VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM HUY CƯỜNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM HUY CƯỜNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ VĂN LONG
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Phạm Huy Cường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ ..........................6
1.1. Tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính quyền cấp xã .................6
1.2. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã trong
lĩnh vực tổ chức, hoạt động của Mặt trận ..................................................................16
1.3. Sự phối hợp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã trong lĩnh vực
tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã ..............................................................17
1.4. Sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã trong lĩnh
vực khác ....................................................................................................................25
1.5. Điều kiện đảm bảo đối với mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
chính quyền cấp xã ....................................................................................................26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ Ở TỈNH QUẢNG NAM ..............29
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Nam .....................................................................29
Kinh tế .......................................................................................................................33
2.2. Thực tiễn mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã
ở tỉnh Quảng Nam .....................................................................................................34
2.3. Đánh giá về thực trạng mối quan hệ giữa MTTQVN với chính quyền cấp xã ở
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................62
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY MỐI QUAN HỆ
GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ .67
3.1. Phương hướng phát huy mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
chính quyền cấp xã ....................................................................................................67
3.2. Giải pháp phát huy mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính
quyền cấp xã. .............................................................................................................68
3.3. Một số kiến nghị.................................................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một bộ phận trong hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong
việc tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Vai trò hệ trọng đó đã
được Đảng ta xác định qua các kỳ Đại hội Đảng cho đến nay. Hiến pháp, Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều văn bản QPPL đã thể chế hoá các quan điểm của
Đảng về quyền năng và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong tham gia
xây dựng Nhà nước và củng cố chính quyền nhân dân.
Phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, trong những
năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có nhiều hoạt động phong phú đa dạng,
hiệu quả góp phần quan trọng vào việc tham gia xây dựng chính quyền; xứng đáng
là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Nhà nước, cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; phát huy tinh thần yêu nước, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tích cực vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái
thi đua lao động, chiến đấu, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn hơn 30 năm đổi mới của đất nước, đặc biệt là từ khi Nhà nước
ban hành Hiến pháp năm 1992 đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã từng bước
củng cố, mở rộng về tổ chức, tích cực đổi mới phương thức hoạt động của mình; tăng
cường mối quan hệ với cơ quan nhà nước; phối hợp và thống nhất hành động với các
tổ chức thành viên ở từng cấp; góp phần quan trọng vào quá trình tập hợp, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong
trào thi đua yêu nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, hiệu lực; tiếp tục làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
xứng đáng là cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trên phương diện lý luận và thực tiễn, công tác Mặt trận tham gia
1
xây dựng và củng cố chính quyền đến nay chưa được nghiên cứu, tổng kết một cách
toàn diện và hệ thống; mặt khác còn có những nhìn nhận, đánh giá khác nhau, thậm
chí chưa thật đầy đủ, thiếu thống nhất về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam tham gia công tác này, từ đó làm hạn chế phần nào kết quả trong việc thực
hiện quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời gian qua.
Từ thực tiễn của lịch sử và trước yêu cầu đổi mới của toàn bộ hệ thống chính
trị, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm
đáp ứng yêu cầu phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển,
đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc tìm hiểu và nghiên cứu về vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác này là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn. Qua nghiên cứu, tìm hiểu để thấy được những đóng góp to lớn
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam, đồng thời tìm ra những nguyên
nhân của sự hạn chế, đề xuất các biện pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới tỉnh Quảng Nam.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài " Mối quan hệ giữa mặt
trận tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam"
để làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề cập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều vai trò cụ thể như bầu cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu dân cử ở các cấp, hoạt động giám sát... là đối tượng nghiên
cứu của không ít công trình. Về giám sát thì có khá nhiều các công trình nghiên cứu
của các nhà khoa học, các luận án tiến sỹ, thạc sỹ đã nghiên cứu, như: công trình
Đổi mới tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội
ở nước ta hiện nay do Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương chủ biên, HN.
2017; Đề tài cấp bộ "Những căn cứ lý luận và thực tiễn sửa đổi Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam" do Giáo sư Lưu Văn Đạt làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 7 năm
2017. Chuyên đề do Nguyễn Văn Pha là chủ nhiệm: Phát huy vai trò Mặt trận Tổ
2
quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện XH góp phần xây dựng Đảng và Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, Hà Nội, tháng 8 năm 2017.
Đối với vai trò với chính quyền cấp xã của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần
thiết được nghiên cứu một cách tổng thể, trực tiếp riêng biệt và chuyên sâu. Đặc
biệt, trước yêu cầu của việc đổi mới hệ thống chính trị trong đó có đổi mới tổ chức
và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và yêu cầu của thực tiễn đời sống
chính trị xã hội đặt ra tỉnh Quảng Nam; thì việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ
thống về vai trò giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã tỉnh
Quảng Nam là hết sức cần thiết; có giá trị về lý luận và thực tiễn cao.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về vai trò giữa Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam với chính quyền cấp xã; đánh giá tổng quan về vai trò giữa Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam; trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính
quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở mục đích khoa học đó, luận văn góp
phần vào việc tuyên truyền, giải thích những kết quả đã đạt được của Mặt trận tham
gia xây dựng và củng cố chính quyền; nhằm khẳng định mối quan hệ giữa Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn phải thực
hiện các nhiệm vụ sau: Nêu lên khái niệm, đặc trưng, vai trò, lịch sử về vai trò và
nội dung cơ bản công tác với chính quyền cấp xã của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Phân tích, đánh giá thực trạng về những kết quả đạt được và hạn chế trong việc
quan hệ với chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam trong thời gian vừa qua, rút ra
những nguyên nhân của hạn chế. Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thiết thực để phát
huy hơn nữa mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã
tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về Mối quan hệ giữa mặt trận tổ quốc Việt Nam với
3
chính quyền cấp xã từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
- Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu mối quan hệ
giữa mặt trận tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam trong giai đoạn hiện nay (tức là trong giai đoạn đổi mới), đặc biệt là từ khi có
Hiến pháp năm 1992 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu: là chủ nghĩa Mác - Lê Nin và quan điểm
đường lối của Đảng ta về chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, về xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với
luận văn, việc nghiên cứu đề tài được tiến hành dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch
sử, so sánh. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các
tư liệu qua thực tiễn công tác để hoàn chỉnh luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu một cách tương đối hệ
thống, chuyên sâu về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp
xã tỉnh Quảng Nam.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật, đồng thời chứng
minh sứ mệnh lịch sử to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng và
củng cố chính quyền với vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền cấp xã tỉnh
Quảng Nam.
Luận văn đưa ra một số kiến nghị về phương hướng, giải pháp chủ yếu về cơ
chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn nữa mối quan hệ giữa mặt trận tổ quốc Việt
Nam với chính quyền cấp xã từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa mặt trận tổ
4
quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã.
Chương 2: Thực trạng về mối quan hệ giữa mặt trận tổ quốc Việt Nam với
chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Phương hướng, giải pháp phát huy mối quan hệ giữa mặt trận tổ
quốc Việt Nam với chính quyền cấp xã tỉnh Quảng Nam hiện nay.
5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính quyền cấp xã
Tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị thành
lập Hội Phản đế Đồng minh (18/11/1930), đây là hình thức tổ chức tiền thân của
Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp mọi lực lượng trong nhân dân làm cách
mạng giải phóng dân tộc. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng Việt Nam không
bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (một hình thức
tổ chức của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam) lớn mạnh không ngừng, đã
đóng góp rất lớn trở thành một trong các nhân tố rất quan trọng quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam cho đến nay.
Về vị trí, theo Cương lĩnh của Đảng năm 1991: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng ta vừa là đoàn thể thành viên, vừa
là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận. Năm 1999, Nhà nước thể chế hoá Nghị quyết Đại hội
Đảng VIII và qua tổng kết 10 năm đổi mới đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, trong đó xác định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống
chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo". Khái niệm hệ thống chính trị được Đảng sử dụng từ hội nghị TW6
(khoá VI), hệ thống đó bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể chính trị-xã hội. Như vậy, từ đó đến nay, vị trí của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đã được xác định rõ trong xã hội và hệ thống chính trị. Luận văn sẽ chủ
yếu, tập trung đi sâu vào mối quan hệ với Nhà nước để thấy được vai trò tham gia
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều
là bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị. Tuy Mặt trận và Nhà nước có sự khác
6
nhau về nhiệm vụ, chức năng và phương thức hoạt động; song chúng đều là công cụ
để nhân dân thực thi và phát huy quyền làm chủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ
phối hợp để thực thi quyền hạn và nhiệm vụ theo luật định. Sự phối hợp tất yếu này
là xuất phát từ nhu cầu tự thân của Nhà nước, của Mặt trận. Vì lẽ, chính sách pháp
luật là cơ sở chung để củng cố và tăng cường đoàn kết. Nhà nước có vai trò rất quan
trọng trong việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật và công tác quản lý, tạo điều kiện để nhân dân được
làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhà nước ban hành khung cơ chế để Mặt
trận và 5 tổ chức CT-XH còn lại thực hiện tốt chức năng, vai trò giám sát và phản
biện XH. Mặt trận phải chú trọng xây dựng Nhà nước và bảo vệ, giám sát Nhà
nước. Phối hợp với Nhà nước thì Mặt trận mới có điều kiện và gia tăng khả năng
thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Nhà nước quản lý điều hành XH bằng luật pháp, nhân dân là người trực tiếp
thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước. Do đó, Nhà nước cần tôn trọng và có
cơ chế thuận lợi để Mặt trận cùng các đoàn thể động viên người dân phát huy quyền
làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý, bảo vệ
và giám sát Nhà nước. Trong quá trình ban hành các văn bản về quản lý và điều
hành, cơ quan Nhà nước các cấp cần lắng nghe những kiến nghị của Mặt trận và các
đoàn thể. Nhà nước căn cứ quy chế tổ chức, cơ chế hoạt động nhằm giải quyết đúng
đắn về mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận. Nhà nước cần thể chế hoá, luật hóa
trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận trong tham gia quản lý KT-XH. Nhà nước
cùng với Mặt trận phải chú trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
người dân, vận động mọi lực lượng trong nhân dân đẩy mạnh phong trào cách mạng
để thực hiện các chương trình KT-XH thắng lợi. Mặt trận giới thiệu những người có
đủ tiêu chuẩn và điều kiện để nhân dân bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các
cấp; tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại
biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước. Cải cách bộ máy Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay còn bao hàm một nội dung quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật
7
thiết giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Để
Mặt trận làm tròn trách nhiệm là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, cùng với
nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, do đó đòi hỏi
sự phối hợp giữa Mặt trận với Nhà nước ngày một chặt chẽ hơn. Trong bài phát
biểu với Mặt trận, đồng chí Trường Chinh đã từng nói:
... Chúng ta không nên tưởng rằng có bộ máy nhà nước trong tay, có pháp
luật thì chỉ cần ra lệnh cho quần chúng tuân theo là mọi việc xong suôi cả. Tưởng
như thế là quan liêu, mệnh lệnh. Bất cứ chủ trương, chính sách gì, kể cả Hiến pháp
và pháp luật, quy chế và điều lệ, nếu không đem tuyên truyền phổ biến trong quần
chúng nhân dân, kiên nhẫn giải thích, thuyết phục và giáo dục cho quần chúng hiểu
và tự nguyện thi hành thì những cái đó cũng chỉ nằm trên giấy tờ. Chính quyền cách
mạng của nhân dân có thể dùng hai biện pháp: thuyết phục và bắt buộc, kết hợp
thuyết phục với bắt buộc, dựa trên cơ sở thuyết phục mà thực hiện bắt buộc, nói
chung thuyết phục vẫn là chính. Làm thế nào để thuyết phục quần chúng thi hành
những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đảng đã nắm chính quyền thì
những chủ trương, chính sách quan hệ đến quyền lợi thiết thân của toàn dân cần
được biến thành quy định của Nhà nước để toàn dân thi hành. Đảng lãnh đạo chính
quyền, chứ không bao biện thay chính quyền. Song để tránh quan liêu, mệnh lệnh,
chính quyền cần dựa vào Mặt trận và các thành viên của Mặt trận; sử dụng những tổ
chức đó vào việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng để quần chúng
thấu suốt và hăng hái thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Trở lại mối quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước, Điều 9 Hiến pháp đã thể
chế hoá quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như
sau:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, hiệp thương dân
chủ tự nguyện của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các tầng lớp giai cấp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở các nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các tổ chức thành viên của mình là cơ
8
sở chính trị quan trọng của chính quyền nhà nước. Mặt trận phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân,
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm
chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt
động có hiệu quả.
Ở Điều 87 của Hiến pháp quy định về quyền trình dự Luật đến Quốc hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mình. Tại Điều 111 quy
định: Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu
các đoàn thể nhân dân được mời tham dự tại các phiên họp Chính phủ khi bàn các
vấn đề nghị sự liên quan. Tại Điều 112 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Chính
phủ có nhiệm vụ: “Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân
trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tạo điều kiện để các tổ chức đó
hoạt động có hiệu quả” và tại Điều 125 quy định: Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương
được mời tham dự hội nghị UBND cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan.
HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo toàn diện tình hình địa phương cho Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe các ý kiến góp ý, kiến nghị của
các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát triển KT-XH ở địa phương; phối
hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân và Mặt trận Tổ quốc để động viên nhân
dân cùng nhà nước thực thi các nhiệm vụ KT-XH, quốc phòng an ninh ở địa
phương.
Như vậy, Hiến pháp có 5 điều quy định những nội dung cơ bản về quyền và
trách nhiệm của Mặt trận; về trách nhiệm của Nhà nước, của Quốc hội, Chính phủ,
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đối với Mặt trận và mối quan hệ giữa Mặt trận
với Nhà nước. Đây là những quy định có tính Hiến định quy định mối quan hệ giữa
Mặt trận với Nhà nước. Sở dĩ cơ quan nhà nước phải phối hợp với Mặt trận vì bản
9
chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, Nhà nước có chức năng quản lý, Mặt trận Tổ quốc là tổ chức liên minh chính
trị, là nhân dân có tổ chức do nhân dân lập ra. Để thực hiện tốt chức năng quản lý,
Nhà nước phải dựa vào Mặt trận, phối hợp với Mặt trận. Quan hệ phối hợp ở đây
được hiểu là sự bình đẳng, tạo điều kiện hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở các quy định
thống nhất giữa hai bên để thực hiện một chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước hoặc Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận có trách nhiệm
phối hợp với Nhà nước để thực hiện tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quyền và trách nhiệm của mình theo
quy định của pháp luật, trong đó có trách nhiệm tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội.
Phương thức phối hợp giữa Mặt trận và Nhà nước được thực hiện thông qua
các quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ
quan nhà nước cùng cấp ban hành ngày càng thiết thực và có hiệu quả. Từ khi có
Luật Mặt trận Tổ quốc (năm 1999) đến nay, thực hiện điều 5 về quan hệ giữa Mặt
trận với Nhà nước, ở trung ương đã xây dựng và ban hành được 21 văn bản liên
tịch, trong đó có 5 quy chế phối hợp công tác, 8 nghị quyết liên tịch, 8 thông tư liên
tịch với cơ quan nhà nước ở trung ương, trong số đó phần lớn là văn bản liên tịch
với Chính phủ, các bộ. Ở địa phương, tất cả các tỉnh đã xây dựng và ban hành quy
chế phối hợp giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân, giữa Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc với Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Ở cấp huyện có 98% số huyện, ở
cấp xã có 95% số xã đã xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa Mặt trận với
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Hàng năm, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc đều phối hợp với cơ quan nhà nước, chính quyền cùng cấp liên quan tổ chức
hội nghị liên tịch giữa hai bên để kiểm điểm việc thực hiện quy chế và thống nhất
chương trình, nội dung phối hợp công tác của năm tới; sửa đổi, bổ sung quy chế
phối hợp công tác.
Tổ chức chính quyền cấp xã
Theo Hiến pháp năm 2013, trong phân định các đơn vị hành chính thì xã,
10
phường, thị trấn là đơn vị hành chính thấp nhất – cấp xã. Ở các đơn vị hành chính
cấp xã, chính quyền địa phương (gồm HĐND và UBND) có trách nhiệm thực hiện
tốt và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm
được việc thì mọi việc xong xuôi”(1). Để cấp xã làm tốt, cùng với sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy đảng, sự tham gia tích cực của các đoàn thể nhân dân, sự tận
tình, công tâm và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức và những người hoạt
động bán chuyên trách,… thì sự xác định rõ, minh bạch về chức năng, nhiệm vụ và
tổ chức của chính quyền cấp xã gắn liền với sửa đổi, bổ sung hoàn thiện nó có vai
trò rất quan trọng để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã.
Về Hội đồng nhân dân cấp xã
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cử tri, đại diện
cho ý chí chung, nguyện vọng và quyền làm chủ của dân, do dân ở địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Từ
đó, chức năng, nhiệm vụ của HĐND có 8 điểm theo Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015, chủ yếu là: ban hành nghị quyết/ quyết định những vấn đề quan
trọng ở địa phương; quyết định nhân sự (bầu cử, bãi nhiệm, miễn nhiệm,…) và công
tác đầu tư, thu chi ngân sách nhà nước...; về tổ chức thực thi hoạt động giám sát; …
Thời gian qua, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định tại Hiến
pháp năm 2013 và Luật tổ chức chính quyền địa phương, HĐND cấp xã ở các địa
phương trong cả nước đã thực hiện theo thẩm quyền được giao, quyết định nhiều
vấn đề quan trọng có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. HĐND đã tổ chức các kỳ họp để thông qua nghị quyết HĐND; trong đó
bao gồm các nghị quyết chuyên đề. Việc ban hành các nghị quyết HĐND cấp xã đã
tạo cơ sở pháp lý để UBND cấp xã triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của Đảng bộ cấp trên và Đảng ủy cấp
xã vào quá trình quản lý, phù hợp với tình hình đặc điểm cấp xã đáp ứng cơ bản
thực tiễn yêu cầu. Đồng thời, HĐND cấp xã từng bước chú trọng cụ thể hóa quy
trình thống nhất ban hành nghị quyết tuân thủ các quy định pháp luật trên cơ sở
11
thẩm tra kỹ và nhận được sự phản biện, đóng góp ý kiến của các đại biểu, các tổ
chức đoàn thể; giúp nâng chất lượng các nghị quyết, góp phần giải quyết tốt nhiều
vấn đề KT-XH của địa phương.
HĐND cấp xã từng bước chú ý dến việc thực hiện chức năng giám sát. Nhiều
HĐND cấp xã đã lựa chọn sử dụng các biện pháp, hình thức kiểm tra, giám sát phù
hợp với tình hình thực tiễn. Qua xem xét và nghe báo cáo, qua chất vấn và trả lời
chất vấn, các đoàn tiến hành tổ chức giám sát, kiểm tra xuống tận các thôn làng để
nắm tình hình, thu thập ý kiến của cử tri, kịp thời giúp HĐND cấp xã kiến nghị giải
quyết về nhiều vấn đề bức xúc. Nhờ vậy, giám sát của HĐND cấp xã đã có nhiều
đóng góp thiết thực vào giải quyết các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật diễn ra ở
địa phương trên các lĩnh vực như giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cơ bản, thu
chi ngân sách, chính sách đối với giáo dục, xóa đói giảm nghèo....
Thông qua việc tiếp dân, không ít HĐND cấp xã đã phát huy tốt hoạt động
giám sát của đại biểu dân cử, góp phần giải quyết thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của
các tổ chức, cá nhân ở địa phương, thực hiện cơ bản dân chủ ở cơ sở, giảm thiểu các
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy chính quyền cấp xã, góp phần đảm bảo ổn định,
an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Tổ chức của HĐND cấp xã có cơ cấu gồm: Thường trực HĐND (Chủ tịch và
Phó Chủ tịch HĐND), các đại biểu HĐND, Ban KT-XH, Ban pháp chế. Qua thực
tiễn hoạt động, Thường trực HĐND cùng các đại biểu HĐND cấp xã từng bước
khẳng định vị thế vai trò của mình, góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động. Thường
trực HĐND cấp xã đã tích cực phối hợp với UBND cùng cấp để chuẩn bị kế hoạch
tổ chức hoạt động HĐND giữa hai kỳ họp như: tổ chức tiếp dân, sinh hoạt với tổ đại
biểu HĐND và một số cuộc giám sát,. Thường trực HĐND đã bám sát quy chế phối
hợp với Mặt trận Tổ quốc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh: Chủ tịch, Phó Chủ
tịch HĐND và UBND cấp xã. Đồng thời, phối hợp với UBND đưa ra HĐND cấp xã
xem xét, bãi nhiệm các đại biểu vi phạm tư cách đại biểu dân cử hoặc cho thôi chức
vụ do tín nhiệm thấp. Thường trực HĐND đã giữ mối liên hệ thường xuyên với đại
biểu dân cử, theo dõi và đôn đốc việc thực hiện chính sách đối với đại biểu dân cử.
12
Cũng như tạo thuận lợi cho các đoàn công tác của HĐND cấp trên và Đoàn đại biểu
Quốc hội ở địa phương đến công tác.
Tuy vậy, những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của HĐND cấp xã, đó là:
Một là, các nghị quyết chuyên đề của HĐND cấp xã còn chưa kịp thời giải
quyết vấn đề đang bức xúc, như: giải phóng mặt bằng; vệ sinh môi trường;… Việc
xem xét thẩm định, thảo luận các dự thảo nghị quyết, đề án trình HĐND vẫn còn
nặng tính hình thức.
Hai là, một số HĐND cấp xã chưa có lịch hoạt động giám sát định kỳ hoặc
nếu có thì mang tính hình thức là chủ yếu. Việc chuẩn bị các bước cần thiết của các
đoàn giám sát chưa chu đáo trước khi đi cơ sở, nên kết quả giám sát chưa cao, các
kết luận chung chung, chưa phản ánh đúng bản chất vấn đề. Vì vậy, đánh giá ,kiểm
tra, đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị thiếu hiệu quả.
Ba là, việc giám sát tại kỳ họp qua xem xét báo cáo của Thường trực HĐND,
UBND; qua chất vấn và trả lời chất vấn còn nhiều hạn chế. Việc gửi tài liệu kỳ họp
đến đại biểu HĐND còn chậm trễ, không đảm bảo thời gian quy định 5 ngày trước
ngày khai mạc kỳ họp. Nhiệm vụ giám sát chuyên đề của HĐND cấp xã còn rất yếu
ở nội dung: ; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; thực hiện Nghị quyết
về phát triển KT-XH; kế hoạch thực hiện nghị quyết của HĐND cấp trên; thu chi
ngân sách; việc dạy học thêm và các khoản thu khác của nhà trường; xây dựng nhà
văn hóa cộng đồng; về kế hoạch phòng chống bão, lụt, úng hàng năm … do hầu hết
các đại biểu HĐND hạn chế kiến thức pháp luật, quản lý và chuyên môn, nên các
hoạt động giám sát này mang tính hình thức và ít thực hiện. Mặt khác, các hình thức
tổ chức giám sát còn đơn điệu, nghèo nàn, thời gian giám sát ngắn, chủ yếu là nghe
báo cáo của các tổ chức/ cá nhân. Nên tìm hiểu thông tin thiếu xác thực, chưa đạt
yêu cầu mục đích đề ra.
- Việc đôn đốc, kiểm tra giám sát UBND cùng cấp về thực hiện nghị quyết
HĐND và giám sát hoạt động của các tổ chức cơ quan khác đóng trên địa bàn xã
còn nhiều hạn chế do trình độ có hạn hoặc bị cản trở thực hiện quyền giám sát. Việc
13
tổ chức các cuộc họp thường xuyên của Thường trực HĐND còn lồng ghép vào các
cuộc họp khác kết hợp với nhiều nội dung.
- Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm,
không có các Tổ đại biểu của HĐND cấp xã như trước đây, nên khó hiệu quả.
Về Ủy ban nhân dân cấp xã
UBND cấp xã được HĐND cùng cấp bầu ra, là cơ quan chấp hành của
HĐND, cơ quan hành chính nhà nước cấp xã, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên. Hoạt động UBND cấp xã thông qua phiên họp
tập thể của UBND dưới sự chỉ đạo điều hành của Chủ tịch UBND. UBND cấp xã
vừa thể hiện vai trò quản lý hành chính nhà nước ở mọi mặt, lĩnh vực của đời sống
xã hội ở địa phương; vừa là cơ quan quản lý việc chấp hành thực thi các quyết định
của HĐND cấp xã và UBND cấp huyện gắn liền với đường lối, chủ trương của
Đảng, pháp luật chính sách của Nhà nước về các hoạt động KT-XH, văn hóa, an
ninh, quốc phòng và môi trường trên địa bàn xã. Đến nay, đại bộ phận cấp xã đều
đã có đường giao thông đến trung tâm; cơ sở vật chất phục vụ giáo dục, y tế, văn
hóa được đầu tư; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; chăm sóc
sức khỏe của nhân dân được ổn định; giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm; bản sắc văn
hóa được duy trì; đời sống người dân được cải thiện; củng cố và giữ vững quốc
phòng, an ninh; thực hiện các hoạt động tư pháp khá tốt; cải cách thủ tục hành chính
chuyển biến rõ rệt. Nhiều xã, thị trấn đã xây dựng hoạt động theo quy chế làm việc;
quy chế làm việc ở cấp xã đã từng bước đề cao trách nhiệm cá nhân thành viên
UBND; trách nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã và ràng buộc trách
nhiệm trong giải quyết công vụ; thực hành tiết kiệm và chống phiền hà, tham
nhũng, lãng phí.
Tuy nhiên, hoạt động UBND cấp xã còn nhiều tồn tại:
Một là, hoạt động quản lý hành chính của UBND một số xã còn yếu, tùy tiện
và nặng về tập quán, thói quen... Việc ban hành các quyết định quản lý và áp dụng
pháp luật còn sai sót, chưa đúng thẩm quyền. Giải quyết một số vụ việc trong lĩnh
vực quản lý đất đai, tài chính... sai luật.
14
Hai là, quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục, y tế, an ninh trật tự, thu, chi ngân sách... còn bị động. Năng lực công tác,
tính chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ còn yếu.
Ba là, một số UBND xã có xu hướng đưa công việc thuộc nhiệm vụ của
UBND xã, phường, thị trấn đẩy xuống cho thôn làng, làm cho các trưởng thôn quá
tải công việc. Như: thu thuế, tuyên truyền phố biến pháp luật, văn hóa thông tin... là
một điển hình. Dẫn đến hiệu quả hoạt động và chất lượng công việc thấp; cũng như
không nắm kịp thời tâm tư nguyện vọng quần chúng.
Bốn là, một số quy trình, thủ tục hành chính còn rườm rà. Sự phối hợp chưa
chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan về giải quyết công việc ở một số lĩnh vực liên
quan đến thẩm quyền của nhiều cấp, ngành. Cơ chế một cửa liên thông thực hiện tại
các xã chưa nhiều. Một số cán bộ, công chức thoái hóa về lối sống, đạo đức khiến
có những quyết định hành chính hoặc hành vi sai sót, làm ảnh hưởng đến hoạt động
quản lý nhà nước.
Năm là, trong điều hành UBND cấp xã vẫn có hiện tượng chưa phân biệt:
việc nào tập thể UBND quyết định và việc nào Chủ tịch UBND quyết định, nên khó
khăn trở ngại khi thực hiện. Nhất là là khi sai phạm xảy ra khó xác định: lỗi thuộc
về Chủ tịch UBND/ Phó Chủ tịch UBND hay thuộc tập thể UBND. Hơn nữa, do
chức năng và thẩm quyền chưa phân định rõ, nên một số cán bộ, công chức UBND
cấp xã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cho cá nhân, gia đình, dòng họ.
Sáu là, vì khả năng và kỹ năng quản lý, điều hành yếu làm cho một số nơi
UBND cấp xã chưa kiểm soát tốt tình hình, để mặc thôn xóm tự đề ra hương ước,
quy chế trái luật như: cho rằng “phép vua thua lệ làng”, các hình thức xử phạt và
mức phạt tự đặt ra không đúng quy định (bằng thóc/ tiền). Mặt khác, việc giải quyết
công vụ còn chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ họ hàng, thân thích, làng xã, dẫn đến
nội bộ của UBND cấp xã một số nơi mất ổn định, bè phái, làm giảm hiệu quả điều
hành và mất lòng.
15
1.2. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với chính quyền cấp
xã trong lĩnh vực tổ chức, hoạt động của Mặt trận
1.2.1. Trong lĩnh vực tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức ở cấp trung ương và các đơn vị
hành chính cấp địa phương. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan chấp
hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận, có trách nhiệm tổ chức thực thi nhiệm vụ của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức cụ thể:
Ở trung ương gồm có: (1) Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
(2) Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (3) Ban Thường
trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Ở địa phương gồm có: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh; Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã.
Và ở từng cấp đều có Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
theo quy định của Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã thành lập Ban công tác Mặt
trận ở khu dân cư. Tổ chức và hoạt động của Ban công tác Mặt trận theo quy định
của Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.2.2. Trong lĩnh vực hoạt động của Mặt trân Tổ quốc Việt Nam
Ngày 18/11/1930 Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ra đời do Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo. Qua các thời kỳ
hoạt động cách mạng, Mặt trận không ngừng phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc
và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đây là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đoàn thể liên minh chính trị, liên hiệp dân chủ
tự nguyện của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai tầng xã hội, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, người Việt
định cư ở nước ngoài.
16
- Xem thêm -