Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số việt nam hiện đại...

Tài liệu Lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số việt nam hiện đại

.PDF
127
1065
49

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên – Năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH TUYỀN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG Thái Nguyên - Năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS. TS Trần Thị Việt Trung – người đã tận tình hướng dẫn em thực hiện và hoàn thành luận văn này! Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng quản lý khoa học, Khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học. Trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường THPT Đồng Đăng – Sở Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn, cảm ơn các đồng nghiệp, cảm ơn những người thân trong gia đình, cảm ơn các bạn đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2012 Tác giả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu theo danh mục tác giả, tác phẩm đã dẫn. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Tuyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................. ............................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.................................... .................. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................. ............................... 4 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................ ...................... 4 6. Đóng góp mới của luận văn............................................................... ........... 5 7. Bố cục luận văn............................................................................................. 5 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KÌ HIỆN ĐẠI............................................................................. 6 1.1. Vài nét khái quát về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại ...................................................................................................................... 6 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại.. ................................................................................. 26 1.2.1. Giai đoạn đầu (từ năm 1945 đến năm 1960)......................................... 26 1.2.2. Giai đoạn từ những năm 60 đến năm 1986 (trước khi đổi mới).... ....... 28 1.2.3. Giai đoạn từ sau năm đổi mới (1986) đến nay.............................. ....... 31 Chương 2: LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN................................... ................................ 36 2.1. Khái quát về hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại..................................................................36 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 2.1.1. Về đội ngũ và tác phẩm..........................................................................36 2.1.2. Sự trưởng thành nhanh chóng............................................ ................... 43 2.2.Một số đặc điểm của hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam ...................................................... .............................. 47 2.2.1.Nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học khẳng định những thành tựu của nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam............................. ............................. 47 2.2.2. Nghiên cứu, lý luận, phê bình góp phần quan trọng vào việc tổ chức, định hướng cho văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam phát triển mạnh mẽ và đúng hướng ..................................................................................................... 56 Chƣơng 3: MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU............................................... 73 3.1. Nhà thơ, nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình Nông Quốc Chấn............ .... 73 3.2. Lâm Tiến – nhà lý luận, phê bình của văn học dân tộc miền núi......... ... 91 3.3. Nhà thơ viết lý luận, phê bình – Inrasara.............................................. . 105 KẾT LUẬN.................................................................................. ................ 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là một bộ phận quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Những thành tựu của bộ phận văn học này đã được giới nghiên cứu phê bình khẳng định bằng khá nhiều công trình nghiên cứu mang tính tổng thể và ở một số thể loại như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca…Tuy nhiên mảng nghiên cứu về lý luận phê bình văn học dân tộc thiểu số lại chưa thực sự được chú ý. Cho đến nay, theo khảo sát của chúng tôi thì vẫn chưa thấy có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về thể loại văn học này trong đời sống văn học các dân tộc thiểu số vốn rất đa dạng và phong phú. Trong khi đó, lý luận phê bình văn học dân tộc thiểu số cũng đã có quá trình phát triển và cũng đã khẳng định được tiếng nói của mình với khá nhiều các tên tuổi quen thuộc như: Nông Quốc Chấn, Triều Ân, Vi Hồng, Lâm Tiến, Hoàng An, Hoàng Quảng Uyên, Lò Ngân Sủn, Inrasara… Như chúng ta đã biết, muốn nghiên cứu một cách toàn diện về đời sống văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại thì không thể không nghiên cứu mảng lý luận phê bình của nền văn học này. Bởi qua một quá trình vận động và phát triển hơn nửa thể kỉ qua, văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã có được những thành tựu đáng tự hào, và góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển ấy là những hoạt động tích cực của thể loại lý luận phê bình. Hay nói một cách khác – với sự tự ý thức một cách sâu sắc về nền văn học dân tộc thiểu số của mình, các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình người dân tộc thiểu số đã cất tiếng nói, đã nghiên cứu, phân tích, thẩm định và định hướng cho văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam bước những bước đi vững chắc trên con đường vận động và phát triển của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài này nhằm góp một phần nhỏ để lấp đi một khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Bản thân tôi là một cô giáo dạy văn người dân tộc thiểu số, tôi rất yêu mến và tự hào về nền văn học đặc sắc, đa dạng và phong phú của mình. Do đó, tôi rất muốn được góp thêm một tiếng nói của mình vào việc khẳng định những thành tựu cũng như chỉ ra những hạn chế của nền văn học dân tộc thiểu số ở một thể loại văn học mà ít người để ý, nghiên cứu - đó là mảng nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu só Việt Nam hiện đại! 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi thì việc nghiên cứu về thể loại lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại tuy bước đầu đã được một số nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng mới là ở dạng các bài viết nhỏ, lẻ đăng trên báo chí, hoặc có trong cuốn sách nghiên cứu chung về văn học dân tộc miền núi, ví dụ như một số ý kiến sau: Nhà nghiên cứu, phê bình Lâm Tiến đã đề cập về vấn đề này trong một số bài viết sau: Sắc thái riêng hay mặt hạn chế trong lý luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số và Cần thận trọng và nghiêm túc trong nghiên cứu, lý luận phê bình văn học trong cuốn “Văn học và miền núi”, (NXB Văn hóa dân tộc, 2002); Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số và Viết về con người, cuộc sống các dân tộc thiểu số trong cuốn “Tiếp cận văn học các dân tộc thiểu số”(NXB Văn hóa thông tin, 2011). Trong các bài viết trên, ông đã nhận định: lý luận, phê bình văn học các dân tộc thiểu số còn rất trẻ, mới được bắt đầu vào năm 1957 với bài “Kể ít chuyện làm thơ” của Nông Quốc Chấn. Ông cho rằng “các nhà văn dân tộc thiểu số ít có được bài lý luận, phê bình văn học hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó do còn hạn chế về trình độ tư duy lý luận chưa cao, còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 thiếu những cuộc tranh luận, trao đổi nên nhiều bài lý luận phê bình còn nặng cảm tính hơn là lý tính.” Nhà thơ Lò Ngân Sủn cũng đưa ra nhận định của mình trong các bài viết sau: Sáng tác và phê bình và Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công việc còn ít được quan tâm, trong cuốn “Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số”(NXB Văn hóa dân tộc, 2002). Theo ông: “hiện nay việc nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số nói chung còn ít, rời rạc và lẻ tẻ và những hạn chế bất cập ấy do chính từ bản thân văn học dân tộc thiểu số mà ra.” Nhà văn Hoàng Quảng Uyên với bài viết Công tác lý luận, phê bình văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số, trong cuốn “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới”(NXB Văn hóa dân tộc, 2007), ông đã nhắc đến đội ngũ những người làm công tác lý luận, phê bình và khẳng định những thành tựu của lý luận, phê bình trong những năm qua với nhiều bản thảo, nhiều cuốn sách lý luận phê bình đã cho thấy diện mạo của văn học dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có nhiều tác phẩm chuyên sâu, chưa để lại dấu ấn, chưa có nét riêng… Có thể nói, thể loại lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại bước đầu cũng đã trở thành đối tượng quan tâm của một số nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên tình hình nghiên cứu lý luận, phê bình và nhắc đến các tác giả lý luận, phê bình văn học thiểu số, chứ chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu toàn diện và thấu đáo về thể loại văn học này trong đời sống văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. 3.1. Mục đích nghiên cứu. Luận văn cố gắng làm rõ quá trình hình thành, vận động và phát triển; phác thảo diện mạo cùng với những đặc điểm của hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Nghiên cứu quá trình hình thành, vận động và phát triển của thể loại nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. - Phác thảo diện mạo, chỉ ra những đặc điểm nổi bật của thể loại nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số. - Nghiên cứu một số gương mặt tiêu biểu của nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các tác giả, tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam tiêu biểu thời kì hiện đại (ví dụ như: Nông Quốc Chấn với các công trình nghiên cứu, lý luận của ông như: Đường ta đi (1972); Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977); Chặng đường mới (1985); Dân tộc và văn hóa (1993); Hành trang sang thế kỉ XXI (2000); Triều Ân với Giới thiệu thơ Hoàng Đức Hậu (1974); Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc 1936 – 1945 (1977); Vi Hồng với Sli lượn dân ca trữ tình Tày Nùng (1979); Lâm Tiến với Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995); Về một mảng văn học dân tộc (1999); Văn học và miền núi (2002); Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số (2011); Lò Ngân Sủn với Hoa văn thổ cẩm 4 tập (1998, 1999, 2001, 2002), Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số (2001); Hoàng An với Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc 3 tập (1999, 2003, 2008); Inrasara với Chưa đủ cô đơn cho sáng tạo (2006), Song thoại với cái mới (2008); Hoàng Quảng Uyên với Một mình trong cõi thơ (2000); Ma Trường Nguyên với Hiện đại mà dân tộc (2010); Mai Liễu với Hương sắc miền rừng (2008)…) 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hóa học, dân tộc học và văn học). - Phương pháp khảo sát, thống kê. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp so sánh, đối chiếu Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu tổng hợp khác. 6. Đóng góp mới của luận văn. - Về mặt khoa học: Nếu luận văn được hoàn thành – đây sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về thể loại nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại một cách có hệ thống và khá toàn diện. - Về mặt thực tiễn: Công trình sau khi được hoàn thành sẽ là một tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam một cách đầy đủ và toàn diện hơn. 7. Bố cục luận văn. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, nội dung chính của luận văn sẽ được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Vài nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Chương 2: Lý luận, phê bình văn học dân tộc thiểu số - Một số đặc điểm cơ bản. Chương 3: Một số tác giả tiêu biểu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 CHƢƠNG 1 VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM THỜI KÌ HIỆN ĐẠI 1.1. Vài nét khái quát về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại chủ yếu được hình thành và phát triển từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là những năm 60 trở lại đây. Tuy xuất hiện chậm nhưng văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại đã có những bước vận động và phát triển khá mau chóng - từ đội ngũ sáng tác (ngày càng đông đảo), tới thể loại (ngày càng phong phú), tới số lượng và chất lượng tác phẩm (ngày càng nhiều, hay và hấp dẫn hơn). Nếu nền văn học Việt Nam hiện đại được hình thành ngay từ đầu thế kỉ XX - khi đã mang trong mình đầy đủ những nhân tố thúc đẩy nền văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa - thì văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại lại rất non trẻ, chủ yếu mới được hình thành từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Có thể nói, cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đại gia đình các dân tộc Việt Nam, bởi vì nó không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - mà còn là một bước ngoặt vĩ đại khai sinh ra một nền văn học mới, nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại. Sau cách mạng tháng Tám, đặc biệt là từ khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc đến nay, nền văn học dân tộc thiểu số đã liên tục phát triển. Trước hết, cách mạng đã làm sống lại vốn văn học truyền thống của các dân tộc thiểu số. Nhà nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số Hà Văn Thư đã viết: “Chế độ ta không những đã làm nảy nở những tài năng mới mà còn chú trọng khai thác những di sản văn học nghệ thuật quý báu của các dân tộc bấy lâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 nay bị mai một dưới ách thực dân phong kiến…Những kết quả lao động nghệ thuật hàng nghìn năm, hàng trăm năm trước còn chắt chiu được qua bao nhiêu bão táp của thời gian cũng như những tinh hoa mới nảy nở đều cần được trân trọng”[46, tr. 138- 139 ]. Trên tinh thần như vậy, vốn văn học cổ phong phú các dân tộc bao gồm nhiều thể loại như: Truyện cổ, tục ngữ, dân ca, thơ, truyện thơ, trường ca… được tích cực sưu tầm, in thành sách. Nhất là từ sau Đại hội Văn Nghệ toàn quốc lần thứ hai (năm 1957), một số tác phẩm văn học dân gian dân tộc thiểu số đã được dịch ra tiếng phổ thông và lưu hành rộng rãi cho công chúng bạn đọc. Chúng ta có thể kể đến truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” (Xống chụ xon xao) của dân tộc Thái, các Trường ca: Đam San, Xinh Nhã, Đam Di, Y Prao…của các dân tộc Ê đê, Gia Rai và một số truyện cổ tích, dân ca dân gian của các dân tộc Tày, Nùng, H’mông…đã được ra mắt bạn đọc và được đồng bào các dân tộc thiểu số rất hoan nghênh. Có một công trình nghiên cứu khá qui mô giới thiệu được nhiều tác phẩm hay khai thác từ vốn văn học truyền thống và một số tác phẩm mới của các dân tộc thời kỳ này đó là: “Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số” (1962) – một tập trong bộ “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” do Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành. Cuốn tuyển tập là một minh chứng chứng minh rằng: đã có một nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam vốn rất lâu đời, phong phú và đặc sắc. Từ những bản tình ca với lời lẽ thắm thiết, da diết trữ tình, hồn nhiên, nồng hậu trong “Tản chụ xiết xương” của dân tộc Thái, “Xường” của dân tộc Mường…đến những bài lượn, bài sli trong trẻo, tươi mát của dân tộc Tày, Nùng…đã được giới thiệu trong cuốn sách. Nhưng không chỉ làm sống lại vốn văn học cũ, cách mạng còn xây dựng nên một nền văn học mới với đội ngũ sáng tác văn học các dân tộc thiểu số ngày càng đông đảo, không ngừng được bổ sung với sự xuất hiện của nhiều tên tuổi, đại diện cho nhiều dân tộc khác nhau. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954) đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 xuất hiện những nhà văn tiêu biểu như Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Nông Viết Toại, Lương Quý Nhân, Hoàng Nó...; đến giai đoạn chống Mĩ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 – 1975) - ngoài những nhà văn lớp trước, còn xuất hiện thêm một số cây bút mới như: Triều Ân, Hoàng Hạc, Vi Hồng, Hoàng Đình Quí, Mã Thế Vinh, Môlô Yclavi, Kpa Ylăng, Vi Thị Kim Bình, Vương Trung, Vương Anh...; giai đoạn sau năm 1975 đến nay, bên cạnh những cây bút lớp trước còn có rất nhiều các cây bút mới, trẻ trung, tài hoa như: Mã A Lềnh, Triệu Lam Châu, Lò Cao Nhum, Inrasara, Y Phương, Lâm Quý, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Dương Thuấn, Cao Duy Sơn, Lâm Quý, Ma Trường Nguyên, Hoàng Thị Cành, Hơ Vê, Triệu Kim Văn, Bùi Thị Tuyết Mai.... Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ của từng dân tộc, chúng ta có thể thấy việc phân bố nhà văn giữa các dân tộc không đều nhau. Các nhà văn thuộc dân tộc Tày chiếm số lượng nhiều nhất với: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Triều Ân, Nông Viết Toại, Lâm Ngọc Thụ, Hoàng An, Hoàng Hạc, Vi Hồng, Vi Thị Kim Bình, Nông Ích Đạt, Bế Sĩ Uông, Bế Dôn, Y Phương, Dương Thuấn, Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kỳ, Mai Liễu, Cao Duy Sơn, Dương Khâu Luông…; sau đó là dân tộc Thái với: Cầm Biêu, Hoàng Nó, Vương Trung, Lò Văn Cậy, Cầm Bá Lai, Lò Cao Nhum, Lương Quý Nhân, La Quán Miên...; tiếp là dân tộc Mường với: Vương Anh, Quách Ngọc Thiên, Hà Lý, Bùi Minh Chức, Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Tuyết Mai…; dân tộc Nùng với Mã Thế Vinh, Hoàng Quảng Uyên, Địch Ngọc Lân, Lâm Tiến…và một số các dân tộc khác như dân tộc Bana, H’rê, Chăm, Hoa, Vân Kiều …với các tên tuổi như: Kim Nhất, Inrasara, Dư Thị Hoàn, Lý Lan, Thao Khằm, Hồ Chư, Hơ Vê…Như vậy, chúng ta có thể thấy, vẫn còn khá nhiều dân tộc thiểu số chưa có được nhà văn của dân tộc mình. Cùng với sự phát triển khá mạnh mẽ của đội ngũ sáng tác, số lượng và chất lượng tác phẩm văn học các dân tộc thiểu số cũng ngày càng nhiều và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 được nâng cao hơn. Nếu như trước 1957, mới xuất hiện những bài thơ lẻ với vài ba tác giả tiêu biểu - thì từ những năm 60, 70 trở đi ngày càng xuất hiện nhiều tập thơ của nhiều tác giả đại diện cho nhiều dân tộc khác nhau. Đặc biệt là những năm 1987 đến nay, đã có nhiều tập thơ đạt được các giải thưởng cao trong đời sống văn học Việt Nam. Ví dụ như: Cầm Biêu với “Ánh hồng Điện Biên” (1984) đạt giải A Hội VHNT Việt Nam (năm 1984); tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” của Y Phương là một trong hai tập thơ đã được Hội nhà văn trao giải hay nhất trong năm 1987; Dương Thuấn được ba giải khuyến khích (của Hội nhà văn, Tạp chí văn nghệ quân đội và Tuần báo Văn nghệ) trong đó tập thơ “Cưỡi ngựa đi săn” (1991) đã đạt giải nhất về văn học viết cho thiếu nhi; tác giả Hơvê với “Đóa hoa rừng” – Tập thơ (1990) đạt giải B Hội nhà văn Việt Nam (năm 1992); tác giả Lò Ngân Sủn với 2 tập thơ: “Những người con của núi”(1990) và “Tôi là ngọn gió”( 1998) đạt giải B Hội nhà văn Việt Nam (năm 1990, 1998); tác giả Mai Liễu với hai tập thơ: “Tìm tuổi” – tập thơ (1998) đạt giải C Hội VHNT các DTTS Việt Nam (năm 1998) và “Giấc mơ của núi” – Tập thơ đạt giải B Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2001); Lương Định với “Dòng sông khao khát”– Tập thơ đạt giải C Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2001); Inrasara với “Tháp nắng” – Thơ và trường ca (1996) đạt giải B Hội nhà văn Việt Nam (năm 1997), “Sinh nhật xây xương rồng”(1997) – Thơ song ngữ đạt giải C Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 1998), “Lễ tẩy trần tháng Tư”(2002) – Thơ và trường ca đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (năm 2003) và giải thưởng văn học ASEAN (năm 2005)…Ở thể loại truyện ngắn, ký và tiểu thuyết, có nhiều tác giả cũng đạt được nhiều giải thưởng lớn. Ngay từ những năm 60, trên các tạp chí văn hóa, văn nghệ địa phương đặc biệt là ở tại hai khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc - đã xuất hiện nhiều cây bút nhiệt tình, sôi nổi ghi lại cuộc sống chiến đấu và xây dựng của nhân dân các dân tộc miền núi, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 trong đó có nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn và tiếng vang, đạt được những giải thưởng lớn như: Vi Hồng với truyện ngắn “Ngôi sao đỏ trên núi Phja Hoàng” đạt giải nhì của Tổng hội sinh viên Việt Nam (năm 1960), “Cây su su noọng Ỷ” đạt giải Nhì của báo Người giáo viên nhân dân (năm 1962), truyện ngắn “Nước suối tiên đào” đạt giải Nhì văn nghệ Việt Bắc (năm 1963); Hoàng Hạc với “Truyện Ké Nàm” (1964) đạt giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ và truyện ký “Hạt giống mới” đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam và Ủy ban TW Hội liên hiệp VHNT Việt Nam (năm 1985); Mã A Lềnh với “Chuyện bây giờ mới kể” - Tập truyện ngắn (1996) – Giải thưởng Ủy ban Tổ quốc liên hiệp các hội VHNT Việt Nam cho tác giả dân tộc ít người; Ma Trường Nguyên có tiểu thuyết “Rễ người dài” (1996) đạt giải thưởng Ủy ban Tổ quốc liên hiệp các hội VHNT Việt Nam; Hà Thị Cẩm Anh với truyện ngắn “Gốc gội xù xì” đạt giải A cuộc thi báo Văn nghệ (năm 2004); Cao Duy Sơn với tiểu thuyết “Người lang thang” đạt giải A Hội nhà văn Việt Nam và giải Nhì Hội Hữu nghị Văn hóa Việt – Nhật (năm 1993), với tiểu thuyết “Đàn trời” đạt giải A của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2006), với tập truyện ngắn “Những chuyện ở lũng Cô Sầu” - Tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam (1997) và đặc biệt là tập truyện ngắn “Ngôi nhà xưa bên suối” (2007) cùng lúc nhận hai giải thưởng (Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2008 và Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2009) …Để có được những tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc và phong cách cá nhân ấy - đằng sau là cả một quá trình phấn đấu không mệt mỏi vì lao động nghệ thuật của các nhà văn dân tộc thiểu số. Chính họ đã góp phần tích cực và quan trọng trong việc khẳng định một nền văn học các dân tộc thiểu số ngày một phát triển và đủ sức để hòa vào dòng chảy chung của nền văn học Việt Nam hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Đặc điểm nổi bật của nền văn học dân tộc thiểu số thời kì này là: một nền văn học phong phú, đa dạng, đặc sắc và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Nền văn học với tính chất phong phú, đa dạng, đặc sắc ấy được thể hiện ở trên tất cả các phương diện: đội ngũ sáng tác, nội dung phản ánh, hình thức nghệ thuật và thể loại…Về đội ngũ: văn học các dân tộc thiểu số đã có những bước phát triển nhanh chóng về số lượng người tham gia sáng tác. Đến nay, chúng ta có hẳn một đội ngũ các nhà văn thuộc nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau - với nhiều tác phẩm đặc sắc đã được trong và ngoài nước biết đến. Đội ngũ này không ngừng được bổ sung từ các nguồn khác nhau qua sự phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu sáng tác (từ các nhà giáo, đến các học sinh ở các trường phổ thông cho đến các trường đại học (chủ yếu đóng tại khu vực miền núi); từ các cơ quan báo chí; từ các cuộc thi sáng tác ở địa phương cho đến trại sáng tác của Hội nhà văn Việt Nam). Và hầu hết - họ cũng đã được học tập khá cơ bản ở các trường phổ thông, hoặc trong các trường đại học, cao đẳng, có một số người đã được học ở Trường Viết văn Nguyễn Du. Thế hệ nhà văn lớp đầu tiên đóng vai trò là trụ cột, thế hệ tiếp theo được trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ - là cầu nối và cũng là điểm tựa cho các cây bút trẻ thời kì hòa bình và thời kì đổi mới sau này. Ở họ đều có một đặc điểm chung là: có ý thức tìm hiểu về cội nguồn, về bản sắc văn hóa của dân tộc mình và đã cố gắng tái hiện lại những nét đẹp văn hóa truyền thống đó vào trong tác phẩm của mình bằng cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt đặc trưng của người dân tộc thiểu số. Nội dung chủ yếu của các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại là: Phản ánh sinh động và chân thực cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao trong các giai đoạn lịch sử của đất nước. Sáng tác của những tác giả này luôn gắn liền với sự vận động, sự đổi thay từng ngày, từng giờ của cuộc sống con người và thiên nhiên miền núi. Từ những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 bài thơ sục sôi khí thế cách mạng như “Việt Bắc đánh giặc” của Nông Quốc Chấn, “Gái thời giặc” của Cầm Biêu, “Chiến thắng Nghĩa Lộ” của Bàn Tài Đoàn…cho đến những tác phẩm ca ngợi cuộc sống mới tràn đầy niềm vui, niềm tự hào và đầy sự tin tưởng như: “Quê ta, anh biết chăng” của Triều Ân; “Suối Đông và suối Tộc” của Vương Trung; “Có tổ đổi công” của Cầm Biêu… Từ những truyện viết về nông thôn miền núi đổi mới (Cao nguyên trắng – Mã A Lềnh), về việc xây dựng thủy điện (Sông gọi – Hoàng Hạc), xây dựng hợp tác xã ( Sạn, Gánh nước cuối cùng – Nông Viết Toại) …đến việc phê phán những tệ nạn xã hội; những thói hư tật xấu, những sự thoái hóa biến chất của con người miền núi trong cuộc sống thời kì hiện đại đầy thuận lợi nhưng cũng đầy thách thức; đến việc ca ngợi những con người miền núi dám nghĩ, dám làm, dám vượt lên chính mình để vươn tới cuộc sống tốt đẹp ở nơi quê hương miền núi xa xôi, xanh thẳm (Thầy Ma Kỷ của Nông Viết Toại; Truyện anh Thượng của Nông Minh Châu; Núi cỏ yêu thương, Người trong ống của Vi Hồng…) đều đã phản ánh khá rõ nét chủ đề bao trùm trên. Ngoài mảng đề tài trên, các tác giả tỏ ra rất tâm đắc, say sưa viết về, giới thiệu về những nét đẹp của văn hóa truyền thống với các lễ hội, các phong tục tập quán, các sinh hoạt văn hóa tinh thần (có yếu tố tâm linh) của đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam. Điều đó đã góp phần mang lại một vẻ đẹp thẩm mĩ mới cho văn học dân tộc thiểu số thời kì hiện đại. Có thể khẳng định: các nhà văn dân tộc thiểu số đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển văn học chung của cả nước trên tất cả các thể loại: thơ, văn xuôi, kịch, lý luận phê bình...Các tác phẩm của họ thực sự đã làm giàu có, phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những thành tựu đáng ghi nhận của văn học dân tộc thiểu số thời kì này là sự hoàn thiện về mặt loại thể. Nếu như trước năm 1960 (thế kỉ XX) chủ yếu là sự hình thành và phát triển của thể loại thơ thì từ những năm sau 60 trở đi - ta Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 thấy nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hầu như đã không thiếu một thể loại văn học nào. Mạnh nhất là văn xuôi thì có: Truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, ký, ký sự, bút kí, hồi kí…; Thơ thì có: Thơ trữ tình, thơ trào phúng, truyện thơ, trường ca…; Kịch thì có: Kịch bản sân khấu, kịch bản phim; Lý luận, phê bình thì có: Nghiên cứu, giới thiệu, phê bình tác giả, tác phẩm… Theo dõi từ những sáng tác thơ của Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Vương Trung, Cầm Biêu … đến truyện ngắn, tiểu thuyết của Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Cao Duy Sơn…; từ kịch của Nông Ích Đạt, Bế Dôn, Bế Sĩ Uông…đến nghiên cứu, lý luận, phê bình của Nông Quốc Chấn, Triều Ân, Lâm Tiến, Inrasara…Chúng ta nhận thấy rằng: Không có một thể loại nào là không có sự phát triển nhanh chóng và không có những thành tựu đáng ghi nhận. Trong đó có hai thể loại đã đạt được những thành tựu xuất sắc hơn cả đó là: Thơ và tiểu thuyết. Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, thành tựu đáng kể nhất là thơ. Thời kì này, phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ, ngoài giá trị nghệ thuật văn chương còn có giá trị tuyên truyền cổ cũ cách mạng - điều này phù hợp với quy luật vận động và phát triển chung của văn học cả nước. Hàng loạt các tác giả dân tộc thiểu số cùng những tác phẩm của họ thời kì này đã đi sâu vào trong lòng người đọc như:“Dặn vợ dặn con” (1944) của Bàn Tài Đoàn, “Cán bộ với dân Mường” (1947) của Lương Quý Nhân ,“Tội ác giặc Pháp ở đồn Pom Nghê” (1948) của Hoàng Nó, “Vợ lính ngụy mong chồng” (1949) của Cầm Biêu, bài thơ “Việt Bắc đánh giặc” (1948) và “Dọn về làng” (1950) của Nông Quốc Chấn, “Pây bộ đội” (Đi bộ đội) của Nông Viết Toại…Còn từ những năm 60 đến những năm 80 là thời kì nở rộ của các thể loại văn học dân tộc thiểu số cụ thể: Ngoài thơ, văn xuôi và kịch cũng được hình thành và phát triển mau chóng với các tên tuổi như: Triều Ân, Vương Anh, Mã A Lềnh, Vương Trung, Vi Hồng, Y Điêng, Hoàng Hạc, Nông Ích Đạt, Bế Dôn, Bế Sĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 Uông, Quách Ngọ Thiên…Từ những năm 80 trở lại đây là thời kì mà các tác giả văn học người dân tộc thiểu số xuất hiện đông đảo nhất và thành tựu của nó cũng rực rỡ nhất. Giai đoạn này, truyện ngắn và tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ, thơ càng thêm khởi sắc và phát triển với tốc độ mau lẹ, với một đội ngũ tác giả thuộc các thế hệ nối tiếp nhau. Những tác giả tiêu biểu trong giai đoạn này có thể kể đến như: Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Dương Thuấn, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Lò Cao Nhum, Vương Anh, Cao Duy Sơn, Mã A Lềnh, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Inrasara, Triệu Lam Châu, Lý Lan, H’linh Niê, Bùi Thị Tuyết Mai, Nông Thị Ngọc Hòa… Trong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện đại, các nhà văn dân tộc thiểu số luôn có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một việc làm hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc - đặc biệt là trong thời kì hội nhập quốc tế hiện nay. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của một dân tộc chính là một việc làm vừa góp phần chống lại nguy cơ đồng hóa về văn hóa, vừa góp phần khẳng định sự hiện diện, sự tồn tại của dân tộc mình trong đời sống văn hóa toàn cầu ngày nay. Họ coi đây là một phẩm chất đặc biệt và tất yếu của văn học các dân tộc thiểu số “vừa là thiên bẩm tính tự nhiên, vừa là phẩm chất người cầm bút phải phấn đấu cho đúng hướng trên hành trình hiện đại hóa sáng tác”. Bản sắc dân tộc đã luôn được thể hiện trong thơ văn các dân tộc thiểu số trên tất cả phương diện: từ chủ thể sáng tạo đến đối tượng phản ánh và phương thức phản ánh. Trước hết, nó thể hiện qua chủ thể sáng tạo . Đúng như nhà nghiên cứu Lâm Tiến nhận định: “Nhà văn bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn hóa nhất định cho nên bản sắc dân tộc trong văn học liên quan chặt chẽ tới chủ thể sáng tạo ra nó”. Chủ thể sáng tạo ở đây không ai khác chính là các nhà văn, nhà thơ người dân tộc thiếu số - nên dù muốn hay không - nó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất