Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân...

Tài liệu Luận văn văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân

.PDF
84
376
110

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ VĂN KHÔI VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ VĂN KHÔI VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tác giả Ngô Văn Khôi MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN . 7 1.1. Khái quát chung về hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân . 7 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân ............................................................................ 13 1.3. Nội dung của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân .......................................................................................................... 17 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM ......... 26 2.1. Khái quát về thực trạng công tác xét xử .................................................. 26 2.2. Không gian văn hóa xét xử và trang phục xét xử .................................... 33 2.3. Các chuẩn mực về hành vi trong giao tiếp, ứng xử khi tiến hành các hoạt động xét xử ...................................................................................................... 48 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................. 60 3.1. Phương hướng nâng cao văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân giai đoạn hiện nay .......................................................... 60 3.2. Giải pháp nâng cao văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân giai đoạn hiện nay ....................................................................... 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HTND: Hội thẩm nhân dân KSV: Kiểm sát viên XHCN: Xã hội chủ nghĩa TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao THTT: Tiến hành tố tụng TTHS: Tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, cùng với sự giao thoa giữa các nền kinh tế thì vấn đề bảo vệ và nâng cao ý thức pháp luật là hết sức cần thiết, cấp bách. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường đã kéo theo những thay đổi của xã hội, các ngành, các lĩnh vực một cách rõ nét. Từ đó các quốc gia phát triển bắt đầu tìm kiếm cho mình bước đi thích hợp để hội nhập nhưng không bị hòa tan. Một trong những biện pháp để các quốc gia lựa chọn đầu tiên: đó là giữ vững nền văn hóa dân tộc, kết hợn với những tinh hoa văn hóa nhân loại để đúc kết cho mình nền văn hóa tiên tiến, văn minh và hiện đại. Ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW và ngày 02/6/2005 Ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Cùng với Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp với mục tiêu: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, trong đó cải cách Tòa án và hoạt động xét xử là trung tâm của cải cách tư pháp. Nghị quyết đã xác định, vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp là của Tòa án, hoạt động của Tòa án là hoạt động trung tâm của hoạt động tư pháp. Đây là bước phát triển trong tình hình mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực tư pháp. Trong hoàn cảnh đó, một trong những giá trị cần bảo vệ là vấn đề văn hóa-văn hóa xã hội và văn hóa pháp lý. Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ đi sâu vào phần văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, toàn bộ các chứng cứ, tài liệu của vụ án được xem xét, đánh giá công khai, khách quan và toàn diện. 1 Trên cơ sở kết quả phiên tòa hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử ra bản án hoặc quyết định về việc giải quyết toàn bộ vụ án, trong đó xác định trách nhiệm hình sự, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên. Do đó, nếu phiên tòa xét xử đạt chất lượng tốt, thể hiện tính văn hóa trong hoạt động xét xử cao sẽ là cơ sở để ra bản án, quyết định chính xác, khách quan; góp phần hạn chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm. Từ đó đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa được bảo đảm. Với những lý do trên nên tôi đã chọn đề tài: “Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề văn hóa trong hoạt động xét xử, ở nước ta từ trước đến nay ít được chú ý. Chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. Trong thời gian gần đây, có một số ý kiến đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ nằm rải rác ở các phần, mục nhỏ trong các bài viết như: Các báo cáo công tác Tòa án; Bùi Ngọc Sơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức Tòa án và ý nghĩa hiện nay, Nghiên cứu lập pháp, số 2, tháng 2/2002. Chuyên đề về: Tư pháp hình sự so sánh (1999), Thông tin khoa học pháp lý, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp. Dương Ngọc Ngưu, Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng – Thực trạng và phương hướng đổi mới, lập pháp, đặc san số 4 tháng 3/2003. Dương Thanh Biểu, Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác hậu cần trong ngành kiểm sát nhân dân, Tạp chí kiểm sát, tháng 3/2004. Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, NXB TP.HCM. Hà Mạnh Trí, Vấn đề tổ chức các phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08 NQ-TW của BCT, Tạp chí kiểm sát tháng 8/2003. Phan Trung Hoài, Một số vấn đề về cơ sở đảm bảo dân chủ trong tranh luận tại phiên tòa hình sự, Tạp chí kiểm sát, số 3/2002. 2 Phạm Minh Tuyên, Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, NXB Thanh niên, Hà Nội. Phạm Quốc Hùng, Trị quốc trong văn hóa truyền thống Việt Nam, nghiên cứu lập pháp, số 2 tháng 3/2001. Phạm Hồng Hải, Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng – Thực trạng và phương hướng đổi mới, lập pháp, đặc san số 4 tháng 3/2003. Nguyễn Duy Giảng, Bàn về tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí kiểm sát tháng 10/2003.Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Nga, Oan và sai trong TTHS, Nghiên cứu lập pháp, số 2, tháng 2/2003. Nguyễn Minh Đoan, Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở, NXB Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Minh Đoan và Vũ Trọng Lâm, Hiệu quả của pháp luật – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật. Lê Cảm, Cải cách hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, tháng 4/2002. Lê Trung Mưu, Một số vấn đề rút kinh nghiệm về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự trong các phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08 NQ-TW của BCT ở tỉnh Thái Bình, Tạp chí kiểm sát, số 1/2004. Trần Văn Nam, Vai trò đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện quyền công tố, Tạp chí kiểm sát số 1/2004. Trịnh Tiến Việt, Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Nghiên cứu lập pháp số 7, tháng 7/2003. Được sự quan tâm của các cấp về vấn đề văn hóa cùng với hướng cải cách nền tư pháp nước nhà, chúng ta sẽ có điều kiện đào sâu hơn lĩnh vực này. Ngoài sự đam mê khoa học, chúng ta còn phải coi đây là trách nhiệm với xã hội. Với cá nhân là một cán bộ Tòa án, bản thân còn ý thức đây là trách nhiệm với hệ thống Tòa án các cấp. Chính vì thế, ngoài mục đích phát huy tính chủ động, sáng tạo trong học tập, công tác nhằm so sánh giữa lý luận và thực tiễn, chúng tôi còn mong muốn trong tương lai vấn đề văn hóa hóa hoạt động xét xử sẽ được quan tâm và chú ý nhiều hơn nữa để hiệu quả xét xử được nâng cao và nâng cao hơn nữa tính uy nghiêm, hiện đại, văn minh của 3 nền tư pháp nước nhà. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu những nét cơ bản đến chuyên sâu, có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó rút ra những kết luận và đề xuất những phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết án và còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phiên tòa hình sự, tính văn hóa thể hiện trong phiên tòa hình sự, ...nêu lên được những đặc trưng cơ bản của tính văn hóa thể hiện trong phiên tòa hình sự so với các phiên tòa dân sự, hành chính hay văn hóa công sở nói chung. - Đúc rút những kinh nghiệm, kỹ năng trong quá trình xét xử vụ án hình sự nhằm thể hiện, nâng cao vai trò của tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. - Nêu lên được những phương hướng, giải pháp nhằm góp phần tăng cường tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự. - Nâng cao tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự góp phần xây dựng hình ảnh hệ thống Tòa án hiện đại, văn minh, xứng đáng với định hướng cải cách hoạt động xét xử tại Tòa án là trung tâm của công tác cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách bao quát về những vấn đề có quan hệ trực tiếp đến tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, đặc biệt đi sâu vào những vấn đề cụ thể đối với các chủ thể của hoạt động xét xử là Hội đồng xét xử nói chung, là của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm 4 sát viên, Thư ký phiên tòa, luật sư, bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Ngoài ra, còn có các đối tượng liên quan như cơ sở vật chất, cảnh quan, trụ sở, cách bố trí, tổ chức phiên tòa,… cũng góp phần không nhỏ vào nội dung nghiên cứu của luận văn này. Luận văn sử dụng những diễn biến phiên tòa, những số liệu thực tế, thống kê của hệ thống Tòa án qua các năm để phục vụ làm cơ sở cho đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa vào các phương pháp sau: - Phương pháp duy vật lịch sử: Dựa trên phép biện chứng của Triết học Mác-Lênin; - Phương pháp thống kê: Các số liệu từ tổng kết của các ngành và hệ thống Tòa án để chứng minh làm cụ thể hóa vấn đề cần nêu. - Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích những tài liệu thu thập liên quan đến đề tài nhằm giải thích rõ ràng hơn các luận điểm; - Phương pháp Logic lịch sử: Liên hệ vấn đề từ thực tiễn những năm trước để có cái nhìn hoàn thiện hơn trong tương lai. - Phương pháp điền giả: Làm công tác thực tiễn tại các địa điểm liên quan để đề tài có tính thuyết phục, sát với thực tế hơn. Trong các phương pháp trên, phương pháp duy vật lịch sử là quan trọng nhất. Các phương pháp khác dựa vào lý luận của phép biện chứng duy vật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận gắn liền với thực tiễn xét xử vì đây là công trình nghiên cứu mang lại cách nhìn tổng quát về văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa trong hoạt động xét 5 xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân hiện nay, chỉ ra những điểm chưa phù hợp để đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao tính văn hóa khi xét xử và chất lượng xét xử. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 mục, phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Chương 2: Thực trạng văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái quát chung về hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân 1.1.1. Khái niệm hoạt động xét xử Hoạt động xét xử của Tòa án là “hoạt động của các cơ quan và các cá nhân được căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định pháp lý có tính chất bắt buộc”[56, tr.144]. Cụ thể hơn, theo tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc, hoạt động xét xử là “hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi vi phạm pháp luật”[14, tr.216]. Tố tụng hình sự là một quá trình mà ở đó cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,…thực hiện những hoạt động nhất định nhằm đạt được mục đích cuối cùng là có tội phạm xảy ra hay không? Có hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện hay không? Nếu có thì ở mức độ nào?,…trong quá trình này đòi hỏi phải có sự nỗ lực, trách nhiệm để làm sáng tỏ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong phạm vi của luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến giai đoạn xét xử vụ án hình sự mà cụ thể hơn là hoạt động xét xử vụ án hình sự của các chủ thể có thẩm quyền, những tổ chức, những người có liên quan đến hoạt động xét xử. Vậy xét xử vụ án hình sự là gì? Chúng có những đặc điểm gì? Với mục đích gì và xét xử bằng cách thức nào?...Có ý kiến cho rằng: xét xử các vụ án hình sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, là giai đoạn quan trọng nhất trong suốt quá trình tố tụng. Hoạt động xét xử là 7 tập trung cao nhất quyền tư pháp. Trong hoạt động này, Tòa án nhân danh nhà nước quyết định tội danh, hình phạt và những vấn đề khác có liên quan đến hành vi phạm tội. Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân thì: “Xét là suy nghĩ để hiểu rõ hơn cho từng gốc ngọn, cho ra vắn dài. Tìm hiểu cân nhắc xem nên giải quyết thế nào”. Còn xét xử theo tác giả là “Tòa án nghiên cứu tội lỗi của phạm nhân để xử án”[32, tr.314]. Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ thì: “xét” là tìm hiểu, cân nhắc kĩ để nhận biết, đánh giá, kết luận về cái gì đó. “Xét xử” là xem xét và xử các vụ án”[55, tr.342]. Khái niệm hoạt động xét xử trong tố tụng hình sự đi sâu vào lĩnh vực chuyên ngành nên cũng có những cách đánh giá riêng. Tuy nhiên, bản chất vẫn là sự tìm ra và làm rõ vấn đề, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng nhất. Đảm bảo tính pháp chế XHCN, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo sức mạnh cưỡng chế của nhà nước đồng thời tuyên truyền phổ biến pháp luật một cách có hiệu quả nhất. Vậy, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự; trong đó Tòa án kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ, trên cơ sở đó vận dụng đúng đắn pháp luật hình sự để xác định một người có hành vi phạm tội hay không. Nếu phạm tội thì buộc người phạm tội phải chịu một hình phạt tương xứng với hành vi đó của họ. Từ đó hoạt động xét xử là hoạt động của những người có thẩm quyền tham gia vào việc xét xử vụ án hình sự. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự Nhìn chung hoạt động xét xử có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, Đây là hoạt động của những người có thẩm quyền được nhà nước quy định. Là những người được phân công giải quyết vụ án tại thời điểm phiên tòa diễn ra. Cụ thể là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, hoạt động nói chung của các thành viên HĐXX tại tòa. Những người tham gia khác như Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, luật sư, người bào chữa, người có 8 quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo,…hỗ trợ cho việc xét xử. Thứ hai, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Những người được giao nhiệm vụ xét xử họ đại diện cho ý chí của nhà nước nói riêng và ý chí của toàn dân nói chung. Cụ thể, kết quả xét xử là bản án được tuyên. Thứ ba, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động áp dụng các văn bản pháp luật tố tụng hình sự và văn bản pháp luật hình sự. Tại phiên tòa xét xử, ngoài việc tiến hành các hoạt động xét hỏi, đánh giá chứng cứ, tranh luận,…Trong đó, hoạt động có ý nghĩa và quan trọng là áp dụng pháp luật liên quan để giải quyết vụ án. Thứ tư, Hoạt động xét xử vụ án hình sự là hoạt động mang tính trí tuệ, linh hoạt. Đôi khi có những quy định của pháp luật chưa rõ thì đòi hỏi người làm công tác áp dụng pháp luật phải nhạy bén, quyết định thế nào vừa hợp pháp vừa hợp lý. * Phiên tòa sơ thẩm hình sự có những đặc điểm khác so với phiên tòa sơ thẩm dân sự và phiên tòa sơ thẩm hành chính Thứ nhất: Phiên tòa hình sự sơ thẩm giải quyết xét xử những hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm đáng kể cho xã hội và được quy định là tội phạm; còn phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành trên cơ sở việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; Việc xét xử của Tòa án là một trong các biện pháp Nhà nước thực hiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi phạm tội, cho nên phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến hành trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn việc giải quyết vụ việc dân sự là giải quyết các quyền và nghĩa vụ dân sự thường chỉ liên quan đến cá nhân các đương sự, trừ một số trường hợp liên 9 quan đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. Thứ hai: Phạm vi và diễn biến của phiên tòa hình sự sơ thẩm không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội, còn tại phiên tòa dân sự sơ thẩm phụ thuộc vào quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự. Trong quá trình tố tụng hình sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt dựa trên các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng nên phạm vi xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm dựa trên nội dung quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với các bị can về tội danh và khung hình phạt. Theo pháp luật của nhiều nước, tại phiên tòa hình sự, hai bên buộc tội và gỡ tội không thể thỏa thuận với nhau về tội danh và hình phạt để chấm dứt quá trình tố tụng. Trong án dân sự, hành chính, khi các đương sự đã thực hiện quyền khởi kiện, họ có quyền tự quyết định về việc tự tham gia tố tụng dân sự hay ủy quyền cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích của họ. Thứ ba: Tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, bị cáo không bắt buộc phải có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội; còn tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, các bên đương sự có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh yêu cầu. Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh có tội phạm xảy ra hay không thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình là không có tội. Vì vậy, tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh có tội phạm xảy ra hay không thuộc về Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Trong tố tụng dân sự, các đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung, là người trong cuộc, biết được sự việc, đưa ra yêu cầu và liên quan đến lợi ích của chính họ nên họ phải cung cấp cho Tòa án các chứng cứ và chứng minh làm rõ sự việc. 10 Về cơ bản, phiên tòa sơ thẩm dân sự có những đặc điểm giống so với phiên tòa sơ thẩm hành chính. Tuy nhiên, do bản chất của phiên tòa sơ thẩm hành chính là giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với các cơ quan nhà nước về các quyết định hành chính và hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước nên tính chất bình đẳng giữa các đương sự trong phiên tòa sơ thẩm hành chính không được triệt để như trong phiên tòa sơ thẩm dân sự. Thứ tư: Phiên tòa hình sự sơ thẩm được diễn ra tại Hội trường xét xử mang tính trang nghiêm, thể hiện uy quyền. Hiện nay, hệ thống Tòa án đã có quy định, trang bị Hội trường xét xử vụ án hình sự theo mô hình chung, thống nhất trong cả nước, còn phiên tòa xét xử dân sự, hành chính thì chưa. 1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động xét xử vụ án hình sự Hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng đều có những ý nghĩa cơ bản sau: - Đảm bảo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hoạt động xét xử có chất lượng tốt thể hiện quản lý nhà nước chặt chẽ. Điều này tạo nên động lực cho các ngành, các lĩnh vực khác cùng phát triển. - Hoạt động xét xử quyết định tình trạng pháp lý của bị cáo. Trước khi Tòa án tuyên án thì bị cáo vẫn là một công dân bình thường mà không phải chịu sự ràng buộc nào của một hình phạt. - Hoạt động xét xử nhằm đảm bảo tính thực thi của pháp luật. Những quy định của pháp luật có cụ thể, có đi vào đời sống thiết thực không thì phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của những người tiến hành xét xử. Mọi bản án được tuyên khi có hiệu lực pháp luật đều được bảm đảm thi hành. - Hoạt động xét xử nhằm góp phần tuyên truyền pháp luật. Ý nghĩa này giải thích tại sao ta thường tổ chức những phiên tòa lưu động trước đây. Tại 11 phiên tòa, các hoạt động của những người trong HĐXX ảnh hưởng rất lớn đến sự đúng đắn và tính nghiêm minh của pháp luật. - Hoạt động xét xử đúng, hợp pháp sẽ tăng cường, củng cố sự tin cậy của nhân dân vào đảng, nhà nước. Hoạt động xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân thì họ sẽ yên tâm làm ăn, yên tâm công tác. Vấn đề này trực tiếp hoặc gián tiếp tạo thêm sức mạnh cho sự tăng trưởng kinh tế, phục vụ đời sống nhân dân một cách có hiệu quả hơn. Đây cũng là điều mà một xã hội văn minh, một nhà nước vững mạnh cần đạt được. 1.1.4. Yếu tố văn hóa trong hoạt động xét xử Trong bất kỳ hoạt động gì, kể cả hoạt động xét xử vụ án hình sự thì cũng cần phải tiến hành một cách chặt chẽ, có văn hóa, nghĩa là đòi hỏi phải đẹp, phải đúng, thể hiện tính nhân văn. Để giúp cho hoạt động xét xử đảm bảo tính văn hóa, thuyết phục thì cũng tùy vào cách thức tổ chức phiên tòa, tùy thuộc vào hành vi, thái độ, kỹ năng điều hành phiên tòa của những người làm công tác xét xử. Cách trang trí, cách ăn mặc, ngôn ngữ được sử dụng của những người làm công tác xét xử tại phiên tòa. Trong các phiên tòa mang tính chất tranh tụng cần phải tạo được không khí vừa thẳng thắn vừa cởi mở, phải tạo nên một sự dân chủ, bình đẳng nhất định. Để thể hiện tính văn hóa trong hoạt động xét xử thì ngoài những vấn đề trên, một mảng không thể thiếu của tính văn hóa, đó là sự nhân đạo và tinh thần nhân văn cao cả. Điều này muốn làm tốt được thì phụ thuộc chủ yếu vào năng lực, kỹ năng và đạo đức của những người cầm cân công lý. Những yếu tố trên đều ảnh hưởng đến tính văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân. Chúng ta cần đi sâu và làm rõ hơn từng vấn đề cụ thể ở mục tiếp theo. 12 1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân a. Khái niệm: Phạm trù văn hóa rộng, nhiều lĩnh vực, hơn nữa ở những khía cạnh khác nhau người ta có một cách nhìn nhận khác nhau nên đã có khoản hơn 1.000 định nghĩa về văn hóa. Văn hóa theo nghĩa rộng thì đó là sự hiểu biết và trí tuệ của con người và do con người tích lũy được, cùng tâm hồn cao thượng, đạo lý tốt đẹp trong mối quan hệ của con người với đồng loại, với xã hội và tự nhiên, được xây dựng, bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử; nó làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò cực kỳ quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh thì hiểu văn hóa theo 3 nghĩa: rộng, hẹp và rất hẹp. Theo nghĩa rộng Người cho rằng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra; theo nghĩa hẹp thì đó là những giá trị tinh thần; còn theo nghĩa rất hẹp thì văn hóa đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con người. Theo định nghĩa về văn hóa của giáo trình triết học MácLeenin: “Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như các phương thức tạo ra chúng, kĩ năng sử dụng các tiến bộ đó vì sự tiến bộ của loài người và cách truyền các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác”[19, tr.159]. Tóm lại, Văn hóa là tất cả những gì tồn tại xung quanh con người, do con người tạo ra trong suốt quá trình vận động và phát triển của xã hội. Từ đó ta đi tìm hiểu về văn hóa trong xét xử của Tòa án nói chung và văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân nói riêng là gì. 13 Văn hóa xét xử là một bộ phận của văn hóa tư pháp và là một loại hình văn hóa đặc thù. Nó chỉ hình thành, tồn tại và phát triển trong một lĩnh vực đặc thù: đó là lĩnh vực xét xử; áp dụng cho một đối tượng chủ thể tương đối hẹp là những người làm công tác xét xử hoặc liên quan đến xét xử. Xét ở nghĩa rộng, văn hóa xét xử có thể được coi là một bộ phận của văn hóa ứng xử, là một bộ phận của văn hóa tinh thần, tồn tại bên cạnh văn hóa tư tưởng, văn hóa giáo dục, văn hóa khoa học, văn hóa nghệ thuật, văn hóa đạo đức, lễ hội, phong tục tập quán... Còn là một bộ phận của văn hóa đạo đức, văn hóa tinh thần, hay như hiện nay thường gọi là văn hóa phi vật thể, do đó, văn hóa xét xử cũng có đầy đủ các chức năng của văn hóa, như chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ. Như vậy, Văn hóa xét xử được hiểu là một bộ phận cấu thành của văn hóa đạo đức, văn hóa tinh thần, văn hóa phi vật thể và là một cấu thành quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án biểu hiện qua trung tâm là Hội đồng xét xử cùng với những nội dung khác như kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp. Đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự so với hoạt động xét xử các loại vụ án khác như dân sự, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại có sự khác biệt đáng kể. Sự khác biệt thể hiện ở đối tượng được đưa ra xét xử, không gian, thời gian đưa ra xét xử, tính chất, mức độ của hành vi cần được xem xét. Khác nhau còn ở chỗ tính bình đẳng tại phiên tòa được diễn ra bởi diễn biến phiên tòa, bởi cách xưng hô, bởi trình tự thủ tục giữa các phần: bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận.... Vì thế, văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự vừa có những điểm chung với văn hóa xét xử nhưng vừa có những đặc thù riêng. Vậy, Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân bao gồm những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực, nghiêm minh của hoạt động xét xử vụ án hình sực thể hiện trong diễn biến tại các phiên tòa mà các 14 giá trị của chúng được thẩm thấu vào nhận thức và hành động tuân theo pháp luật của người bị kết án và những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. b. Đặc điểm văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự: Văn hóa trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân có những đặc điểm riêng, khác biệt so với văn hóa trong khi xét xử các vụ án khác như: - Những giá trị nhân đạo, nghiêm minh trong quyết định hình phạt tại bản án thể hiện sự khoan hồng của pháp luật hình sự nước ta. Một phiên tòa kết thúc thể hiện tính văn hóa cao không thể với một mức án quá nặng hoặc quá nhẹ dẫn đến sự thiếu nghiêm minh của pháp luật. Chỉ tại phần tuyên án của phiên tòa hình sự mới có sự áp dụng hình phạt đối với người bị kết án, còn những phiên tòa dân sự theo nghĩa rộng thì chỉ tuyên chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đương sự. - Phòng xét xử: Bản thân phòng xử án hay bản thân tòa án không tạo nên văn hóa xét xử mà văn hóa xét xử được hình thành trong quá trình hoạt động của Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong bối cảnh của một phòng xử án nhất định. Phòng xử án đối với vụ án hình sự được bố trí, trang hoàng đảm bảo sự trang nghiêm, có bàn riêng giành cho Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội đối với bị cáo. Có bục khai báo giành riêng cho bị cáo. Môi trường đó có đủ uy nghi để cho người tiến hành tố tụng và người tham gia phiên tòa cảm thấy mình đang ở trong một bầu không khí trang nghiêm, trang trọng và có văn hóa. Sự uy nghi của Tòa án phải thể hiện từ kiến trúc của Tòa án, bài trí của phòng xử án đến bàn ghế, không gian chung của toàn cảnh. - Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là thành viên của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử điều khiển phiên tòa dưới sự chủ tọa của Thẩm phán. Mỗi một hành vi của Thẩm phán nói riêng và của Hội đồng xét xử đều là sự chú ý của cả hội trường xử án. Bản thân Thẩm phán hay 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan