Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn văn hóa nam bộ trong truyện cánh đồng bất tận của nguyễn ngọc tư...

Tài liệu Luận văn văn hóa nam bộ trong truyện cánh đồng bất tận của nguyễn ngọc tư

.PDF
51
144
51

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----***----- TRẦN THỊ QUYÊN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN -----***----- TRẦN THỊ QUYÊN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI - 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới cô giáo - TS Nguyễn Thị Tuyết Minh đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận. Tôi chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Tác giả khóa luận Trần Thị Quyên LỜI CAM ĐOAN Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô giáo - TS Nguyễn Thị Tuyết Minh. Tôi xin cam đoan: Đây là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi. Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất cứ tác giả nào khác. Hà Nội, tháng 5 năm 2016 Tác giả khóa luận Trần Thị Quyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 1 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5 5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5 6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................... 5 7. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 5 NỘI DUNG....................................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯTRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ............................................ 6 1.1. Giới thuyết về truyện ngắn..................................................................... 6 1.2. Diện mạo truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam đương đại .................. 8 1.3. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trong đời sống văn xuôi đương đại .... 10 1.3.1. Tiểu sử nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ................................................... 10 1.3.2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ngọc Tư ........................................ 11 1.3.3. Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận .............................................. 13 CHƯƠNG 2. NHẬN DIỆN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG TRUYỆN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ ............................... 16 2.1. Không gian Nam Bộ ............................................................................ 16 2.1.1. Không gian “cánh đồng bất tận” .................................................. 17 2.1.2. Không gian kênh rạch của đất phương Nam .................................. 20 2.2. Cuộc sống của những cư dân du mục .................................................. 23 2.2.1. Những người đàn ông .................................................................... 23 2.2.2. Những người đàn bà ...................................................................... 26 2.2.3 Những đứa trẻ .................................................................................. 30 2.3. Ngôn ngữ đậm màu sắc văn hóa Nam Bộ ............................................ 34 2.3.1. Lớp ngôn ngữ định danh vùng sông nước ...................................... 35 2.3.2. Lớp ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật ........................ 37 KẾT LUẬN .................................................................................................... 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học biểu hiện văn hóa, là tấm gương của văn hóa. Văn học có khả năng nhận thức, phản ánh, sáng tạo, chuyển tải và giữ gìn văn hóa. Ngược lại, văn hóa tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ quá trình sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của độc giả. Tác phẩm văn chương vì thế, cũng phải thể hiện được những dấu ấn văn hóa nhất định. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ hữu cơ mật thiết nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Thực tế trong văn học Việt Nam hiện đại, xuất hiện khá nhiều sáng tác văn chương mang đậm dấu ấn văn hóa, tạo nên vẻ đẹp độc đáo và hấp dẫn. Có thể kể đến những sáng tác tiêu biểu như: Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân), Hà Nội băm sáu phố phường (Thạch Lam), Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu), Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh),… Và không thể không kể đến Cánhđồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Cánh đồng bất tận là một thành công đáng ghi nhận cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn đã vinh dự nhận Giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam. Sức hấp dẫn của truyện chính là nét đặc trưng văn hóa đất và người phương Nam. Tiếp xúc với tác phẩm, bạn đọc hiểu biết thêm những tri thức quý giá về lịch sử, phong tục, tập quán của con người Nam Bộ. Từ đó, thêm hiểu thêm yêu con người và Tổ quốc Việt Nam. Đó là những lí do khiến chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Văn hóa Nam Bộ trong truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. 2. Lịch sử vấn đề Cánh đồng bất tận vinh dự nhận giải nhất Hội Nhà văn Việt Nam năm 2006. Từ khi ra đời đến nay,tác phẩm đã thu hút sự quan tâm đáng kể của giới nghiên cứu, phê bình và bạn đọc yêu thích văn chương. 1 Nhà văn Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Cánh đồng bất tận là một truyện hay, nó chứng tỏ bút lực của Nguyễn Ngọc Tư trong việc đào sâu vào thể hiện cuộc sống và khơi sâu vào thân phận con người. Viết được một truyện như thế chứng tỏ Tư có tài năng văn chương và có lòng thương người” [18]. Ông khẳng định nỗ lực, tìm tòi trong sáng tạo văn chương của Nguyễn Ngọc Tư. Tác phẩm đặt ra những vấn đề nhân sinh, nhân bản của con người. Sự vững vàng, chuyên nghiệp về tay nghề viết văn của Nguyễn Ngọc Tư là một bức phá mới của văn đàn Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh khẳng định: “Tới Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ là người kể chuyện có duyên với những tình tự quê hương Nam Bộ mà đã tạo dựng nên một thế giới nghệ thuật riêng, không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà thể hiện một cách nhìn cách nghĩ, cách cảm về con người và cuộc đời”[25]. Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư khi ra mắt bạn đọc đã nhận được nhiều lời khen ngợi nhưng cũng có những ý kiến trái chiều. Theo khảo sát chúng tôi nhận thấy đã có hai luồng ý kiến: Một bên là ủng hộ lối viết dữ dội đến khốc liệt, ủng hộ việc khai thác và phản ánh một cách trần trụi, nghĩa là ủng hộ một Nguyễn Ngọc Tư “mới”. Còn phía bên kia lại cảm thấy tiếc nuối vì chị đã đánh mất đi chất trong trẻo, nhẹ nhàng, nhân hậu, ân tình của mình trong các sáng tác trước đó. Năm 2006, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau đề nghị Hội Văn học nghệ thuật Tỉnh kiểm điểm Nguyễn Ngọc Tư về nội dung trong Cánh đồng bất tận. Sự kiện này đã tạo cho tác phẩm có sức hút lớn hơn và là cơ hội để giới nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu và phê bình văn học một lần nữa khẳng định giá trị vững vàng của truyện Cánh đồng bất tận. Trong cuộc trao đổi giữa Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - Hữu Thỉnh với Chu Lai và Trung Trung Đỉnh về truyện Cánh đồng bất tận, nhà văn Chu 2 Lai khẳng định: “Cánh đồng bất tận viết về những con người Nam Bộ với tính cách đặc thù: chân thực, hồn nhiên, chất phác và bản năng. Cốt truyện mang tính chất cổ điển, không có gì mới nhưng tác giả viết bằng thứ ngôn ngữ và hơi văn lạ, tạo được sự rung chuyển thẩm mĩ. Cái hồn khí của truyện chứng tỏ nhà văn là người yêu vùng đất và con người miền Tây chứ không hề có gì xúc phạm, bóp méo sự thực. Người miền Trung, miền Bắc đọc tác phẩm này sẽ cảm thấy yêu mến mảnh đất Cà Mau hơn”[12]. Trong bài Cánh đồng bất tận lệ rơi sau những khuôn hình, tác giả Hồ Kiên Giang đánh giá: “Một câu chuyện hay về cuộc sống trôi dạt trên sông nước với những cảnh đời vươn từ nghịch cảnh đói nghèo của con người miền Tây Nam Bộ mộc mạc, chân quê”[8]. Hồ Kiên Giang còn nhấn mạnh: Trong tác phẩm, cuộc sống và văn hóa của con người Nam Bộ hiện lên với tất cả vẻ nguyên sơ, chân thực mà không có lấy chút hư cấu, gọt rũa của người viết. Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu, phê bình về Cánh đồng bất tậnđược đăng rải rác trên các báo, tạp chí, các trang Web điện tử,… Tuy nhiên, các bài viết chủ yếu đề cập đến giá trị văn học của truyện Cánh đồng bất tận mà chưa đi sâu tìm hiểu về giá trị văn hóa mà tác phẩm chuyển tải. Tiếp thu từ gợi ý của các nhà nghiên cứu, khoá luận của chúng tôi tập trung nghiên cứu Văn hóa Nam Bộ trong truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Thông qua đề tài, chúng tôi muốn khẳng định giá trị của tác phẩm, đặc biệt là đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư trong việc thể hiện những nét văn hóa Nam Bộ, góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 3 - Khóa luận có nhiệm vụ nghiên cứu để làm nổi bật những nét đặc trưng văn hóa của đất và người Nam Bộ hàm chứa trong tác phẩm Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyệnngắn Cánh đồng bất tận (được in trong Tập truyện Cánh đồng bất tận) của Nguyễn Ngọc Tư, do nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2014. - Trong phạm vi của khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi tập trung nghiên cứu một số bình diện cơ bảnđể làm rõ văn hóa Nam Bộ trong truyện Cánh đồng bất tận như: không gian sông nước, cuộc sống của những cư dân du mục, ngôn ngữ đậm màu sắc văn hóa Nam Bộ. 5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận tập trung sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. - Phương pháp phân tích văn học. - Phương pháp khái quát tổng hợp. 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận là công trình tìm hiểu chuyên sâu về Văn hóa Nam Bộ trong truyện Cánh đồng bất tận. Từ đó, góp thêm tiếng nói khẳng định đóng góp của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đối với việc thể hiện nét đặc sắc văn hóa con người Việt Nam, đặc biệt là văn hóa Nam Bộ. Khóa luận khẳng định các giá trị văn hóa Nam Bộ cần được giữ gìn và phát huy trong bối cảnh đời sống đương đại. 7. Bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung chính của khóa luận được chia làm 2 chương: Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam đương đại Chương 2: Nhận diện văn hóa Nam Bộ trong truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. 5 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Giới thuyết về truyện ngắn Truyện ngắn là một thể loại cơ bản của văn học. Khi bàn về truyện ngắn, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề xuất nhiều định nghĩa khác nhau về truyện ngắn. Giáo trình Lí luận văn học định nghĩa: “Truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người” [21, 397]. Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người”[10,371]. Victor Sawdon Pritchett coi truyện ngắn là “một điều gì đó thoáng trông thấy khi ta đi ngang qua”. Còn John Updike thì nói: “Đấy là các tác phẩm dài vài ngàn từ, được viết trên cơ sở kinh nghiệm trực tiếp của tôi hơn là tiểu thuyết. Chúng chứa đựng những cuộc phiêu lưu, những khó khăn, những giây phút khủng hoảng và niềm vui của chính tôi”. Qua việc tìm hiểu một số quan niệm về truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài nước, chúng ta nhận thấy truyện ngắn là một thể tài có hình thức nhỏ nhưng chứa đựng nội dung lớn lao. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hàng ngày rất tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt 6 bậc với sức dẻo dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Hình hài của truyện ngắn hiện đại như ta thấy hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Đến nay, truyện ngắn đã ngày một khẳng định vị trí và ưu thế của mình trong hệ thống loại hình tự sự của văn học thế giới. Trên văn đàn Việt Nam, tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn được đánh giá là mốc xuất hiện đầu tiên của truyện ngắn. Tác phẩm được in trên báo Nam Phong tháng 12 năm 1918. Đây được coi là truyện ngắn đầu tiên theo lối Tây phương của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ những trải nghiệm thực tế với trận lũ lịch sử ở Bắc Kì mà Phạm Duy Tốn từng miêu tả trong bài báo nổi tiếng “Hoạn nạn tương cứu” đã trở thành cảm hứng, chất liệu dồi dào để nhà văn viết nên Sống chết mặc bay. Tác phẩm đánh dấu sự xuất hiện của thể loại truyện ngắn trên diễn đàn văn xuôi Việt Nam cũng là sự kết thúc hoàn hảo trong sự nghiệp văn học của Phạm Duy Tốn ở mảng truyện ngắn. Mặc dù ông không viết truyện ngắn nữa nhưng trên văn đàn Việt Nam đã có sự kế tiếp của nhiều nhà văn tài năng đã đưa truyện ngắn bước thêm một bước tiến mới trên bục đài vinh quang như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,... Sau giai đoạn “buổi đầu” với nhiều thành tựu đáng ghi nhận, truyện ngắn việt Nam có bước phát triển mới trong giai đoạn 1945 – 1975, phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, truyện ngắn gặt hái thành tựu với nhiều cây bút tài năng như Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan,... Ba mươi năm đất nước có chiến tranh, truyện ngắn ghi dấu ấn ở những tên tuổi như Tô Hoài, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long, Ma Văn Kháng,... Thời kì đổi mới, truyện ngắn tiếp tục phát huy được thế mạnh của mình với một đội ngũ, người viết văn đông đảo. Trong số 7 đó đặc biệt phải kể đến vai trò của các nhà văn nữ như Phan Thị Vàng Anh, Đoàn Lê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ , Nguyễn Ngọc Tư,... Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, văn học cũng cần phải có sự đổi thay để đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Theo quy luật ấy, truyện ngắn cũng có sự vận động, phát triển riêng qua từng giai đoạn. Sau 1975, cùng với sự vận động đổi mới của các thể tài khác, truyện ngắn đã có bước chuyển mình lớn lao. Các nhà văn đã dũng cảm nhìn vào sự thật, viết về sự thật. Truyện ngắn từ đó mở rộng biên đọ phản ánh, có cái nhìn đa diện về đời sống và con người nên đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Những đổi mới của truyện ngắn đương đại đã ngày càng thu hút được sự quan tâm của độc giả. 1.2. Diện mạo truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam đương đại Sau năm 1975, cùng với sự đổi mới về tư duy chính trị - kinh tế, không khí dân chủ được mở rộng và cũng là thời kì giao lưu văn hóa đa chiều. Thời tiết chính trị là tiền đề cho sự xuất hiện một loạt tác phẩm viết theo phong cách “cởi trói”. Và thông qua giao lưu hội nhập, văn học nước ta có điều kiện để tiếp xúc, lĩnh hội những giá trị đích thực của văn học thế giới. Các nhà văn cũng có cơ hội để bộc lộ quan điểm và cá tính sáng tạo của mình. Bên cạnh những cây bút đã trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến xuất hiện những cây bút mới hăm hở, xông xáo, tài năng và nhiều hoài bão.Quan niệm văn học thời kì này cũng cởi mở hơn, gắn với cá tính sáng tạo của người viết. Không đơn điệu, một chiều, các nhà văn dám đối mặt với thực tế đời sống, văn chương phản ánh chân thực tâm lý phức tạp của con người, qua đó can dự trực tiếp vào đời sống xã hội. Các nhà văn không thần thánh hóa văn chương, không đặt vào đó quá nhiều hi vọng cao siêu. Văn chương cũng như một hiện tượng của đời sống. “Văn chương sẽ sống cái sức sống của nó. Nhưng như tất cả mọi việc trên đời này, văn chương cũng có giới hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cái cao cả cũng như cái bình thường” (Lê Minh 8 Khuê). “Với tôi văn chương là một tôn giáo, nó không mang màu sắc chính trị nào cả. Nó là nỗi đau, là khát vọng của con người” (Thái Thăng Long). Như vậy, cách nhìn văn học như một vũ khí tuyên truyền về cơ bản đã được giải tỏa. Văn học đã được nhìn nhận trong bản chất đặc thù của nghệ thuật ngôn từ, xuất phát từ quan niệm của người cầm bút. Từ đây nhà văn chủ động và tự do hơn trong sáng tạo của mình. Nhà văn tôn trọng năng lực “đồng sáng tạo” ở bạn đọc và đôi khi họ còn dành quyền quyết định cuối cùng cho người đọc đối với tác phẩm của mình. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ cho rằng, trong khả năng tiếp nhận và lí giải thế giới nghệ thuật nhà văn với bạn đọc luôn bình đẳng nhau: “Người viết chỉ nên làm một người bạn tâm tình với người đọc chứ đừng là người dạy người đọc vì chưa chắc cứ nhà văn giỏi đã có văn hóa”. Nhiệm vụ của nhà văn không phải là nói ra chân lí mà thức tỉnh ý thức, hướng về chân lí hoặc thức tỉnh lương tri hoặc ý thức con người “Nhà văn giữ vai trò là người đối thoại, đưa ra những nhận xét, đề nghị với người đọc để cùng suy nghĩ, tìm kiếm, có thể cả tranh luận” (Lê Minh Khuê). Người đọc ngày nay không còn thụ động trong việc tri nhận giá trị tác phẩm, không quá lệ thuộc vào tư tưởng của nhà văn. Qua đó, bạn đọc cũng phát huy được năng lực sáng tạo nghệ thuật của mình trong việc nhận thức, lí giải thực tại đời sống. Có thể thấy, sau 1975 truyện ngắn Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. “Chỉ tính riêng ba cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức đã có gần 7000 truyện ngắn dự thi. Nếu tính cả truyện ngắn đăng trên báo tạp chí trong năm, con số lên hàng vạn”. Theo nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng “Cuộc thi truyện ngắn 2001-2002 do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức có gần 2000 tác phẩm dự thi, bằng số lượng của bốn năm 1978 – 1979, 1983 – 1984”. Điều đó cho thấy tiềm lực của thể loại tự sự cỡ nhỏ. Có thể nói, chưa 9 bao giờ truyện ngắn lại phát triển phong phú về số lượng lẫn hiệu quả như thời kì này. Truyện ngắn thời kì đổi mới đi vào mọi vấn đề của cuộc sống thường nhật. Các tác giả đã cố gắng mổ xẻ những mối quan hệ phức tạp, chằng chịt cùng nhiều vấn đề mới nảy sinh, điều mà trước đây, do nhiều nguyên cớ chưa phản ánh được, hay đúng hơn chưa có điều kiện suy ngẫm, nhìn lại. Bao nhiêu phức tạp ồn ào, bao nhiêu dư vị đắng chát của cuộc sống thời đổi mới được truyện ngắn phản ánh chân thực.“Văn học phải có cái gì của văn học, chứ không muốn văn học chỉ là một sự minh họa”[4, 130]. Truyện ngắn giờ đây không còn là sự mô phỏng, sao chép hiện thực đời sống nữa mà nó đã mang sức nặng của sự khái quát qua mỗi câu chuyện có thể thấy cả một cuộc đời, một kiếp người, một vận hội, một thời đại. Có những truyện ngắn còn nặng hơn cả một cuốn tiểu thuyết như Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh,… Chứa đựng trong đó là bao ẩn ức của con người được tác giả phản ánh chân thực và sâu sắc. Cho tới nay, các nhà văn cũng ngày càng khẳng định được những nỗ lực, tìm tòi trong trải nghiệm sáng tạo văn chương của mình. Họ chấp nhận đương đầu với thử thách khó khăn, vượt lên mọi dư luận khen chê bằng tài năng và bản lĩnh của mình đem đến một lối nghĩ mới, một cách nhìn mới, một phương thức miêu tả mới về hiện thực. Văn học giai đoạn này ghi nhận sự hình thành của nhiều phong cách truyện ngắn độc đáo như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư,... 1.3. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trong đời sống văn xuôi đương đại 1.3.1.Tiểu sử nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Nữ nhà văn Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976, tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Học đến lớp 10 Ngọc 10 Tư đã phải nghỉ học giữa chừng, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông ngoại bị bệnh nặng không ai chăm sóc. Chị đã từng tâm sự: “Trước khi viết truyện ngắn đầu tiên, mình đơn thuần là một cô gái nông dân, bỏ dở học hành, ở nhà nấu cơm nuôi ông ngoại, chăm sóc vườn rau, chiều chiều cắt rau cho má đi bán chợ đêm”[6]. Dù vậy, Ngọc Tư vẫn không ngừng từ bỏ ước mơ trở thành nhà báo của mình. Thời gian chăm sóc ông bệnh, Tư không có người để cùng chia sẻ, tâm sự, chỉ có tưởng tượng là người bạn đồng hành duy nhất. Chị bắt đầu viết văn một cách đơn giản, chỉ bằng thói quen nguệch ngoạc những chữ vô nghĩa bằng tay vào không gian qua những tưởng tượng của mình. Những năm tháng trải nghiệm làm văn thư cho tạp chí Bán đảo Cà Mau là bước nhảy vọt quan trọng để Ngọc Tư chính thức bước chân vào giới văn học nghệ thuật. Mốc son đánh dấu sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư trên diễn đàn văn học là lúc truyện ngắn đầu tay có tên Đổi thay được đăng trên Tạp chí Văn nghệ Cà Mau. Cũng từ đây, Nguyễn Ngọc Tư bước vào một môi trường mới, khác xa với những gì chị vốn quen sống. Đi làm báo, viết văn, Ngọc Tư vừa làm vừa học bổ túc, vừa chăm chỉ đọc sách báo để trang bị cho mình sự vững vàng về kiến thức. Càng đi nhiều nơi, đọc nhiều sách báo Ngọc Tư càng thêm trăn trở, suy tư về cuộc sống và con người. Và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Ngọc Tư thực sự bắt đầu khi chị 20 tuổi. Nguyễn Ngọc Tư hiện là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ tỉnh Cà Mau và Hội văn học nghệ thuật Cà Mau. Chị được đánh giá là một trong những gương mặt nhà văn trẻ tài năng của Việt Nam và “là một cây bút đặc biệt của miền Tây Nam Bộ”[13]. 1.3.2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ngọc Tư Nguyễn Ngọc Tư là một đại diện xuất sắc cho thế hệ các nhà văn trẻ và cũng là một cây bút tiêu biểu có nhiều đóng góp lớn cho văn học đương đại Việt Nam. Đằng sau mỗi tác phẩm luôn là những thông điệp giàu ý nghĩa mà Nguyễn Ngọc Tư muốn gửi gắmtới bạn đọc. Qua đó, tác phẩm thể hiện được 11 vốn hiểu biết phong phú của nhà văn về cuộc sống, đặc biệt là thiên nhiên và sinh hoạt của người phương Nam. Các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư phần lớn viết về nông thôn, nông dân, dân nghèo và lớp nghệ sĩ. Nhưng đó không hoàn toàn là những câu chuyện vui, những lời rô hò lạc quan mang chất người Nam Bộ mà đó thường là những câu chuyện buồn, ứa ra nước mắt bởi chị cho rằng nỗi buồn và số phận con người dễ tác động lòng người. Những tác phẩm chính của Nguyễn Ngọc Tư bao gồm: - Ngọn đèn không tắt (2000) - Ông ngoại (2001) - Biển người mênh mông (2003) - Giao thừa (2003) - Nước chảy mây trôi (2004) - Cái nhìn khắc khoải (2005) - Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005) - Cánh đồng bất tận (2005) - Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (2005) - Sầu trên đỉnh Puvan (2007) - Ngày mai của những ngày mai (2007) - Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (2008) - Biển của mỗi người (2008) - Sông (2012) Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ngọc Tư trở nên rạng ngời hơn khi nhà văn được trao nhiều giải thưởng, trong đó có: Giải nhất cuộc vận động “Sáng tạo văn học tuổi 20” do Nhà xuất bản Trẻ, Báo Tuổi trẻ, Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (2000). Giải B tặng thưởng các tác phẩm Văn học nghệ thuật xuất sắc của năm 2003 do Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam 12 tặng và Nguyễn Ngọc Tư được bình chọn là một trong “Mười gương mặt trẻ xuất sắc tiêu biểu của năm 2003”. Năm 2006, Nguyễn Ngọc Tư cho xuất bản tập truyện Cánh đồng bất tận và được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải nhất. Là một nhà văn trẻ, Nguyễn Ngọc Tư đã cống hiến cho văn đàn đương đại Việt Nam một phong cách văn xuôi đậm chất văn hóa Nam Bộ đã và đây là cây bút đang chiếm được tình cảm và sự mến mộ của đông đảo bạn đọc. 1.3.3 .Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận Năm 2005 – 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một “hơi gió mát” (chữ dùng của nhà văn Nguyên Ngọc) cho văn xuôi đương đại với các tác phẩm như: Hiu hiu gió bấc, Thương quá rau răm, Mối tình năm cũ,… Có thể nói, nếu coi tập kí sự Nỗi niềm sau cơn bão của Nguyễn Ngọc Tư là tác phẩm đánh dấu bước khởi đầu trong hành trình tiến vào làng văn thì tập truyện Cánh đồng bất tận được xem như một ngã rẽ đầu tiên đưa nhà văn bước vào một con đường dài rộng hơn. Với thành công mang một tiếng vang lớn, Cánh đồng bấttận đã một lần nữa khẳng định tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư trong giới văn nghệ sĩ trẻ thập niên đầu thế kỉ XXI. Tập truyện Cánh đồng bất tận được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2005. Tập truyện là tập hợp của 14 truyện ngắn khác nhau: - Cải ơi - Thương quá rau răm - Hiu hiu gió bấc - Huệ lấy chồng - Cái nhìn khắc khoải - Nhà cổ - Mối tình năm cũ - Cuối mùa nhan sắc 13 - Biển người mênh mông - Nhớ sông - Dòng nhớ - Duyên phận so le - Một trái tim khô - Cánh đồng bất tận Tập truyện ngắn với những câu chuyện gợi số phận con người khác nhau, là mười bốn bức vẽ xoay quanh cuộc sống con người vùng nông thôn miền Tây Nam Bộ. Cuộc sống làng quê Nam Bộ gắn liền với sông nước mênh mông hiện lên một cách chân thực qua giọng văn trau chuốt, mạch lạc của Nguyễn Ngọc Tư. Tác giả sử dụng lớp từ ngữ đậm chất Nam Bộ tạo nên một văn phong đặc sắc, không dễ nhầm lẫn. Trong số những truyện trên, Cánh đồng bất tận là truyện ngắn xuất sắc nhất và mở ra một thế giới hoàn toàn khác. Khác với những hình ảnh vùng quê Nam Bộ trù phú với những người dân phóng khoáng, giàu nghĩa khí nhưng vẫn vô tư, hồn nhiên mà chúng ta được tiếp xúc qua sách vở, phim ảnh thì ở đây, Cánh đồng bất tận lại mở ra trước mắt độc giả một thế giới đầy rẫy khắc nghiệt, con người đang quằn quại trong những đớn đau, tội lỗi, cô đơn. Ở thế giới tàn khốc ấycon người là nạn nhân của đói nghèo, của hoàn cảnh. Có người phụ nữ nghèo đến mức phải đánh đổi thân xác của mình chỉ vì một mảnh vải đẹp, còn có người bị đánh đuổi tím tái mặt khi “làm đĩ” để mưu sinh. Có hai đứa trẻ suốt đời theo cha rong ruổi trên khắp các cánh đồng phương Nam, chúng thèm khát những tình cảm ngay bên đường mà cũng không được. Còn có người chồng sống trong thù hận khi bị vợ phản bội đi theo người đàn ông khác… Xuyên suốt nội dung câu chuyện là hình ảnh những cánh đồng bất tận, cũng là nỗi cô đơn bất tận của con người. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan