Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thự...

Tài liệu Luận văn vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh bắc ninh

.PDF
92
116
109

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THU TRANG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội – 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THU TRANG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Giám đốc Học viện Khoa học xã hội đã quyết định giao cho học viên Vũ Thu Trang đề tài luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh”. Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự; Mã số: 8380104. Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của học viên và hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Minh Tuyên; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố; nội dung luận văn không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Học viên xin chịu mọi trách nhiệm về tính trung thực của luận văn. Tác giả luận văn Vũ Thu Trang MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TTHS.............................................. 5 1.1. Khái niệm về người bị buộc tội và quyền của người bị buộc tội theo tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 5 1.2. Khái niệm, nội dung, đặc điểm vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội .................................................................... 25 1.3. Qui định về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................. 31 Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH .... 40 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng qui định pháp luật về vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh ....................... 40 2.2. Thực trạng vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh ............... 43 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ..................................................................................................... 65 3.1. Bảo đảm thực hiện đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền của người bị buộc tội ............................................................... 65 3.2. Các giải cụ thể .................................................................................. 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL Áp dụng pháp luật BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh Bảng 2.2. Số liệu số lượng vụ án hình sự sơ thẩm bị hủy, sửa của TAND tỉnh Bắc Ninh Bảng 2.3. Số lượng vụ án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh trả hồ sơ điều tra bổ sung MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là quyền tự nhiên cơ bản của một người mà bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới hay bất cứ một chế độ Chính trị nào cũng đều phải quan tâm và bảo vệ. Quyền con người được ghi nhận trong các Điều ước Quốc tế, trong Hiến pháp, các đạo luật của quốc gia và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Ở Việt Nam, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng trong Chiến lược cải cách tư pháp, “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [2]. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo vệ tối đa quyền con người được thể hiện trong các định hướng của Đảng về cải cách tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội sửa đổi và phát triển năm 2011 khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” [6]; đồng thời yêu cầu “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển của mỗi người”. Người bị buộc tội là một con người cụ thể, là người bị nghi ngờ có thể thực hiện hành vi phạm tội. Pháp luật qui định người bị buộc tội có những quyền và nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo tính khách quan, công bằng, nghiêm minh trong giải quyết vụ án hình sự. Quyền của người bị buộc tội là một trong những quyền của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 31 Hiến pháp 2013 qui định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” Bảo vệ quyền con người, quyền của người bị buộc tội nghĩa vụ của Nhà nước. Hoạt động bảo vệ quyền con người được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Tư pháp mà trước hết là hoạt động xét xử của Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 qui định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.” “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” Qua chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt 1 là xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm đã thể hiện vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động xét xử của TAND trong thời gian qua đã phát hiện vẫn còn tồn tại những hạn chế là: Vẫn còn tình trạng bức cung, phản cung, truy tố không đúng tội danh, vi phạm các thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền của người bị buộc tội. Từ đó đặt ra vấn đề vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm cần được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sự sơ các vụ án hình thẩm tại tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các vấn đề nghiên cứu xoay quanh các qui định về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội được thể hiện trong rất nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học như: Tiến sĩ Trần Quang Tiệp (2009), Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội; GS. TS Đào Trí Úc (2015) Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý Đại học Luật TP.HCM số 3/2015; TS. Phạm Minh Tuyên (2015), Bảo đảm quyền có phiên tòa công bằng trong xét xử các vụ án hình sự tại Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và phát triển, số 02/2015; Tác giả Nhiếp Thị Liên với đề tài “Tòa án với vai trò bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự”; tác giả Nguyễn Tiến Đạt với đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt tạm giữ, tạm giam”; “Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Tôn Thiện Phương đăng trên tạp chí Kiểm sát số 10 năm 2017; “Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại” của tác giả Nguyễn Văn Tuân, NXB Tư pháp năm 2019; Luận án Tiến sĩ “Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử” của tác giả Nguyễn Hữu Hậu; Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện qui định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo” của tác giả Nguyễn Sơn Hà. Nhìn tổng thể, các công trình khoa học, đề tài và các bài viết đã đạt được một số kết quả nhất định về lý luận cũng như thực tiễn về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử các vụ án hình sự. 2 Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài của luận văn sẽ không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới làm rõ thêm cơ sở lý luận về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS, đồng thời nghiên cứu thực trạng những qui định pháp luật và thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền của người bị buộc tội của Tòa án. Qua đó làm sáng tỏ vai trò và những bất cập, hạn chế để đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Phân tích và làm rõ thực trạng vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh Phân tích và làm rõ hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội của Tòa án tại tỉnh Bắc Ninh. Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS, qui định pháp luật về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 3 Về nội dung: phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội theo pháp luật TTHS hiện hành. Về thời gian: nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ năm 1945 đến nay. Về thực tiễn: các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: lịch sử, phân tích, tổng hợp số liệu thống kê, so sánh, thống kê, tư duy logic, diễn giải … để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Luận văn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền của người bị buộc tội của Tòa án trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung; trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện và nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1. Những vẫn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS. Chương 2. Thực trạng vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh. Chương 3. Một số giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội. 4 Chương 1 NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TTHS 1.1. Khái niệm về người bị buộc tội và quyền của người bị buộc tội theo tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị buộc tội Hiện nay, Pháp luật TTHS Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về người bị buộc tội. Hiến pháp năm 2013 khẳng định một người được coi là chưa có tội khi chưa có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật”. Tuy nhiên, có rất nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng người bị buộc tội, thời điểm được coi là bắt đầu và kết thúc của sự buộc tội. Quan điểm thứ nhất: Người bị buộc tội là “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Với quan điểm thi hành án không phải là một khâu trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự mà cần tách ra thành một hệ thống pháp luật riêng, ngành khoa học để nghiên cứu riêng [7]. Quan điểm thứ hai: đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không thể là đối tượng bị buộc tội. Buộc tội chỉ tồn tại trước khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật [13]. Quan điểm thứ ba: Người bị buộc tội là “Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là các tên gọi khác nhau của người bị buộc tội ở các giai đoạn tố tụng khác nhau [18]. Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 qui định: “Người bị buộc tội gồm: “Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. - Người bị bắt, người bị tạm giữ: Pháp luật hiện hành không qui định người bị bắt là người nào, tuy nhiên, trên thực tế người bị bắt được hiểu là người có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội, bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định bắt giữ 5 theo qui định pháp luật, đó là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã. BLTTHS 2015 định nghĩa người bị tạm giữ như sau: khoản 1 Đều 59: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”. Người bị bắt, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng, giữ vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ là những người bị buộc tội, bị nghi ngờ là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được BLHS quy định là tội phạm. Họ có thể chưa bị khởi tố (trong trường hợp bị bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, tự thú…) hoặc có thể đã bị khởi tố (trong trường hợp họ có lệnh truy nã hoặc đã bị khởi tố mới ra đầu thú) tại thời điểm bị bắt hoặc bị tạm giữ. Kể từ thời điểm người bị bắt hoặc tạm giữ, họ bị cách ly với xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ phát sinh theo qui định pháp luật. Việc bắt, tạm giữ để đảm bảo các hoạt động xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm của cơ quan THTT xuất phát từ việc tiếp cận người bị bắt, người bị tạm giữ. Từ đó hoạt động TTHS được phát sinh như: hoạt động đối chiếu, xác minh, thu thập chứng cứ… để củng cố cơ sở pháp lý và thực tiễn; xác định người bị bắt, người bị tạm giữ có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không, hành vi đó có đủ cấu thành tội phạm không. Đây cũng là căn cứ để cơ quan THTT quyết định có khởi tố bị can hay không. Người bị bắt, người bị tạm giữ trong giai đoạn này chưa bị coi là tội phạm nhưng là tiền đề xác định các chủ thể tham gia tố tụng hình sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo và làm phát sinh các quan hệ pháp luật giữa người bị bắt, người bị tạm giữ với các chủ thể khác trong TTHS. - Bị can: “là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”, (khoản 1 Điều 60 BLTTHS). Trường hợp CQĐT có đủ căn cứ xác định người bị bắt, người bị tạm giữ đã thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm này, người hoặc pháp nhân bị khởi tố hình sự trở thành bị can, bị truy cứu trách nhiệm 6 hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như: tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, hỏi cung, kê biên tài sản …. Các biện pháp cưỡng chế trong gia đoạn tố tụng này nghiêm khắc hơn, quyền của bị can bị hạn chế hơn so với quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ. - Bị cáo: “là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”. (khoản 1 Điều 61 BLTTHS). Khi có quyết định xét xử của Tòa án, bị can trở thành bị cáo. Với tư cách là người bị buộc tội, họ là người tham gia tố tụng có vị trí pháp lý bất lợi nhất bởi tất cả các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác đều hướng tới việc chứng minh bị cáo có tội hay không có tội. Trong giai đoạn tố tụng này, bị cáo có thể bị hạn chế một phần hoặc toàn bộ quyền của mình và có nguy cơ phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm khắc nhất từ hoạt động buộc tội của các chủ thể. Như vậy, BLTTHS 2015 đã qui định cụ thể đối tượng bị buộc tội là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, người buộc tội có tên gọi khác nhau. Cụ thể: khi mới bị bắt giữ, người bị buộc tội được gọi là người bị bắt, kể từ thời điểm bị khởi tố bị can thì người bị buộc tội được gọi là bị can, kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì người bị buộc tội được gọi là bị cáo. Trong tố tụng hình sự, tuy người bị buộc tội là đối tượng bị buộc tội hoặc bị nghi ngờ phạm tội nhưng họ không bị coi là người có tội, họ có quyền tự mình bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình theo qui định của BLTTHS 2015: Điều 13 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, Điều 16 “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và qui định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. 7 Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba: Người bị buộc tội là “Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là các tên gọi khác nhau của người bị buộc tội ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Dựa trên khái niệm người bị buộc tội nêu trên, người bị buộc tội có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, người bị buộc tội là người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội được qui định trong BLHS. Trường hợp một tổ chức hoặc cá nhân không thực hiện hành vi phạm tội hoặc không có căn cứ xác định hành vi đó có dấu hiệu phạm tội cụ thể được qui định trong BLHS thì CQĐT, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể buộc tội họ. Cơ sở xác định người bị buộc tội trong trường hợp một người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội phải thỏa mãn các yếu tố: đủ tuổi chịu TNHS, có năng lực trách nhiệm hình sự và có đủ căn cứ xác định hành vi đó có dấu hiệu phạm tội theo qui định pháp luật hình sự. Thứ hai, các quyết định của cơ quan THTT, người có thẩm quyền THTT xác định người bị buộc tội là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS. Ví dụ, đối với người bị tạm giữ thì phải có quyết định tạm giữ, đối với bị can thì phải có quyết định khởi tố bị can, đối với bị cáo phải có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án có thẩm quyền. Các quyết định tố tụng này là căn cứ xác định chủ thể bị buộc tội là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo trong từng giai đoạn TTHS khác nhau. Từ đó, BLTTHS qui định chủ thể bị buộc tội có những quyền chung và quyền riêng. Thứ ba, người bị buộc tội là người tham gia tố tụng trong quan hệ pháp luật TTHS. Khi các quyết định TTHS xác định người bị buộc tội, thì họ trở thành chủ thể tham gia tố tụng trong TTHS với tư cách là người tham gia tố tụng. Qua đó xác định được người bị buộc tội có địa vị pháp lý cụ thể, được pháp luật TTHS qui định quyền và nghĩa vụ của họ. Với tư cách là người tham gia tố tụng, người bị buộc tội là một chủ thể tham gia tố tụng, có địa vị pháp lý cụ thể, được pháp luật bảo đảm các quyền con người cơ bản. Người bị buộc tội là chủ thể tham gia tố tụng xuyên suốt các giai đoạn TTHS, là quá trình xác định người bị buộc tội là có tội hay không có tội, nếu có tội thì đó là tội gì và phải chịu mức hình phạt như thế 8 nào. Trong suốt tiến trình TTHS, người bị buộc tội có quyền được gỡ tội cũng như được đảm bảo các quyền con người cơ bản trong điều kiện bị giam giữ, bị quản thúc và bị đặt vào điều kiện yếu thế trước phía buộc tội là cơ quan công quyền. 1.1.2. Khái niệm quyền của người bị buộc tội Người bị buộc tội, trước hết là một con người cụ thể, vì vậy quyền của người bị buộc tội là một phần của quyền con người. Để hiểu rõ khái niệm quyền của người bị buộc tội, trước hết cần tìm hiểu khái niệm quyền con người. Quyền con người là những giá trị, nhu cầu và lợi ích khách quan và vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật của quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [17, tr 42]. Quyền con người là những giá trị mang tính tự nhiên, có tính phổ quát, đồng thời có những đặc điểm cơ bản riêng, có quá trình lịch sử lâu dài và là sự tổng hợp của quá trình đấu tranh không ngừng của cá nhân, cộng đồng, quốc gia. Ở Việt Nam cũng có nhiều khái niệm về quyền con người, những khái niệm này không hoàn toàn giống nhau. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì quyền con người là tổng hợp các quyền và các tự do cơ bản để đánh giá về địa vị pháp lí của cá nhân. “Quyền con người là những đặc quyền (nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có của con người) được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Quyền con người là quyền của tất cả mọi người” [3, tr 27]. Nhà nước ta coi quyền con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Theo Hiến pháp năm 2013, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau; các quyền đó chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong những trường hợp đặc biệt cần thiết; mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh những định nghĩa trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, “quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội,…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [17]. Còn theo Theo từ điển Luật học thì, “nhân quyền hoặc quyền con người là những quyền mặc nhiên khi sinh ra cho đến trọn đời mà không ai có quyền tước bỏ. Đó là những quyền cơ 9 bản của con người như: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc…Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh của nhân loại chống lại các lực lượng áp bức xã hội và chế ngự thiên nhiên, không phải tự nhiên mà có hay do thượng đế ban cho như quan niệm của một số người phương Tây” [30]. Từ các khái niệm trên có thể thấy, quyền con người là quyền tối thượng, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. Các quyền con người gồm tổng thể những giá trị vật chất, giá trị tinh thần, chúng có quan hệ gắn bó và có tác động qua lại với nhau. Mọi người đều được hưởng các quyền đó như nhau. Quyền con người được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người có thể được chia thành các nhóm như sau: Nhóm quyền về chính trị gồm: các quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tín ngưỡng; quyền được thông tin; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội… Nhóm quyền về dân sự gồm: các quyền tự do cư trú; quyền tự do đi lại; quyền tự do cá nhân; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo… Nhóm quyền về kinh tế - văn hóa - xã hội gồm: quyền được lao động, quyền được tự do kinh doanh, quyền được học tập, quyền nghiên cứu, phát minh, sáng chế…. Dưới bất kỳ góc độ nào như: góc độ đạo đức - tôn giáo, góc độ lịch sử - xã hội, góc độ triết học, chính trị hoặc góc độ pháp lý thì quyền con người đều có những đặc điểm cơ bản như sau: Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người được thể hiện là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử cho dù người đó thuộc bất cứ chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo hoặc độ tuổi, thành phần xuất thân... Đối với bất kỳ quốc gia theo thể chế chính trị xã hội gì, ở trình độ phát triển nào, có giá trị truyền thống ra sao, thì quốc gia đó phải đảm bảo sao cho các quyền con người có đặc điểm nêu trên để xây dựng một nhà nước pháp quyền. Tính phổ biến của quyền con người được hiểu là 10 tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong các điều ước quốc tế phổ biến. Hiện nay vấn đề quyền con người không còn được coi là công việc thuộc nội bộ của quốc gia, nếu như một quốc gia nào đó không đảm bảo được các quyền và tự do cơ bản của con người thì điều đó có nghĩa là quốc gia đó đã vi phạm các cam kết quốc tế về quyền con người. Tính không thể tước bỏ: Tính không thể tước bỏ của quyền con người thể hiện ở chỗ các quyền này không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Không phải lúc nào nhân quyền cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống. Tính không thể phân chia: từ việc nhận thức các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: thể hiện ở chỗ việc bảo đảm toàn bộ hoặc một phần quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Việc vi phạm một quyền sẽ có thể ảnh hưởng đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, việc tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ có thể tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Người bị buộc tội, trước hết là một con người cụ thể, bị nghi ngờ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được qui định trong BLHS đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, họ với tư cách là cá nhân, công dân thì người bị buộc tội chỉ bị coi là người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự, người bị buộc tội cũng có các quyền con người theo qui định pháp luật. Trên thực tế, Nhà nước cũng như các chủ thể khác phải tôn trọng và bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Hiện nay, chưa có khái niệm cụ thể về quyền của người bị buộc tội. Theo Từ điển Tiếng Việt [29, tr.1049] quyền là “1. Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận, 11 cho hưởng, được làm, được đòi hỏi” “2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm”. Theo tác giả Trần Hoài Sơn “Quyền của người bị buộc tội là những điều mà pháp luật TTHS quy định và đảm bảo thực hiện đối với những người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà theo đó họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia vào các hoạt động TTHS” [31, tr.20]. Như vậy, có thể hiểu “quyền của người bị buộc tội” là những đảm bảo pháp lý được ghi nhận trong pháp luật, cho phép người bị buộc tội được thực hiện và được Nhà nước cũng như các chủ thể khác bảo vệ các quyền này. Tuy nhiên, hiểu một cách khái quát nhất, quyền của người bị buộc tội là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của con người, quyền công dân khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được qui định trong BLHS, bị các cơ quan tố tụng quyết định áp dụng pháp luật để tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử. Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có trách nhiệm bảo vệ quyền của người bị buộc tội. Như vậy, quyền của người bị buộc tội là những nhu cầu và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), phù hợp với chuẩn mực quốc tế và quốc gia được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận khi tham gia vào quan hệ pháp luật trong các giai đoạn tố tụng hình sự. 1.2.3. Các quyền của người bị buộc tội theo qui định của BLTTHS 2015 Hiến pháp 2013 có bước tiến quan trọng về lập hiến khi ghi nhận quyền của người bị buộc tội về những nguyên tắc áp dụng trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự nhằm bảo vệ con người trước vòng xoáy tố tụng hình sự mà các cơ quan bảo vệ pháp luật - đại diện cho Nhà nước thực hiện khi có tội phạm xảy ra. Điều 31 Hiến pháp 2013 [25] qui định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai. 3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. 12 4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. 5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.” Như vậy, theo qui định của Hiến pháp năm 2013, một người chỉ bị coi là có tội khi được chứng minh tội phạm theo đúng trình tự thủ tục tố tụng theo qui định và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Chỉ có Toà án mới có quyền đánh giá một con người có tội, ngoài Toà án không một cơ quan, cá nhân nào có quyền này. Người bị buộc tội là người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội, chưa được coi là có tội, vì vậy họ cũng có quyền con người, quyền công dân và có các quyền theo qui định của BLTTHS. Những qui định về quyền của người bị buộc tội trong BLTTHS là phù hợp với các Điều ước Quốc tế về quyền con người. Tố tụng hình sự trước hết phải hướng vào bảo đảm và bảo vệ công dân khỏi việc truy cứu trách nhiệm hình sự không có cơ sở pháp luật, đảm bảo loại và mức hình phạt áp dụng đối với họ là hợp lý, hợp pháp, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và các điều kiện khác mà pháp luật qui định. Nói cách khác bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). [14, tr 219] BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã), người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như sau Thứ nhất: Quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 thì “người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” Theo Quy định của BLTTHS năm 2015 thì: Người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp là người bị giữ đã có lệnh giữ người của người có thẩm quyền theo qui định pháp luật tố tụng hình sự. 13 Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Người bị bắt theo quyết định truy nã là người bị bắt khi bị truy tìm bởi quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật [27, tr.133]. Người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp (Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã) được coi là người bị tạm giữ. Ngoài những quyền chung của người bị tạm giữ, khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2015 qui định cụ thể quyền của người bị tạm giữ trong trường hợp đặc biệt (Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã) như sau: “a) Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã; b) Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này; d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.” Người bị tạm giữ, bị bắt chưa phải là tội phạm, vì vậy họ không bị áp dụng chế độ giam giữ giống như phạm nhân. Để thực hiện, tôn trọng và bảo vệ các quyền đối với người bị tạm giữ, BLTTHS đã qui định cụ thể người có quyền ra quyết định tạm giữ (khoản 2 Điều 110) cũng như quy định các quyền của họ như: thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người (Điều 116); chế độ tạm giữ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan