Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu...

Tài liệu Luận văn vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết thời xa vắng của lê lựu

.PDF
52
100
90

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRƢƠNG THỊ DUYÊN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI, 2018 TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== TRƢƠNG THỊ DUYÊN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ HÀ NỘI, 2018 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên cho phép tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong tổ văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ tôi và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt khóa luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Trƣơng Thị Duyên LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, khóa luận với đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được hoàn thành dưới sự cố gắng của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của ThS. Nguyễn Phương Hà cũng như các thầy, cô trong Tổ văn học Việt Nam. Khóa luận của tôi không trùng với kết quả nghiên cứu của tác giả nào đã từng công bố. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 5 năm 2018 Sinh viên Trƣơng Thị Duyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu ................................................................. 3 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 4 NỘI DUNG....................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI ......................................................................................... 5 1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới .......................................................................................................... 5 1.1.1 Thời kì trước 1975 ................................................................................... 5 1.1.2 Thời kì sau 1975 ....................................................................................... 6 1.2 Tác giả Lê Lựu ............................................................................................ 7 1.2.1 Cuộc đời ................................................................................................... 8 1.2.2 Sự nghiệp sáng tác ................................................................................... 8 1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới ................................................................................................................... 10 CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU .................................................................................... 12 2.1 Vấn đề hôn nhân........................................................................................ 12 2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân ......................................................... 12 2.1.2 Sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân ............................................ 16 2.2 Vấn đề gia đình ......................................................................................... 18 2.2.1. Gia đình với những hệ lụy, tàn dư xã hội phong kiến .......................... 19 2.2.2 Gia đình với những khao khát hạnh phúc đích thực .............................. 21 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU.............................................................................. 25 3.1 Ngôn ngữ ................................................................................................... 26 3.1.1 Ngôn ngữ đối thoại................................................................................. 26 3.1.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ................................................................... 29 3.2 Giọng điệu ................................................................................................ 32 3.2.1 Giọng điệu thương cảm, xót xa .............................................................. 32 3.2.2 Giọng điệu khắc khoải, da diết............................................................... 34 3.3 Không gian, thời gian nghệ thuật .............................................................. 36 3.3.1 Không gian nghệ thuật ........................................................................... 36 3.3.2 Thời gian nghệ thuật .............................................................................. 39 KẾT LUẬN .................................................................................................... 43 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nền văn học Việt Nam phát triển qua từng thời kì, mỗi giai đoạn mang những đặc trưng riêng. Hòa vào công cuộc đổi mới xây dựng xã hội chủ nghĩa, văn học có sự thay đổi về đề tài, chủ đề, tư tưởng và quan niệm nghệ thuật... Tiêu biểu cho công cuộc đổi mới ấy phải kể đến hàng loạt các tác phẩm tiêu biểu như: Dấu chân người lính, Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)…Đặc biệt, với thành công và để lại nhiều dấu ấn trong văn học giai đoạn này, chúng ta không thể không nhắc đến tác giả Lê Lựu với hàng loạt các tiểu thuyết như: Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1991), Hai nhà (2000), Sóng ở đáy sông (2010)…đã tạo nên chỗ đứng và vị thế của nhà văn Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam sau 1975. Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, ông đã nhanh chóng khẳng định được tên tuổi của mình với độc giả và cả những nhà phê bình nghiên cứu văn học. Lê Lựu được coi là “người lính xung kích” trong trận đánh mở đường ngoạn mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam (Bùi Việt Thắng). Ngòi bút của Lê Lựu hướng đến số phận, vấn đề hôn nhân và gia đình, hạnh phúc của con người từ đó thấy được những đau khổ, mất mát mà nhân vật phải gánh chịu. Nếu coi gia đình là yếu tố cơ bản của mọi hình thái xã hội, thì hôn nhân, gia đình là vấn đề thiết yếu trong văn học. Vấn đề hôn nhân, gia đình trong văn học đã sớm được giới nghiên cứu phê bình quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình mang cái nhìn bao quát về vấn đề này. Nhận thức được tầm quan trọng và sức hấp dẫn của các tác phẩm đó, chúng tôi quết định lựa chọn đề tài: Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu 1 thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu để hiểu rõ hơn về những mặt trái, những mối quan hệ phức tạp trong cuộc sống hôn nhân, gia đình. Qua đó khẳng định tài năng và vị trí của Lê Lựu trong dòng chảy văn học Việt Nam sau 1975. 2. Lịch sử vấn đề Nằm trong xu hướng vận động và phát triển của thể loại, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã tạo nên một tiếng vang lớn với công chúng. Tác phẩm được khẳng định và đánh giá trên nhiều phương diện nội dung và nghệ thuật. Vì thế có không ít độc giả, nhà nghiên cứu quan tâm đến. Tìm hiểu về giá trị nghệ thuật tác giả Đinh Quang Tốn trong công trình Lê Lựu tạp văn nhận xét: “Văn Lê Lựu có giọng điệu riêng, có duyên riêng, không rành rẽ, không mạch lạc, nó có một chất nhựa gì đấy bên trong”. Ông cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà văn ấy” [16]. Đánh giá về sức hấp dẫn trong sáng tác của Lê Lựu, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Lê Lựu biết cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở những chuyện xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đó…nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi Lê Lựu không chấp nhận sự nhạt nhẽo, tầm thường. Ở bất kì tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn đề gì đấy gửi gắm” [6, 669]. Gần đây, trong một số luận văn thạc sĩ đã tìm hiểu về tiểu thuyết Thời xa vắng nói riêng và vấn đề hôn nhân và gia đình nói chung. Có thể kể đến luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Hà với tên gọi: Bi kịch tình yêu và hôn nhân trong tiểu thuyết Lê Lựu (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội) đã nghiên cứu bi kịch tình yêu hôn nhân ở các khía cạnh: Bi kịch yêu nhầm, bi kịch tình yêu thực dụng, toan tính, bi kịch hôn nhân không có tình yêu, bi kịch hôn nhân “cọc cạch” để làm nổi bật lên những bất hạnh mà con người phải gánh 2 chịu. Công trình nghiên cứu này sẽ giúp chúng tôi hoàn thiện thêm đề tài khóa luận của mình. Tóm lại, nhìn một cách khái quát, hầu hết chưa có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát. Vì vậy, lựa chọn đề tài Vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một cái nhìn, hướng tiếp cận khác về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. Qua đó, khẳng định tài năng, vị thế của Lê Lựu trong dòng chảy văn học sau 1975. 3. Mục đích nghiên cứu Từ tên gọi của đề tài, chúng tôi hướng tới những mục đích sau: - Tìm hiểu và lí giải những đổ vỡ, mất mát và bi kịch trong vấn đề hôn nhân và gia đình qua tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. - Qua đó khẳng định tài năng, phong cách và những đóng góp to lớn của Lê Lựu với nền văn học Việt Nam đương đại 4. Nhiệm vụ nghiên cứu nghiên cứu Khoá luận này hướng đến những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ở một số phương diện nội dung: Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân; sự vênh lệch, khập khiễng trong hôn nhân, gia đình. - Tìm hiểu vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắngở một số phương diện nghệ thuật: Ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian nghệ thuật. - Đóng góp thêm cái nhìn mới mẻ về đề tài hôn nhân và gia đình cho văn học Việt Nam sau 1975. 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3 5.1 Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề hôn và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu 5.2 Phạm vi nghiên cứu: Thời xa vắng, Lê Lựu (1998), Nxb Hội nhà văn. Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi có thể so sánh với các tác phẩm viết về vấn đề hôn nhân và gia đình như: tiểu thuyết Hai nhà (Lê Lựu) 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp so sánh, tổng hợp - Phương pháp phân tích, bình giảng - Phương pháp liên ngành 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy Văn học Việt Nam thời kì đổi mới Chương 2: Một số phương diện nội dung thể hiện vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu. 4 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 1.1 Khái quát về vấn đề hôn nhân và gia đình trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới 1.1.1 Thời kì trước 1975 Gia đình là nơi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người. Chính vì thế đề tài hôn nhân và gia đình được rất nhiều nhà văn quan tâm, đề cập tới. Do mỗi thời kì có bối cảnh lịch sử khác nhau nên vấn đề hôn nhân và gia đình cũng được nhìn nhận, đánh giá ở các mức độ khác nhau. Từ những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà văn thuộc nhóm Tự lực văn đoàn đã khai thác thành công mảng đề tài này. Có thể kể đến Nhất Linh, Khái Hưng với các tác phẩm thuộc thể loại văn học lãng mạn như: Lạnh lùng, Đời mưa gió, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân…Các tác phẩm đã thể hiện xung đột giữa cái cũ và cái mới, sự đấu tranh giải phóng cá nhân, hôn nhân tự do, quyền sống của người phụ nữ chống lại những ràng buộc, khắt khe của lễ giáo phong kiến. Ở Lạnh lùng, Nhất Linh viết về những khổ đau, bất hạnh của Nhung- một người phụ nữ bất hạnh, lấy chồng nhưng không nhận được tình yêu thương từ chồng, bị giam hãm tuổi trẻ của mình ở nhà chồng do những định kiến xã hội. Hay trong tiểu thuyết Đời mưa gió, Nhất Linh và Khái Hưng lại lên án quan điểm phong kiến cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, xinh đẹp, đảm đang, hiền lành nhưng Tuyết lại bị cha mẹ ép lấy một ông chồng dốt nát, ngờ nghệch. Bên cạnh các sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn, vấn đề hôn nhân và gia đình còn được các nhà văn hiện thực phê phán đề cập tới. Có thể kể đến các tác phẩm như Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng đã lên án những mặt tiêu cực của gia đình tư sản. Ở đó mọi giá trị thang bậc trong gia đình đều bị đảo 5 lộn: bố cướp vợ của con, phụ nữ có gia đình nhưng vẫn ngang nhiên đi ngoại tình, chồng bị vợ lừa dối, anh em con cháu chỉ mong bố chết, ông chết để chiếm lấy gia tài, tiểu thuyết Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan cũng khai thác những bi kịch gia đình, với những phép tắc, hủ tục lạc hậu ép duyên con cái để rồi gây ra những bi kịch xót thương. Viết về đề tài hôn nhân và gia đình chắc hẳn người đọc không thể không nhắc đến truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Giữa lúc người chết như ngả rạ, nạn đói bủa vây khắp xóm làng thì nhân vật Tràng lại đưa được một người phụ nữ về làm vợ chỉ bằng vài câu nói bông đùa và một chầu bánh đúc. Hóa ra giữa lúc đói khổ ấy con người vẫn ánh lên thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Các nhà văn lúc này trở thành những người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn học họ hướng ngòi bút của mình đến cách mạng, ca ngợi nhân dân, ca ngợi những người anh hùng với chiến công vang dội. Vì thế đề tài hôn nhân và gia đình tạm được gác lại thay vào đó là đề tài gia đình Cách mạng như: Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Ở thời kì này các tác giả miêu tả tình yêu hôn nhân gắn liền với lợi ích cách mạng, những người vợ người chồng phải hi sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ với dân tộc. Vì tiếng gọi của Tổ quốc nhiều người vợ, người chồng phải tạm gác lại niềm vui gia đình để lên đường đi chiến đấu. Nhưng càng trong khói lửa đạn bom thì tình yêu thủy chung son sắc càng mãnh liệt. Bom đạn có thể tàn phá được nhà cửa, ruộng vườn nhưng không thể tàn phá được tình cảm gia đình, sự gắn kết giữa gia đình và cộng đồng xã hội. 1.1.2 Thời kì sau 1975 Sau 1975 đất nước hòa bình, miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa kéo theo sự thay đổi trong việc trong việc khám phá, phản ánh và tái hiện hiện 6 thực. Chiến tranh lùi xa, người nghệ sĩ không phải cầm súng ra trận, thay vào đó họ có điều kiện để suy ngẫm và khám phá mọi mặt của đời sống đặc biệt là thân phận con người. Hình ảnh những người anh hùng không phải là đối tượng chủ yếu của các nhà văn nữa mà đối tượng ở đây đã có sự thay đổi con người được nhìn nhận từ góc độ đa chiều: số phận, tính cách và bi kịch của nhân vật được các tác giả phản ánh rõ nét. Năm 1975 với thắng lợi vẻ vang của toàn dân tộc, đây cũng là thời kì mở ra chặng đường mới cho sáng tác văn học. Cảm hứng chủ đạo của các nhà văn vẫn mang cảm hứng ngợi ca, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sau Đại hội Đảng lần VI, không khí đổi mới - dân chủ tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Giới văn nghệ sĩ được tự do, thoả sức sáng tác, cảm hứng lãng mạn lúc này chìm xuống dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự. Đề tài gia đình một lần nữa trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của đông đảo thế hệ các nhà văn. Văn học thời kì này xuất hiện với mật độ khá lớn các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình. Trong đó có nhiều tác phẩm xuất sắc đạt giải thưởng cao của Hội Nhà văn và để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả như: Mùa lá rụng trong vườn, Côi cút giữa cảnh đời, Nợ đời, Gái có con…( Ma Văn Kháng), Thời xa vắng, Hai nhà, Sóng ở đáy sông…( Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Gia đình bé Mọn ( Dạ Ngân)… Có thể thấy các tác phẩm viết về đề tài hôn nhân và gia đình sau năm 1975 đi sâu vào khai thác mối quan hệ phức tạp, đa chiều của gia đình Việt Nam thời kì đổi mới. Nhà văn tập trung phản ánh cuộc sống cá nhân trong mối quan hệ với gia đình và toàn xã hội. Khác với văn học giai đoạn 1945-1975 thường ca ngợi những người anh hùng kháng chiến, ca ngợi cách mạng thì thời kì sau 1975 các tác giả lại tập trung thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình. 1.2 Tác giả Lê Lựu 7 1.2.1 Cuộc đời Lê Lựu sinh ngày 12-12-1942, tại một làng ngoại đê sông Hồng thuộc xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, Lê Lựu sớm gắn bó với đồng đất quê hương, cái đói, cái nghèo đã ám ảnh cả một tuổi thơ của nhà văn. Lớn lên giữa lúc “Dân có ruộng dập dìu hợp tác” cho nên mọi niềm vui hay nỗi buồn ở làng quê ông đều chứng kiến.Với bản chất là một người nông dân áo lính ông luôn hướng về quê hương chú ý đến những gì về người nông dân và nông thôn. Rời ghế nhà trường, Lê Lựu bước vào quân đội từ đầu những năm 60lúc phong trào “Ba nhất” đang hừng hực khí thế. Tuổi trẻ háo hức, từ một cậu bé làng quê xa phủ, xa huyện nay được hòa mình vào không khí thi đua của công- nông- binh miền Bắc. Đến những năm 70, ông chuyển về tạp chí Văn nghệ Quân đội và làm nhiều công việc khác nhau như biên tập viên văn xuôi, thư kí tòa soạn.Hiện nay, Lê Lựu đang giữ chức Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân tai Hà Nội. Ngày 25 tháng 2 năm 2014, Ông thành lập Quỹ văn học Lê Lựu. Đây được coi là quỹ văn học đầu tiên mang tên một nhà văn còn sống, nhằm khích lệ sáng tác cuả thế hệ nhà văn trẻ, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ cống hiến những tác phẩm có giá trị. Trong cuộc sống đời thường Lê Lựu chân thực, hồn nhiên, đôi lúc có phần lôi thôi, lếch thếch, luộm thuộm nhưng ông sống vô cùng chân thật, cởi mở. Đó chính là nguồn lực khiến ông không khô khan trong cuộc sống văn chương. 1.2.2 Sự nghiệp sáng tác Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông sáng tác ở rất nhiều thể loại: truyện ngắn, kí, tiểu thuyết... Lê Lựu vốn khởi nghiệp từ nghề báo nhưng lại hướng ngòi bút của mình sang lĩnh vực văn chương. Truyện ngắn đầu tay của ông là Tết làng Mụa 8 (1964) sáng tác khi mới 21 tuổi. Tiếp theo đó là hàng loạt tác phẩm khác ra đời: Trong làng nho và Người cầm súng (1967). Đặc biệt với truyện ngắn Người cầm súng đã giúp Lê Lựu giành giải nhì trên báo văn nghệ năm 1968, đánh dấu tên tuổi Lê Lựu trong sự nghiệp sáng tác văn học. Thành công và để lại dấu ấn với độc giả phải kể đến lĩnh vực tiểu thuyết. Với cuốn tiểu thuyết đầu tiên Mở rừng (1973) đã đánh dấu sự xuất hiện của Lê Lựu trong làng tiểu thuyết Việt Nam, được nhà thơ Trần Đăng Khoa đánh giá cao: “Theo tôi, đây là cuốn tiếu thuyết vào loại khá của văn học Việt Nam những năm 70”. Năm 1984, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã gây xôn xao dư luận và tạo được tiếng vang lớn với bốn lần xuất bản và 80.000 bản in. Với tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã vinh dự nhận về giải A Hội nhà văn Việt Nam (1986). Năm 1990, Lê Lựu viết tác phẩm Đại tá không biết đùa tác phẩm ra đời đã khẳng định ngòi bút tài năng của ông trên văn đàn. Ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các tiểu thuyết khác của Lê Lựu như: Chuyện làng Cuội (1991); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (2000); Thời loạn (2009). Cảm hứng chủ đạo ở các cuốn tiểu thuyết này là cảm hứng bi kịch, trong đó tác giả tập trung khai thác những góc khuất trong tâm hồn con người. Ngoài hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Lê Lựu còn có sáng tác kí với hai tác phẩm gây tiếng vang trên văn đàn: Một thời lầm lỗi (1988), Trở lại nước Mĩ (1989). Tóm lại, với gần nửa thế kỉ cầm bút, Lê Lựu đã có một khối lượng tác phẩm tuy không nhiều nhưng đã để lại dấu ấn đối với độc giả. Từ những tác phẩm đầu tay đến những tác phẩm để lại dấu ấn trong văn chương. Lê Lựu đã cho chúng ta thấy một hành trình lao động miệt mài, không ngừng nghỉ, một cây bút quân đội xông xáo, một người nghệ sĩ luôn trăn trở với nghề. Ông từng tâm sự về nghề văn: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người 9 chép chuyện, có gì viết nấy”. Lê Lựu là nhà văn đã khẳng định được vị trí của mình trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới, nhất là từ khi cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng chính thức ra mắt độc giả. 1.2.3 Vị trí tiểu thuyết Thời xa vắng trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới Tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời đã chiếm một vị trí quan trọng trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Tác phẩm đã tốn không ít giấy mực của giới nghiên cứu, phê bình, mang ý nghĩa bước ngoặt trong sự nghiệp của Lê Lựu, giúp nhà văn khẳng định vị thế của mình trong hàng ngũ thế hệ nhà văn sau 1975. Tiểu thuyết đã giúp Lê Lựu nhận giải A hội nhà văn Việt Nam (1986). Đạo diễn Hồ Quang Minh của hãng phim Giải phóng đã chuyển thể thành phim truyện nhựa, ra mắt công chúng vào năm 2004, được đông đảo công chúng đóng nhận. Tiểu thuyết Thời xa vắng gồm mười ba chương, được chia làm hai phần. Lê Lựu đã tập trung khắc họa nhân vật Giang Minh Sài tài năng, giỏi giang nhưng phải sống một cuộc sống đầy o ép, chật chội. Sài bị ép lấy vợ từ rất sớm khi anh mới hơn mười tuổi, anh sợ phải giáp mặt với Tuyết, thậm chí từ lúc kết hôn đến khi đi bộ đội Sài chưa từng ngủ chung giường với vợ mình một ngày nào. Chính sự kiện làng Hạ Vị mênh mông nước lũ đã gắn kết cuộc đời Sài với Hương- một cô gái xinh đẹp, tài năng. Để trở thành đảng viên, Sài buộc phải yêu thương Tuyết theo sự chỉ đạo của cấp trên. Để chạy trốn khỏi Tuyết, Sài đã lên đường đi bộ đội, những lúc rảnh rỗi trong quân ngũ anh thường ghi lại cảm xúc của mình và tưởng tượng ra khung cảnh tươi đẹp cùng Hương. Hòa bình lập lại, Sài đã giải phóng cho cuộc đời mình và Tuyết. Tưởng cuộc đời bước sang trang mới nhưng Sài lại tiếp tục vướng vào bi kịch đó là cuộc hôn nhân với Châu- cô gái Hà Nội xinh đẹp, sắc sảo, đám cưới rình rang được tổ chức. Từ lúc lấy vợ, Sài từ bỏ ước mơ học tập của mình, anh 10 phải quay cuồng trong cuộc sống thường ngày. Cuộc hôn nhân đó nhanh chóng đi vào ngõ cụt và tan vỡ bởi sự lệch pha trong tâm hồn hai con người. Sài để hết tài sản cho Châu và nhận nuôi cu Thùy nhưng đau đớn thay cu Thùy lại không phải là con trai của anh. Kết thúc câu chuyện là sự bế tắc của Sài. Anh bỏ công tác ở thành phố trở về quê hương làm chủ nhiệm hợp tác xã. Qua tiểu thuyết Thời xa vắng Lê Lựu đã tập trung khai thác vấn đề hôn nhân và gia đình, đó là bi kịch hôn nhân, bi kịch gia đình, con người luôn bị cuốn vào vòng bi kịch luẩn quẩn mà họ cố vùng vẫy nhưng không thể thoát ra được. 11 CHƢƠNG 2. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT THỜI XA VẮNG CỦA LÊ LỰU 2.1 Vấn đề hôn nhân Trong các tiểu thuyết của Lê Lựu, nhân vật thường rơi vào những bi kịch hôn nhân: hôn nhân không có tình yêu hạnh phúc, hôn nhân vênh lệch, bi kịch cô đơn của mỗi cá nhân trong gia đình, bi kịch ngoại tình trong hôn nhân… Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu đã khắc họa thành công đề tài này. 2.1.1 Sự đổ vỡ, mất mát trong hôn nhân Ở phần đầu câu chuyện, tác giả xây dựng nhân vật Sài trong bối cảnh chiến tranh. Là con út của một thầy đồ, sống trong gia đình mang nặng tư tưởng nho giáo phong kiến, từ nhỏ Giang Minh Sài đã phải chịu sức ép của những hủ tục lạc hậu. Do vậy, dù ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, Sài chỉ biết có chơi và học mà đã bị ép lấy vợ, phải chịu nỗi uất ức “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn ngụp xuống cái ao đầy bùn của nhà chú Hà lúc nào…” [10, 6]. Sài ghét Tuyết, anh có suy nghĩ bỏ vợ nhưng ý định này vừa mới lóe lên thì đã bị vùi dập bởi sự áp đặt của người cha: “chưa có khi nào con cái lại trái ý cha mẹ cả” [10, 20]. Chính vì vậy mà Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình, dòng họ. Tuy sống cùng nhà với Tuyết nhưng anh tìm đủ mọi cách để lẩn tránh, để chống đối: không ngủ chung giường, không ăn cùng mâm, không chấm cùng bát…Dù Tuyết được người ta khen là khỏe mạnh, chắc chắn, làm ăn đâu ra đấy nhưng trong mắt của Sài thì cô vẫn hiện lên là một con người thô kệch, ngu dốt: “Sài nghĩ bụng có khác gì cái chĩnh đựng đỗ giống, người ngợm, mỗi khi chạy trông cứ như lăn. Người ngoài bình phẩm hiếm thấy người hiền lành như cô Tuyết, Sài 12 cho đấy là loại người ngu, cả ngày không mở mồm nói nổi một câu” [10, 47]. Sài chính là nạn nhân của tục tảo hôn- một hủ tục lạc hậu của xã hội trước kia đã đẩy nhiều cuộc đời vào bất hạnh. Ngược lại ở cuộc hôn nhân này, Tuyết là người con gái thôn quê hiền lành, chân chất được ông đồ Khang cưới hỏi đàng hoàng. Bị gả chồng do sự áp đặt gia đình, Tuyết chưa bao giờ được đón nhận tình yêu thương từ chồng. Lấy nhau từ khi mười ba tuổi nhưng chưa bao giờ Sài coi cô là vợ, chính điều này càng nhen nhóm khát vọng được yêu thương của cô. Khát vọng ấy cứ theo thời gian mà lớn dần, lúc mới đầu khi Sài mười tuổi tình yêu ấy chỉ là giúp Sài quét sân, quét ngõ, giã ngô để anh có thời gian học. Thời gian trôi, tình yêu cũng lớn dần lên, cô thèm một cái nhìn từ chồng, thèm sự quan tâm, thậm chí những câu chửi mắng của Sài cho bớt đơn độc. Lê Lựu đã thấu hiểu và cảm thông với những khao khát của Tuyết: “Tuyết lúc nào cũng thấy hao háo thèm thuồng, thèm cả từ câu quát mắng, thèm một quả đấm, một cái tát…Những cái đấy là tục tằn, thô lỗ vẫn là được tiếng là cô có chồng, chồng đánh, chồng chửi chồng giận hờn, hắt nhủi…” [10, 169]. Điểm nhìn bên trong đã giúp Lê Lựu hiểu được những bất hạnh của Tuyết, một người con gái mới lớn khao khát tình yêu, một người phụ nữ cả đời không được chồng nhòm ngó: “Cái tuổi dậy thì của người con gái mỗi ngày như trông thấy cái cơ thể dồi dào sức lực của mình cứ mát mẻ và êm ái căng đầy lên, đã thấy khao khát cháy khô đôi môi mọng đỏ trước cái nhìn đăm đắm của bọn con trai, đã thấy phập phồng mỗi đêm nghe tiếng chồng chạy về” [10, 44]. Phải chăng, trong cuộc hôn nhân này, cả Sài và Tuyết đều là những người đáng thương. Tuyết muốn chăm sóc chồng, muốn đòi hỏi bất cứ điều gì từ chồng, đó là lẽ hoàn toàn bình thường. Cắn răng chịu đựng với mọi việc nhà chồng để đổi lấy duy nhất một lần ơn huệ là có được đứa con với Sài, dù biết rằng đó không phải là kết quả của tình yêu nhưng cô đã sung sướng vồ vập lấy cái hạnh phúc ấy. 13 Tuyết sống trong sự chờ đợi, trông ngóng hi vọng đứa con sẽ là cầu nối tình thương xây dựng tổ ấm gia đình, nhưng niềm khao khát ấy quá xa vời khiến cô không thể nào nắm bắt được. Có thể thấy cuộc hôn nhân của Sài và Tuyết không được xây dựng dựa trên cơ sở tình yêu đích thực của hai người mà xây dựng dựa trên sự sắp đặt của cha mẹ nên nhanh chóng đi vào ngõ cụt để rồi dẫn đến đổ vỡ, mất mát. Lê Lựu đã đi đâu khám phá thế giới nội tâm nhân vật để thấu hiểu, cảm thông cho số phận của nhân vật. Chia tay với Tuyết, Sài tự do làm chủ chính mình, ngỡ rằng nỗi đau sẽ qua đi hạnh phúc sẽ đến với anh nhưng Sài lại tiếp tục rơi vào bi kịch đổ vỡ. Ngay từ lần đầu gặp Châu- một cô gái Hà Thành xinh đẹp, có học vấn anh đã đắm chìm trong tình yêu mặc sức trước sự can ngăn của mọi người: “Bất chấp sự gièm pha can ngăn của Hương và những người thân, Sài quyết chí yêu Châu” [10, 250] mà không hề hay biết đó là cô gái khôn ngoan, sắc sảo. Cô yêu và cưới anh không phải vì một tình yêu đích thực, chân chính mà Châu lấy anh như một tấm bệ đỡ cho bản thân mình. Những ngày tháng chung sống với Châu, Sài trở thành một con rô bốt, một cái máy đã được lập trình sẵn. Mỗi ngày anh đều đầu tắp mặt tối từ bốn giờ sáng để nấu cơm, rửa bát, giặt giũ, cho con ăn và nhiều thứ việc khác nữa. Ở cuộc hôn nhân với Châu, Sài là người được lựa chọn sống theo ý mình, nhưng cách sống của anh vẫn là hệ quả của những ngày tháng sống áp đặt theo suy nghĩ của người khác. Sài tự do, được sống là chính mình và được lựa chọn hạnh phúc cho chính bản thân mình nhưng đây lại là căn nguyên của sai lầm thứ hai dẫn đến bi kịch cho Sài. Sài lấy một người không thuộc về thế giới của anh mà chỉ mượn anh để che đậy lối sống lăng loàn của mình, để hợp thức hóa đứa con trong bụng cô. Đứa con ấy chính là hậu quả của những ngày tháng yêu đương tự do của Châu. Sự khôn ngoan, lọc lõi của Châu đã khiến cho Sài nhanh chóng bị sập bẫy, đổ gục mà anh cứ nghĩ trời ban cho anh diễm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan