cối xanh tốt và có một tấm bia đá cổ Phả Lại từ bi. Mái ngói của chùa rêu phủ u trầm tạo nên vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng. Vùng Lục Đầu Giang còn có hàng trăm ngôi đình, đền. Mỗi ngôi đình, đền ở đây đều có kiến trúc độc đáo như: Đền Tam phủ còn có tên là đền thờ “Ba vua”, ba vị vua được thờ ở đây là Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ - vua của ba cõi tự nhiên (trời-đất-nước) đã sáng tạo ra muôn loài. Đền xây từ rất lâu đời và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần trong đó để lại dấu ấn đậm nét nhất là những đường nét kiến trúc nghệ thuật của thời Lê và thời Nguyễn. Cổng đền vừa được xây dựng lại rất to đẹp, với những hình rồng phượng uy nghiêm. Trước cửa đền là một khoảng sân rộng với nhiều cây cổ thụ có nhiều cành lá rậm rạp tươi tốt tỏa bóng mát quanh năm, trong đó lâu đời nhất là cây đa lan có tuổi thọ hàng trăm năm, bộ rễ của nó xù xì như cây đa nhưng lại ra lá và hoa giống như cây lan. Cây đa lan này tươi tốt quanh năm, tỏa hương thơm ngát như một nét độc đáo khiến không gian đền thêm phần cổ kính, thâm nghiêm. Ngôi nhà phía trước là đền thờ “Ba vua” (Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ). gồm ba tòa: tiền tế, trung đền và hậu cung. Tòa tiền tế được xây dựng theo kiến trúc ba gian hai trái, mái đao cong, khung dựng hoàn toàn bằng gỗ lim với nhiều đường nét chạm trổ hình rồng, phượng, cây cỏ, hoa lá rất cầu kì tinh sảo. Trung đền có kiến trúc tương tự như tòa tiền tế, là nơi đặt ban thờ Ngũ vị tiên ông, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan