Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn xóa án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc giang...

Tài liệu Luận văn xóa án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc giang

.PDF
88
230
75

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH XÓA ÁN TÍCH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH XÓA ÁN TÍCH THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học, đã đóng học phí đầy đủ và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Như Quỳnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÓA ÁN TÍCH ................................................................................................ 5 1.1. Khái niệm và hậu quả pháp lý của án tích ........................................... 5 1.2. Khái niệm và ý nghĩa pháp lý của xóa án tích ................................... 12 1.3. Khái quát pháp luật hình sự Việt Nam về xóa án tích từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ................................... 17 1.4. Chế định xóa án tích trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới ...................................................................................................... 21 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ XÓA ÁN TÍCH VÀ THỰC TIỄN XÓA ÁN TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG......................................................... 25 2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các trường hợp xóa án tích .......................................................................................... 25 2.2. Thực tiễn xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ............................ 42 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO XÓA ÁN TÍCH ĐÚNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG......................................................... 58 3.1. Yêu cầu của việc bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về xóa án tích ........................................................................ 58 3.2. Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về xóa án tích ..................................................................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự LLTP : Lý lịch tư pháp DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả xử lý vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Bắc Giang .............. 43 Bảng 2.2. Số người được xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang ................. 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xóa án tích là một chế định nhân đạo của luật hình sự, thể hiện sự thừa nhận của Nhà nước về mặt pháp lý việc người bị kết án đã có đủ điều kiện theo luật định để được coi là không còn mang án tích và do vậy họ không phải tiếp tục gánh chịu bất cứ hậu quả nào do việc kết án mang lại. Sự thừa nhận này nhằm khuyến khích những người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh bản án và cải tạo tốt để hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo số 35/BC-BTP ngày 12/2/2015 tổng kết thi hành BLHS 1999 của nhiều địa phương, quá trình xem xét xóa án tích đối với người bị kết án trong thời gian qua gặp một số khó khăn, vướng mắc về thủ tục xóa án tích. Hơn nữa, chính sách về xóa án tích của BLHS năm 1999 còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích chính đáng của người bị kết án, cản trở quá trình tái hòa nhập cộng đồng (như thời hạn xóa án tích còn dài, thời điểm tính thời hạn xóa án tích cho người bị kết án chưa phù hợp). Cho đến nay, nhiều nội dung của chế định xóa án tích còn có những nhận thức khác nhau. Mặt khác, cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước, nhiều vấn đề của luật hình sự, trong đó có vấn đề xóa án tích cũng luôn vận động và phát triển đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương của Đảng về đề cao hiệu quả phòng ngừa và hướng thiện trong xử lý người phạm tội, thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người bị kết án đồng thời tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo tinh thần Hiến pháp 2013, đồng thời để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên của BLHS năm 1999, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách thống nhất, các quy định của BLHS năm 2015 về xóa án tích đã được sửa đổi, bổ sung tương đối cơ bản và toàn diện không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, nghiên cứu những quy định mới về xóa án tích theo BLHS 2015 cũng vẫn còn sự bất cập, dẫn đến cách hiểu khác nhau và chưa bảo đảm tính nhân đạo, khoan hồng đối với những người đã bị kết án trong giai đoạn hiện nay, dẫn đến sẽ có nhiều vướng mắc khi áp dụng chế định này trong phạm vi cả 1 nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng. Để đảm bảo quyền lợi cho các bị án tái hòa nhập cộng đồng, yên tâm sống, lao động, trở thành người có ích cho xã hội. Mặt khác, cùng với sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước cũng như hội nhập quốc tế nhiều vấn đề của luật hình sự, trong đó có vấn đề xóa án tích cũng vận động và phát triển đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện chế định xóa án tích là việc rất cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về cả thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Từ những vấn đề nêu trên là lý do để học viên lựa chọn đề tài “Xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” để nghiên cứu làm Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý ở nước ta đã quan tâm, nghiên cứu về Chế định xóa án tích theo pháp luật hình sự; có thể kể đến các công trình như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), GS. TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học Xã hội năm 2014;“Xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hồng Sơn; Học viện Khoa học xã hội; năm 2017;“Xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Văn Trình; Học viện Khoa học xã hội; năm 2017; “Xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Thu Hòa; Học viện Khoa học xã hội; năm 2017. Những công trình nghiên cứu nêu trên rất có giá trị để tham khảo và kế thừa khi thực hiện đề tài “Xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xóa án tích; thực tiễn hoạt động xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất những giải pháp đảm bảo xóa án tích đúng trong thời gian tới. 2 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau: - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định xóa án tích; - Đối chiếu, so sánh chế định xóa án tích trong luật hình sự một số nước trên thế giới; - Phân tích quy định của pháp luật hình sự hiện hành về xóa án tích; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và xây dựng các giải pháp hoàn thiện các quy định về xóa án tích. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về chế định xóa án tích theo quy định pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trên phạm vi địa bàn tỉnh Bắc Giang và trong thời gian 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2018). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm và hình phạt, về quyền con người, cải cách tư pháp; ngoài ra luận văn còn được nghiên cứu dựa trên những thành tựu của triết học, lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý, khoa học luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án; 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, so sánh, tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia, v.v… 3 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ pháp luật hình sự về chế định xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Công trình này vừa có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn: 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng xóa án tích nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1. Những vấn đề chung về xóa án tích Chương 2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về xóa án tích và thực tiễn xóa án tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang Chương 3. Các giải pháp đảm bảo xóa án tích đúng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÓA ÁN TÍCH 1.1. Khái niệm và hậu quả pháp lý của án tích 1.1.1. Khái niệm án tích Với sự quan tâm của nhà nước, pháp luật hình sự Việt Nam kể từ sau khi pháp điển hóa được Quốc hội thông qua BLHS năm 1985 lần đầu tiên được chính thức ghi nhận về mặt lập pháp các quy phạm về án tích được quy định tại khoản 5 Điều 3 và tại các Điều 52 đến Điều 56 của BLHS năm 1985 quy định xóa án và các trường hợp xóa án: Đương nhiên xóa án, xóa án theo quyết định của Tòa án, xóa án trong trường hợp đặc biệt. Trong lần pháp điển hóa thứ hai với việc thông qua BLHS năm 1999, các nhà làm luật Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh lại chế định này cho hoàn thiện hơn, vấn đề án tích được quy định trong khoản 5 Điều 3 và tại các Điều 63 đến Điều 67 của BLHS năm 1999 nhưng vẫn còn một số điểm hạn chế nhất định. Xét về mặt lý luận ít được các nhà hình sự học nước ta quan tâm nghiên cứu chế định án tích cũng là một trong các chế định có liên quan đến nhiều nhóm quan hệ pháp luật – pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự. Bởi án tích có cả trong khi đang chấp hành hình phạt, hơn nữa trong khoa học luật hình sự Việt Nam đương đại vẫn chưa xuất hiện một định nghĩa pháp lý về án tích, cũng như chưa có một công trình nghiên cứu chuyên khảo độc lập nào đề cập nghiên cứu chế định án tích một cách toàn diện và có hệ thống. Do BLHS đã không đưa ra được khái niệm về án tích cụ thể gây ra nhiều quan điểm khác nhau trong giới luật học về khái niệm án tích cũng như đặc điểm và bản chất, ý nghĩa của án tích. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam đã có một số quan điểm như sau về khái niệm án tích: - PGS,TS. Phạm Hồng Hải cho rằng: “Án tích là hậu quả pháp lý của bản án kết tội mà Tòa án tuyên đối với người phạm tội, là một tình tiết có ý nghĩa pháp lý 5 trong việc đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm và của người phạm tội khi tội phạm được thực hiện trong thời gian người ấy mang án tích” [14, tr.14]. Quan điểm này đã nêu ra đặc điểm pháp lý của án tích được dùng để đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm trong trường hợp tái phạm và tái phạm nguy hiểm. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn chưa hợp lý bởi án tích không phải luôn luôn được coi là hậu quả pháp lý của việc người đó bị kết án trong một số trường hợp như người bị kết án được miễn hình phạt hay chỉ áp dụng biện pháp tư pháp sẽ không làm phát sinh án tích mặc dù có bản án kết tội tồn tại. - Theo GS.TSKH Lê Cảm: “Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết án bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự, được thể hiện trong việc người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Tòa án) nhưng vẫn chưa hết án tích hoặc chưa được xóa án tích theo các quy định của pháp luật hình sự” [11, tr.829]. Quan điểm này của GS.TSKH Lê Cảm coi án tích là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự là chưa thực sự chính xác. Bởi, trách nhiệm hình sự được thể hiện ở quyết định hình phạt sẽ áp dụng đối với người phạm tội, trách nhiệm hình sự chỉ được chấm dứt khi người bị kết án thực hiện xong tất cả hình phạt và các nghĩa vụ cần thực hiện khi bản án được Tòa án ra phán quyết cuối cùng hoặc người đó được miễn hình phạt. - Quan điểm của GS, TS. Nguyễn Ngọc Hòa: “Án tích là đặc điểm xấu về nhân thân của người đã bị kết án và áp dụng hình phạt, được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong thời gian nhất định, là hậu quả pháp lý bất lợi cho người có đặc điểm đó”[15, tr.7]. Mặt khác “án tích được hiểu một cách bao quát và trước hết ở chỗ chủ thể đã bị kết án và áp dụng hình phạt về một tội phạm nhất định và chưa được xóa án tích”[15, tr.7]. Đây là quan điểm chỉ khá rõ bản chất của án tích cũng như các đặc điểm pháp lý của án tích. Quan điểm này chú trọng đến vấn đề đặc điểm nhân thân của người mang án tích. Trong thực tế, án tích là một đặc điểm xấu về nhân thân của người phạm tội, trong đó dấu hiệu “có tiền án” chính là đặc điểm để nhận diện 6 người đó có án tích hay không. Việc một người mang án tích có thể sẽ mang lại nhiều hậu quả pháp lý bất lợi cho người đó. Theo Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì: “Án tích là đặc điểm xấu (hậu quả) về nhân thân của người đã bị kết án và bị áp dụng hình phạt đã được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong thời gian luật định” [10, tr.14]. Quan điểm này đã khái quát và làm rõ án tích được áp dụng với những chủ thể đã bị kết án và bị áp dụng hình phạt về một tội phạm cụ thể mà chưa được xóa án tích. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng trong LLTP của họ với dòng chữ được ghi “có tiền án”. Bản chất của án tích là những đặc điểm xấu về mặt nhân thân của người phạm tội. Thời gian mang án tích dài hay ngắn là tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội gây ra. Trong thực tế hiện nay, một người khi đã mang án tích thì sẽ gặp rất nhiều bất lợi trong cuộc sống, có ảnh hưởng trực tiếp đến người thân của họ. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của người đó khi muốn tái hòa nhập cộng đồng. Như vậy, từ những sự phân tích, nghiên cứu trên đây thấy rằng trong khoa học luật hình sự Việt Nam có những nghiên cứu và các cách hiểu khác nhau về khái niệm án tích. Mỗi quan điểm tiếp cận khái niệm án tích dưới những góc độ khác nhau nhằm làm rõ bản chất, đặc điểm, các dấu hiệu của án tích. Từ những nghiên cứu này, tác giả khái quát lại như sau: Án tích là dấu hiệu chứng tỏ một người đã từng phạm tội và bị kết án bằng một bản án buộc tội của Tòa án, kèm theo đó là những hậu quả pháp lý bất lợi đối với người đó như bị áp dụng các tình tiết tái phạm hay tái phạm nguy hiểm với tư cách tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết định tội danh. Án tích tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và được xóa khi đáp ứng đủ điều kiện của luật định. Tóm lại, chế định án tích đã thể hiện được một phần của chính sách hình sự của nhà nước ta, đó là chính sách nhân đạo thông qua việc quy định điều kiện, thời gian thử thách đối với người phạm tội để họ được coi là người chưa bị kết án. Bên cạnh đó, những quy định này cũng thể hiện sự nghiêm khắc đối với những người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt và đối với những trường hợp người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt mà lại phạm tội mới trong thời gian mang án tích, đối với 7 trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đối với những trường hợp này, án tích có ý nghĩa pháp lý trong việc đánh giá tính chất nguy hiển của tội phạm. 1.1.2. Hậu quả pháp lý của án tích 1.1.2.1. Án tích chính là đặc điểm xấu về nhân thân chứng tỏ một người có án tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội Án tích không phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn, sau khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật thì án tích sẽ được xóa và người đã được xóa án tích được coi như chưa bị kết án. Đây là đặc điểm nhân thân của người bị kết án, có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá nhân thân của người phạm tội tốt hay xấu, từ đó, có thể đánh giá được tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như quyết định hình phạt, định khung hình phạt. Trong quá trình giải quyết vụ án, để đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật thì cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nhân thân người phạm tội. Mặc dù nhân thân của người phạm tội không phải là yếu tố cấu thành tội phạm nhưng việc nghiên cứu nhân thân của người phạm tội một cách đầy đủ và khách quan có ý nghĩa rất lớn. Ở một số loại tội phạm, yếu tố nhân thân của người phạm tội có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội hoặc định khung hình phạt. Việc quy định án tích là một đặc điểm nhân thân của người phạm tội còn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Đặc điểm nhân thân của người phạm tội vừa thể hiện khả năng giáo dục, cải tạo, vừa thể hiện được khả năng tái phạm. Ngoài ra nhân thân của người phạm tội nó cũng thể hiện được phần nào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Do vậy, việc nghiên cứu nhân thân của người phạm tội cũng có ý nghĩa rất lớn trong quyết định hình phạt. Nhân thân người phạm tội cũng là một trong những dấu hiệu quan trọng quyết định việc tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Cấu thành tội phạm tăng nặng của tội Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (khoản 2 Điều 152 BLHS năm 2015) đòi hỏi chủ thể có đặc điểm là tái phạm nguy hiểm. Theo đó, một người thực hiện hành vi nếu đang có án tích thì trong trường hợp này sẽ bị xem xét tăng nặng trách nhiệm hình sự. 8 1.1.2.2. Án tích là hậu quả pháp lý bất lợi được áp dụng đối với người bị kết án và bị áp dụng hình phạt Không phải bất cứ người phạm tội và bị kết án nào cũng có án tích. Đối tượng mang án tích chỉ là những người bị kết án bằng một bản án của Tòa án và bị tuyên áp dụng hình phạt. Bởi người bị kết án nhưng được áp dụng các biện pháp tư pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, giáo dục tại phường, xã, thị trấn theo quy định tại Điều 95 BLHS, hay biện pháp buộc công khai xin lỗi, bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 48 BLHS sẽ không phải chịu hậu quả pháp lý này. Đây cũng là đặc trưng cơ bản đánh giá mức độ nghiêm khắc của hình phạt so với các biện pháp khác, thể hiện rõ tính chất “là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước” của hình phạt (Điều 30 BLHS năm 2015). Sự bất lợi của việc mang án tích đối với người bị kết án và bị áp dụng hình phạt được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể: Thứ nhất, người mang án tích, trong LLTP cũng như các giấy tờ chứng thực về nhân thân của người phạm tội sẽ ghi “có tiền án”, đồng thời chỉ rõ loại tội phạm cũng như hình phạt dành cho người phạm tội đó. Khi đó, án tích sẽ bị coi như “vết nhơ” trong lý lịch của người phạm tội, dẫn tới sự kì thị của xã hội cũng như khó khăn trong quá trình sinh hoạt, tham gia hoạt động xã hội, kinh tế của những người phạm tội. Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà trong một số lĩnh vực, pháp luật hạn chế quyền của người phạm tội còn mang án tích. Ví dụ: Tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi thì người “chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em” sẽ không được nhận nuôi con nuôi. Quy định này xuất phát từ chính yêu cầu phòng ngừa tội phạm trong chính sách hình sự Việt Nam. Thứ hai, việc mang án tích có thể là căn cứ để xác định hành vi phạm tội mới là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Từ đó, người mang án tích sẽ có thể bị áp 9 dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt, tình tiết để tăng nặng trách nhiệm hình sự, hay yếu tố định tội. Điều 53 BLHS năm 2015 quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm với nội dung: “1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.” [26]. Như vậy, dấu hiệu “chưa xóa án tích” – mang án tích chính là dấu hiệu quan trọng để xem xét hành vi phạm tội của người phạm tội có tái phạm hay tái phạm nguy hiểm hay không. Dấu hiệu tái phạm, tái phạm nguy hiểm này sẽ là căn cứ để xác định có áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS hay tình tiết định khung hình phạt hay không. Khi có dấu hiệu còn án tích và tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì hành vi phạm tội thường bị áp dụng theo khung hình phạt tăng nặng. Đối với một số cấu thành tội phạm, dấu hiệu “chưa xóa án tích” trở thành một trong những yếu tố định tội. Ví dụ: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS: “b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm b khoản 1 Điều 174 BLHS: “b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”)… Như vậy, việc mang án tích đã dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi đối với người mang án tích cả về mặt xã hội cũng như mặt pháp lý hình sự. Quy định này thể hiện 10 rõ tính chất nghiêm trị của pháp luật hình sự đối với những người phạm tội, đặc biệt là đối với những trường hợp ngoan cố, tái phạm đã được khẳng định tại điểm c, d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015: “c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;” [26]. 1.1.2.3. Thời điểm tồn tại của án tích Có một số quan điểm cho rằng án tích chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định sau khi đã chấp hành xong hình phạt mà không tồn tại trong thời gian chấp hành hình phạt. Quan điểm này lại mâu thuẫn với việc cho rằng án tích là đặc điểm nhân thân “đã bị kết án và bị áp dụng hình phạt” của người phạm tội bởi thời điểm bắt đầu mang đặc điểm nhân thân “bị kết án” của người phạm tội phải được tính từ khi có bản án buộc tội họ chứ không phải từ khi họ chấp hành xong hình phạt. Quan điểm này sẽ gặp vướng mắc khi đánh giá tính chất của tội phạm mới trong trường hợp người phạm tội đang chấp hành hình phạt lại phạm tội mới. Cùng với đó, theo quan điểm này, liệu có hay không việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như áp dụng tình tiết định khung hình phạt hoặc yếu tố định tội đối với người phạm tội mới trong trường hợp này. Cũng tồn tại một quan điểm khác cho rằng án tích chỉ bắt đầu được tính từ khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật và những người phạm tội mới trong thời gian kháng cáo, kháng nghị, chờ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm sẽ không thể trở thành đối tượng có án tích và sẽ không bị áp dụng những hậu quả pháp lý bất lợi do việc còn án tích như bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm khi xét xử tội phạm mới. Quan điểm này chưa thực sự hợp lý, bởi xét về bản chất của hành vi phạm tội trong thời gian kháng cáo kháng nghị bản án thì tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mới trong thời gian này còn cao hơn nhiều so với hành vi phạm tội sau khi bản án 11 đã có hiệu lực pháp luật, bởi hành vi đó thể hiện đậm nét sự chống đối pháp luật, ý thức phạm tội cao của người phạm tội. Trong khi đó, thời gian kháng cáo, kháng nghị lại không được coi là thời gian mang án tích, tức là sẽ không thể xem xét việc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như tái phạm, tái phạm nguy hiểm… thì khi xét xử tội phạm mới, liệu có đánh giá được đúng tính chất nguy hiểm của tội phạm mới được thực hiện trong thời gian này, nhằm đưa ra phán quyết về hình phạt một cách đúng đắn, phù hợp với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đặc biệt đối với trường hợp tình tiết tái phạm là tình tiết có ý nghĩa định khung hình phạt hoặc là dấu hiệu cấu thành tội phạm mới thì việc xác định thời điểm xuất hiện án tích theo quan điểm trên sẽ làm bỏ sót tội phạm cũng như không đánh giá được hết mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc kết án là một sự kiện khách quan và không gì có thể xóa bỏ được sự kiện bị kết án của người phạm tội. Tuy nhiên, án tích lại không phải là đặc điểm về nhân thân có tính chất vĩnh viễn. Quy định của BLHS, án tích chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, và khi đáp ứng đủ điều kiện luật định thì án tích có thể được xóa bỏ. Điều này, thể hiện tính nhân đạo của chính sách hình sự nhằm giúp xóa bỏ mặc cảm tội lỗi của người đã từng bị kết án, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng. Tóm lại, án tích tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định và sẽ được xóa bỏ để trở thành người chưa bị kết án khi người này đáp ứng được những điều kiện của pháp luật quy định. Chế định án tích có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ trên phương diện chính sách pháp luật mà còn cả trong thực tiễn áp dụng luật. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định án tích đã trở thành nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng pháp luật hình sự hiện nay. 1.2. Khái niệm và ý nghĩa pháp lý của xóa án tích 1.2.1. Khái niệm xóa án tích Xóa án tích là một chế định nhân đạo trong chính sách hình sự của nhà nước ta, góp phần đưa người từng bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, khuyến khích người bị kết án chấp hành nghiêm túc các phán quyết của Tòa án, có ý thức tuân thủ pháp luật sau khi chấp hành xong bản án để từ đó trở lại cộng đồng, trở thành công dân có ích cho xã hội. 12 Trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về xóa án tích, việc xác định một người bị kết án trong vụ án hình sự đã được xóa án tích hay chưa có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài ra, việc đã được xóa án tích hay chưa còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định một người là có tội hay không có tội. Mặt khác, trong LLTP của người đã bị kết án có mục xác nhận có hay không có tiền án. Việc ghi có tiền án hay không có tiền án trong việc giải quyết các vấn đề về xã hội như: Đăng ký kinh doanh, đi lao động hay học tập ở nước ngoài... có ý nghĩa rất lớn đối với một người. Với những ý nghĩa quan trọng của việc xóa án tích đối với người bị kết án, cho thấy việc nghiên cứu cụ thể, rõ ràng và có hệ thống về xóa án tích là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, cũng như trong công tác thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về xóa án tích. Từ trước đến nay, xung quanh vấn đề khái niệm xóa án tích, trong khoa học luật hình sự cũng còn nhiều quan điểm khác nhau: Theo PGS.TS Trần Đình Nhã: “Xóa án tích là sự thừa nhận về mặt pháp lý người bị kết án không còn mang án tích và vì vậy không còn chịu hậu quả nào do việc kết án mang lại” [19, tr.222]. Quan điểm này đã chỉ ra được tính chất quan trọng của xóa án tích – là sự “thừa nhận về mặt pháp lý” không còn án tích. Có thể đối với xã hội, việc bị kết án của người phạm tội, bị coi là người có “tiền án” không thể bị xóa bỏ trong tư tưởng của những người dân thì về mặt pháp lý, khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định, Nhà nước sẽ công nhận người bị kết án chưa từng can án và sẽ công nhận mọi quyền lợi hợp pháp của người bị kết án với tư cách là một công dân bình thường. Tuy nhiên, quan điểm lại chưa chỉ rõ về hậu quả pháp lý của sự “thừa nhận về mặt pháp lý” này. ThS. Phạm Thị Học quan niệm: “Xóa án tích được hiểu là xóa bỏ việc mang án tích thể hiện ở sự công nhận coi như chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị Tòa án xét xử, kết tội” [17, tr.238]. Quan niệm trên của ThS. Phạm Thị Học theo chúng tôi là không chặt chẽ về mặt lôgic, học thuật "Xóa án tích được hiểu là xóa bỏ việc mang án tích thể hiện ở sự công nhận coi như chưa bị kết án...". 13 ThS. Đinh Văn Quế cho rằng: “Xóa án tích là xóa bỏ bản án hình sự đối với một người đã bị Tòa án kết án là sự thể hiện tính nhân đạo trong luật hình sự, là để cho người bị kết án không mặc cảm tội lỗi của mình, tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng” [21, tr.387]. Quan điểm này đã nêu bật được ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của chế định xóa án tích đối với người phạm tội. Tuy nhiên, người viết không đồng tình với quan điểm này, bởi nếu coi xóa án tích chính là xóa bỏ bản án hình sự thì vô hình chung đã đánh đồng “án tích” với “bản án hình sự”. Trong khi đó, bản chất của án tích không phải là bản án hình sự mà chỉ là hậu quả pháp lý của việc từng bị kết án bằng bản án hình sự đó mà thôi. Từ những quan điểm trên đây trong khoa học luật hình sự về định nghĩa xóa án tích, đồng thời trên cơ sở nghiên cứu những hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về xóa án tích, chúng tôi nhận thấy rằng, định nghĩa xóa án tích phải xuất phát từ: - Định nghĩa án tích; - Bản chất pháp lý của xóa án tích; - Hậu quả của việc xóa án tích; - Thủ tục tố tụng của xóa án tích. Với những xuất phát điểm nghiên cứu trên, với định nghĩa xóa án tích chúng ta có thể khẳng định rằng: - Bản chất pháp lý của xóa án tích là xóa bỏ hậu quả pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án và phải chịu hình phạt theo bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì bản chất pháp lý của chế định án tích: “Án tích là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện trong việc hủy bỏ hậu quả pháp lý hình sự đối với người bị kết án, tức là chấm dứt hoàn toàn trách nhiệm hình sự của người đó, khi người đó đáp ứng được đầy đủ những điều kiện để được đương nhiên hết án tích hoặc được Tòa án xóa án tích theo các quy định của Bộ luật hình sự” [11, tr.831]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan