TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA MẶT HÀNG LỤA TƠ TẰM VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện
: Vũ Lê Hà
Lớp
:
Khóa
:
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, 11/2006
MỤC LỤC
Lời mở đầu......................................................................................................... 3
Chương I : Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh................................ 5
I. Khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. ........................ 5
1. Khái niệm về cạnh tranh. .......................................................................... 5
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh. ............................................................ 7
II. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh. ....................................................... 8
1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia. ....................................................... 9
2. Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành. ......................................................... 10
3. Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp............................................... 11
4. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm. ......................................................... 14
III. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.......................... 15
1. Thị phần. ................................................................................................ 15
2. Chất lượng. ............................................................................................. 16
3. Giá cả. .................................................................................................... 17
4. Mẫu mã................................................................................................... 19
5. Thương hiệu. .......................................................................................... 19
Chương II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt
Nam .................................................................................................................. 23
I. Tình hình sản xuất mặt hàng lụa tơ tằm. ..................................................... 23
1. Khái quát về nghề tơ lụa truyền thống. ................................................... 23
2. Vai trò của nghề tơ lụa đối với Việt Nam................................................ 25
3. Quy trình sản xuất và cơ cấu mặt hàng. .................................................. 28
4. Tình hình sản xuất. ................................................................................. 30
II. Tình hình tiêu thụ .................................................................................... 34
1. Tình hình tiêu thụ ở thị trường trong nước. ............................................. 34
2. Tình hình xuất khẩu. ............................................................................... 36
III. Đánh giá năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam. .... 38
1. Chất lượng. ............................................................................................. 38
2. Giá. ......................................................................................................... 39
3. Kiểu dáng sản phẩm................................................................................ 40
4. Thương hiệu. .......................................................................................... 42
1
5. Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của mặt hàng. ............................ 44
Chương III. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt
hàng lụa tơ tằm Việt Nam ............................................................................... 46
I. Định hƣớng phát triển mặt hàng mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam .......... 46
1. Quan điểm của Đảng về phát triển làng nghề truyền thống. .................... 46
2. Kế hoạch phát triển ngành hàng đến năm 2010. ...................................... 47
II. Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ
tằm Việt Nam. .............................................................................................. 48
1. Đối với Nhà nước. .................................................................................. 49
2. Đối với Hiệp hội. .................................................................................... 54
3. Đối với doanh nghiệp. ............................................................................ 56
Kết luận............................................................................................................ 70
Phụ lục ............................................................................................................. 71
Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 84
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, hoạt động kinh tế
đối ngoại, đặc biệt là xuất khẩu của mỗi quốc gia, có vị trí ngày càng quan
trọng và ngày càng được mở rộng. Xu thế này ngoài những tác động tích cực
cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển, đòi hỏi mỗi nước
phải có những định hướng phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện, lợi
thế riêng của mình. Với truyền thống là một nước có thế mạnh về hàng nông
sản xuất khẩu, ngay từ những ngày đầu của công cuộc đổi mới, xuất khẩu
nông sản đã được quan tâm chú trọng phát triển.
Phát huy lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,
tạo ra những mặt hàng, những sản phẩm mũi nhọn, để hàng Việt Nam có thể
đáp ứng nhu cầu trong nước, cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, mở rộng
được thị phần ở thị trường nước ngoài, từ đó góp phần phát triển nền kinh tế
trong nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên để hội nhập thành công, Việt Nam cần phải có chiến lược
hội nhập chủ động, theo đó lợi ích quốc gia phải được đảm bảo phát triển ở
mức độ cao nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng
dần.
Trong những năm gần đây, ngành dệt may của Việt Nam có tốc độ tăng
trưởng khá cao, giá trị hàng dệt may xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh, từ 850
triệu USD năm 1995 lên 4,816 tỷ USD năm 2005. Đáng lẽ trong sự phát triển
nhanh chóng của ngành dệt may phải kể đến sự tham gia của mặt hàng tơ tằm
- một nghề truyền thống của Việt Nam, nhưng hiện nay, lụa tơ tằm của Việt
Nam tham gia xuất khẩu rất ít. Tại thị trường trong nước, lụa tơ tằm Việt Nam
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt bởi lụa ngoại nhập từ các nước như Trung
Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Xuất phát từ thực tế đó và với
mục đích góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm
3
Việt Nam, tôi xin lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Hy vọng với
đề tài này tôi có thể góp một phần sức mình vào quá trình phát triển ngành tơ
tằm nói riêng và nền kinh tế của đất nước nói chung trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm mục đích phân tích thực trạng năng lực
cạnh tranh của lụa tơ tằm Việt Nam ở thị trường trong và ngoài nước đồng
thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
lụa tơ tằm Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh
của mặt hàng lụa tơ tằm Việt Nam
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn - thu thập thông tin, số
liệu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, Internet.
Ngoài ra, đề tài còn dùng phương pháp duy vật biện chứng, phân tích kinh tế,
suy luận logic, tổng hợp thống kê, so sánh, đánh giá, phương pháp suy luận
quy nạp, diễn dịch để phục vụ mục đích nghiên cứu.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 phần như sau:
- Chương I: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh.
- Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng lụa tơ tằm
Việt Nam.
- Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt
hàng lụa tơ tằm Việt Nam.
4
Chƣơng I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH.
I. Khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
1. Khái niệm về cạnh tranh.
Từ lâu, khái niệm về cạnh tranh đã được các học giả của các trường
phái kinh tế khác nhau quan tâm. Các học giả thuộc trường phái tư sản cổ
điển cho rằng: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng.
Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt
động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với
khả năng của mình”. [3]
Theo từ điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992 thì cạnh tranh
được xem là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị
trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một
loại khách hàng về phía mình”. Đó là hoạt động tranh đua giữa nhiều người
sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh
tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản
xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã đề cập tới
vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C. Mác: “cạnh tranh tư bản là sự
ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu
ngạch”. Ở đây, C. Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế
độ tư hữu. Cạnh tranh được xem là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại.
Quan điểm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực. Ngày nay,
hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh vừa là môi trường,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.
5
Ở Việt Nam, đề cập đến "cạnh tranh" một số nhà khoa học cho rằng,
cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá - dịch vụ (mua và bán)
và đó là phương thức để dành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Nói khác
đi, mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể
kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố "đầu vào" của chu trình sản
xuất - kinh doanh và nâng cao giá của "đầu ra" sao cho mức chi phí thấp nhất,
giành được mức lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh
tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở
thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đồng thời
với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố
thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh
nghiệp. Và từ đó, cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các
chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào thải các
doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường, dẫn đến quá trình tập trung
hoá trong từng ngành, vùng, quốc gia ...
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng của cơ chế thị trường, là năng
lực phát triển của kinh tế thị trường. Sẽ không có kinh tế thị trường nếu không
có cạnh tranh. Một nền kinh tế thị trường cũng không thể nào phát triển tốt
đẹp nếu không có sự cạnh tranh. Độc quyền gây ra sự kém hiệu quả trong mọi
lĩnh vực và làm mất đi sự năng động của nền kinh tế. Trái lại, xét về lâu dài
và toàn cục, cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh) là động lực phát triển và nâng
cao năng suất, hiệu quả, sẽ dẫn đến sự tăng cường sản xuất, làm giảm giá
hàng, làm tăng chất lượng của sản phẩm, dịch vụ, tăng cường hiệu quả của sự
phân phối, góp phần vào tiến bộ kỹ thuật, tạo nên sự đổi mới và năng động
cho nền kinh tế. Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của doanh
nghiệp. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua:
ganh đua về giá cả, số lượng, dịch vụ, hoặc kết hợp các yếu tố này với các yếu
tố khác nữa để tác động tới khách hàng...
6
Xét theo hướng tiếp cận của đề tài này, tôi xin tổng hợp thành khái
niệm “cạnh tranh” như sau :
Cạnh tranh là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ
được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao.
2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
Trong quá trình các chủ thể cạnh tranh với nhau, để giành lợi thế về
phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì
và phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một
sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể,
được gọi là năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ sức mạnh, một
khả năng duy trì được vị trí của một hàng hoá nào đó trên thị trường (hàng
hoá này phải thuộc một doanh nghiệp nào đó, một quốc gia nào đó) thì người
ta cũng dùng thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hoá” hoặc “năng lực cạnh
tranh của hàng hoá”... đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó đối với
khách hàng. Như vậy, hiện nay vẫn có nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ năng
lực cạnh tranh.
Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng trong lý thuyết tổ chức các
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực
cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác,
khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức
giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự
với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn
chung, khi xác định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần
xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở
mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả
doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của
7
các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu
nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.” Định nghĩa này theo tôi là
phù hợp và phản ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ
gắn kết với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu
nhập và mức sống nhân dân.
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive
Power; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng giành được thị phần lớn
trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một
phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp [4]. Theo định nghĩa này, tôi xin
thống nhất bốn thuật ngữ hiện đang được sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức
cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự
nhau và hiểu tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực
cạnh tranh".
II. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
- Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương
quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và
đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm cần thiết
phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh
nêu trên.
Một mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nước
tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh
8
tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và
của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc
gia thể hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước
(đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam kết về
hợp tác kinh tế quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và
của sản phẩm hàng hoá trong uốc gia đó.
1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia.
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 1997 đã nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là
năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng
cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng
kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây
dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả
các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường
cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu
tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các
tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh
thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải
thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả,
sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế ... có
8 yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:
- Độ mở cửa kinh tế
- Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt
động cạnh tranh
9
- Tài chính ngân hàng
- Công nghệ: là mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D); trình độ
công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
- Cơ sở hạ tầng
- Hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung
- Lao động: là số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của
thị trường lao động
- Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho nền
kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật pháp và
quyền sở hữu.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba
nhóm lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa
học công nghệ; tài chính; quốc tế hoá.
2. Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum):
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của một ngành là khả năng một chủ
thể tạo ra và duy trì được lợi nhuận và thị phần tại các thị trường ngoài nước
tại đó có nhiều chủ thể khác cùng tham gia kinh doanh ngành hàng đó thông
qua việc tận dụng cũng như một số nhân tố đặc trưng khác của ngành.
Có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành thông qua các yếu tố sau:
- Khả năng khai thác các lợi thế so sánh của ngành
- Trình độ công nghệ của ngành.
- Trình độ, tác phong làm việc và mức độ linh hoạt của đội ngũ nhân lực làm
việc trong ngành.
10
- Hiệu quả sản xuất của ngành: được đo bằng yếu tố đầu vào cần thiết (chi
phí) để tạo ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận).
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm do ngành đó tạo ra so với năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh cùng ngành trên
thị trường trong và ngoài nước.
3. Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực tồn tại, duy trì hay
gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường cạnh tranh của các sản phẩm và
dịch vụ của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp là khả năng quản trị
chiến lược tạo ra lợi thế cạnh tranh, duy trì hay gia tăng lợi nhuận, thị phần
trong xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, đảm bảo tồn tại và
phát triển bền vững trên thị trường cạnh tranh quốc tế mà không phải trợ cấp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên 4 yếu tố cơ bản:
sản phẩm, lao động, vốn, công nghệ.
Sản phẩm: Nắm vai trò quan trọng, vừa là đối tượng, vừa là công cụ
phương tiện chính để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Có thể
nói, sản phẩm là cầu nối đầu tiên giúp doanh nghiệp giao tiếp với khách hàng.
Ngày nay, sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng thì
mới có thể tiêu thụ và kiếm được lợi nhuận, bởi vì xét cho cùng khách hàng
chính là những người quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp. Giờ đây,
người ta không bán cái mình có mà bán cái khách hàng muốn. Một doanh
nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt phải thể hiện ở sản phẩm của doanh nghiệp
được tiêu thụ nhiều, mang lại doanh thu lớn, lợi nhuận cao và ổn định. Để đạt
được mục tiêu đó, họ luôn luôn phải tìm cách kéo dài vòng đời sản phẩm.
Vòng đời sản phẩm là khoảng thời gian tồn tại của sản phẩm trên thị trường
kể từ khi sản phẩm đó được thương mại hoá cho đến khi bị đào thải khỏi thị
trường [9]. Nhìn chung các sản phẩm được cung cấp ra thị trường không tồn
11
tại được mãi. Vòng đời của mỗi sản phẩm cụ thể dài hay ngắn cũng rất khác
nhau. Có sản phẩm tồn tại hàng thế kỷ như rượu vang Pháp hay nước ngọt
Coca-Cola của Mỹ. Các yếu tố ảnh hưởng đến vòng đời sản phẩm là: nhu cầu
của người tiêu dùng, bản thân sản phẩm đó và các yếu tố môi trường (như
công nghệ hay các sản phẩm thay thế). Trong đó, công dụng và chất lượng
của chính sản phẩm là yếu tố cơ bản nhất của sản phẩm trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt hiện nay, quyết định sự tồn tại hay tiêu vong của chính sản
phẩm đó.
Lao động: Nhiều nhà kinh tế cho rằng lao động là yếu tố quyết định
hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi hoạt động sản xuất
kinh doanh diễn ra là do con người và vì con người. Hơn thế học thuyết về giá
trị thặng dư của C.Mác đã làm rõ và khẳng định giá trị thặng dư có được là do
lao động sống (con người) tạo ra trong quá trình lao động. Trong doanh
nghiệp,để đánh giá khả năng cạnh tranh trên phương diện lao động, có thể
xem xét đến trình độ, khả năng nghiệp vụ của nhân viên nhưng thước đo cuối
cùng chuẩn xác hơn cả vẫn là năng suất lao động. Đó là khả năng thực hiện
khối lượng công việc trong một đơn vị thời gian, hay nói khác đi trong cùng
một thời gian lao động đó thực hiện được bao nhiêu công việc (ở dạng hiện
vật hoặc giá trị bằng tiền). Năng suất lao động thường được quy về dạng
doanh số bán/ một lao động. Thước đo năng suất lao động của nhân công rất
có ý nghĩa trong hoạt động quản trị doanh nghiệp. Nó là cơ sở để thực hiện
các chế độ đãi ngộ với người làm công, đồng thời là cách thức chủ yếu để
doanh nghiệp thực hiện giảm giá thành nâng cao khả năng cạnh tranh với đối
thủ, phục vụ tốt hơn cho khách hàng. Do vậy, lao động là một vấn đề quan
trọng của doanh nghiệp nhưng cũng đầy phức tạp. Việc đánh giá, phân tích nó
không chỉ dừng ở mặt lượng mà phải quan tâm, chú trọng vào mặt chất.
Vốn: Từ xưa, giới kinh doanh đã ý thức được tầm quan trọng của vốn
đối với hoạt động kinh doanh : “buôn tài không bằng dài vốn” hay Tư bản vẫn
thường nói : “Vốn sinh ra lời”. Điều đó cho thấy vốn ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp như thế nào. Không một doanh nghiệp nào có
12
thể bắt đầu quá trình kinh doanh mà không cần đến nguồn vốn. Vốn ở đây có
thể hiểu là tiền mặt và các hiện vật có khả năng chuyển đổi thành tiền. Cũng
như lao động, đồng vốn trong doanh nghiệp được xem là cạnh tranh cao chỉ
khi nó đạt được hiệu suất cao (một đồng vốn đầu tư sẽ mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận) đồng thời quy mô vốn phải đủ mạnh. Nguồn vốn càng lớn,
doanh nghiệp càng có cơ sở vững chắc tiến hành hoạt động kinh doanh. Tất
nhiên, nguồn vốn (cũng như các nhân tố khác xét một cách riêng lẻ) chưa thể
đảm bảo khả năng cạnh tranh tuyệt đối của doanh nghiệp trước các đối thủ
trên thương trường. Vì khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp được quyết
định bằng tổng hoà tất cả các yếu tố. Nhưng nguồn vốn lớn có thể giúp doanh
nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh và tiến hành các hoạt động khác một cách
thuận lợi, đồng thời giảm thiểu nhiều rủi ro. Nguồn vốn cũng thể hiện quy mô
của doanh nghiệp. Thông thường, doanh nghiệp có quy mô lớn bao giờ cũng
tạo được niềm tin từ phía khách hàng. Và chính điều đó cũng thể hiện khả
năng cạnh tranh của họ.
Công nghệ: Là tập hợp các tri thức phương pháp quy trình, kỹ năng và
kỹ xảo được sử dụng trong quá trình tác động vào đối tượng lao động nhằm
tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần phục vụ cho nhu cầu của đời sống con
người. Nói cách khác, công nghệ chính là tập hợp các phương pháp nhằm tổ
chức hoạt động cung ứng sản phẩm cho khách hàng dựa trên kỹ năng kỹ xảo
và cơ sở hạ tầng, thiết bị đang có và sẽ có của một doanh nghiệp.
Yếu tố công nghệ thể hiện khả năng cạnh tranh không chỉ ở mức độ
tiên tiến hiện đại của dây chuyền tổ chức mà còn ở tính thích ứng hợp lý của
nó với các yếu tố khác (nhất là con người). Bởi suy đến cùng thì mọi hoạt
động đầu tư đều phải tính đến hiệu quả. Công nghệ kinh doanh của một doanh
nghiệp ngoài cấu trúc tổ chức nhân sự ra còn phải kể tới phương thức, hình
thức tổ chức sắp xếp giao dịch và bán sản phẩm. Doanh nghiệp chỉ có khả
năng cạnh tranh được với đối thủ khi họ áp dụng công nghệ phù hợp với hoạt
động, đối tượng của mình.
13
4 yếu tố trên không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ, cùng tác
động, ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Vì thế, cần phải biết kết hợp các yếu tố
này một cách hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh. Mối quan hệ giữa
chúng có thể thể hiện qua sơ đồ sau:
Lao động
Vốn
NLCT của DN
Sản phẩm
Công nghệ
(Sơ đồ : Mối quan hệ 4 nhân tố đến năng lực cạnh tranh một doanh nghiệp)
4. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những
sản phẩm hàng hoá cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không
có những năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có
quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng
lực cạnh tranh của chủ thể (doanh nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.
Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và
thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
14
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng hoá, có thể dựa vào các yếu
tố như thị phần, chất lượng, giá cả, mẫu mã và thương hiệu của sản phẩm.
Các yếu tố này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần III.
III. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ nào
đó trên thị trường trong nước và quốc tế là sự thể hiện tính ưu việt hay tính
hơn hẳn của nó cả về định tính và định lượng với các chỉ tiêu như: thị phần,
chất lượng, giá cả, mẫu mã và thương hiệu.
1. Thị phần.
Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp chiếm
lĩnh. Cũng có định nghĩa cho rằng thị phần là phần lượng cầu của thị trường
đối với hàng hoá của doanh nghiệp trong dung lượng thị trường.
Ở đây cần chú ý đến thuật ngữ “lượng cầu”. Lượng cầu của thị trường
hay còn gọi là dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá có thể bán được
trên một phạm vi thị trường và trong một thời gian xác định, thường tính là
một năm. Xác định lượng cầu của một hàng hoá nào đó chính là việc xác định
quy mô của thị trường và là cơ sở cho việc đánh giá khả năng bán hàng của
doanh nghiệp. Dung lượng thị trường có thể được thể hiện bằng hiện vật hoặc
bằng giá trị. Ví dụ, dung lượng thị trường ô tô ở Hoa Kì là 10 triệu chiếc hay
50 tỉ đô la. Dung lượng thị trường ở Chicago bằng 3% nhu cầu thị trường nội
địa Hoa Kỳ. Dung lượng thị trường có thể tính cho toàn bộ thị trường hoặc
từng đoạn thị trường. Ví dụ, những nhà sản xuất thép có thể đánh giá dung
lượng thị trường thép dựa trên khối lượng cung cấp cho toàn bộ các ngành
kinh tế, hoặc có thể là đánh giá dung lượng riêng ở ngành chế tạo ô tô. Dung
lượng thị trường không phải là một hằng số, nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố như : nhân khẩu, kinh tế, công nghệ, văn hoá xã hội và những nỗ lực
Marketing. Để đánh giá được dung lượng thị trường của một mặt hàng nào đó
cần phải phát hiện tất cả các mặt hàng cùng loại bán trên thị trường và đánh
giá khối lượng bán ra của từng mặt hàng đó và có tính đến ảnh hưởng của các
yếu tố ở thời kỳ hiện tại và tương lai.
15
Ngày nay, thị phần có vai trò vô cùng quan trọng đối với một doanh
nghiệp. Cuộc chiến tranh giành thị phần giữa các doanh nghiệp với nhau cũng
ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Chính điều này tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển đa dạng và người tiêu dùng được lợi do sử dụng sản
phẩm là kết quả của những cuộc chiến tranh giành thị phần đó.
Về mặt định tính, thị phần bằng doanh số bán của doanh nghiệp chia
cho tổng doanh số của thị trường, hoặc số sản phẩm bán ra của doanh nghiệp
chia cho tổng sổ sản phẩm tiêu thụ của thị trường.
Mục tiêu doanh số có liên quan mật thiết đến mục tiêu thị phần. Doanh
số cho biết kết quả bán hàng của doanh nghiệp ở thị trường đang hoạt động,
còn thị phần nói rõ phần sản phẩm tiêu thụ của riêng doanh nghiệp so với
tổng sản phẩm tiêu thụ ở thị trường. Người ta luôn luôn phải chú ý xem xét
thị phần tương đối, chính là tỉ lệ phần doanh số của doanh nghiệp trên phần
doanh số của đối thủ, hoặc số sản phẩm bán ra của doanh nghiệp trên số sản
phẩm bán ra của đối thủ. Nếu hệ số trên của thị phần tương đối lớn hơn 1 thì
lợi thế cạnh tranh thuộc về doanh nghiệp, ngược lại nếu nhỏ hơn 1 thì lợi thế
cạnh tranh thuộc về đối thủ, nếu bằng 1 thì lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp tương đương với đối thủ. Hai mục tiêu doanh số và thị phần còn được
coi là những mục tiêu tạo lợi thế cạnh tranh hay mục tiêu thế lực. Một khi
doanh số và thị phần của doanh nghiệp vượt đối thủ, doanh nghiệp có khả
năng chi phối quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi doanh số và thị phần càng
vượt xa đối thủ, doanh nghiệp càng có nhiều lợi thế trong cuộc cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường và thao túng giá cả.
2. Chất lƣợng.
Có thể nói ngày nay chất lượng là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng
đến năng lực cạnh tranh của một sản phẩm hàng hoá. Chất lượng của một sản
phẩm bị chi phối bởi rất nhiều nhân tố, trong đó có thể kể đến các yếu tố đầu
vào (nguyên liệu, phụ liệu); trình độ máy móc thiết bị; trình độ, tay nghề của
đội ngũ nhân công. Một sản phẩm được coi là có chất lượng tốt không chỉ khi
nó kết hợp được các nhân tố trên mà quan trọng là nó phải thoả mãn được thị
16
hiếu tiêu dùng của khách hàng. Chất lượng của sản phẩm càng cao thì vòng
đời sản phẩm càng lớn hay nói cách khác là khoảng thời gian nó tồn tại trên
thị trường càng lâu.
Vì thế muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải chú ý đến
những yếu tố này. Ví dụ như tìm được nguồn đầu vào đảm bảo chất lượng,
nâng cao trình độ máy móc thiết bị và trình độ tay nghề của lực lượng nhân
công. Tuy nhiên, đầu tư về thiết bị đòi hỏi phải mất rất nhiều thời gian, công
sức và tổn hao về năng lực tài chính. Nó có thể làm đội giá thành sản phẩm
lên khá cao. Đặc biệt với những nước đang phát triển thì đây là một nhân tố
khó thực hiện. Vì thế nhiều doanh nghiệp cố gắng nâng cao chất lượng sản
phẩm bằng cách cải thiện các yếu tố khác.
3. Giá cả.
Giá cả của sản phẩm là một trong những nhân tố quan trọng quyết định
thành công của doanh nghiệp đó trên thị trường, hay nói cách khác là nó ảnh
hưởng tương đối lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá. Vì thế,
ngày nay tất cả các doanh nghiệp đều cố gắng tìm mọi cách hạ giá thành sản
phẩm đến mức hợp lý nhất sao cho đáp ứng được khả năng chi trả của khách
hàng mà vẫn đảm bảo lợi nhuận cho mình. Tuỳ từng thời điểm xuất hiện trên
thị trường, tính chất của loại hàng hoá và chiến lược kinh doanh mà doanh
nghiệp đưa ra các chính sách giá khác nhau.
Giá cả của sản phẩm bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như nguyên vật
liệu đầu vào, chi phí vận chuyển, xếp dỡ, kho bãi, nhà xưởng, khấu hao máy
móc thiết bị, lương nhân công, và các chi phí hoạt động khác. Hơn nữa, kênh
phân phối càng lớn thì chi phí của sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối
cùng càng cao.
Ngoài các yếu tố cấu thành nên sản phẩm thì giá cả còn bị chi phối bởi
mục đích của các nhà kinh doanh. Ví dụ như chính sách giá nhằm mục tiêu
đảm bảo lợi nhuận, mục tiêu doanh số, mục tiêu thị phần và các mục tiêu tình
thế trong kinh doanh. Đối với một sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường,
doanh nghiệp có thể sử dụng “Chính sách giá hớt váng” hoặc “Chính sách giá
17
tấn công”. Chính sách giá hớt váng tức là doanh nghiệp định giá cao tối đa
ngay từ đầu nhằm thực hiện mục tiêu lợi nhuận. Điều kiện để thực hiện chính
sách này là:
- Sản phẩm phải có khả năng cạnh tranh áp đảo
- Sản phẩm phải độc đáo, có ưu việt hơn hẳn
- Sản phẩm có kết cấu phức tạp, khó bắt chước
- Sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao
- Sản phẩm do độc quyền bằng phát minh sáng chế.
Chính sách giá tấn công tức là doanh nghiệp định mức giá thấp nhằm
tăng nhanh chóng doanh số, chiếm thị phần lớn. Chính sách này được thực
hiện khi:
- Sản phẩm có kết cấu đơn giản, dễ bắt chước
- Khi thị trường xuất hiện đối thủ
- Khi cần tăng cường thế lực, củng cố và mở rộng thị trường.
Khi đã thâm nhập vào thị trường thành công, căn cứ vào mức doanh số
và mục tiêu của chính sách giá cả, doanh nghiệp có thể nâng giá sản phẩm lên
cao hơn mức giá ban đầu.
Việc định giá sản phẩm cần được tiến hành dựa trên cơ sở phân tích mức
giá thị trường và mức giá của đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, mỗi giai đoạn
khác nhau trong vòng đời sản phẩm lại nên áp dụng một mức giá khác nhau
cho phù hợp.
Ngày nay, tuy giá cả sản phẩm không quyết định hoàn toàn năng lực
cạnh tranh của sản phẩm nhưng nó vẫn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Vì thế, doanh nghiệp cần
phải tiết kiệm các nguồn lực đầu vào, sử dụng hợp lý các nhân tố khác trong
quá trình kinh doanh và có chiến lược định giá phù hợp để đưa ra được mức
giá tối ưu.
18
4. Mẫu mã.
Mẫu mã của sản phẩm là hình thức bên ngoài của sản phẩm đó. Nó
được thể hiện bởi các yếu tố như hình dáng, màu sắc, kích thước,.... của sản
phẩm. Càng ngày mẫu mã sản phẩm càng có vai trò lớn hơn trong quyết định
mua hàng của người tiêu dùng, do đó, nó cũng tác động đến năng lực cạnh
tranh của sản phẩm. Mẫu mã phải mang tính thẩm mỹ cao, đánh thức trí tò mò
và tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Đặc biệt, đối với những sản phẩm mang
tính thời trang như quần áo, giầy dép, túi xách, thì mẫu mã là vô cùng quan
trọng. Bởi vì những mặt hàng này có tính thời vụ và bị ảnh hưởng rất lớn của
xu hướng thời trang trong nước cũng như quốc tế. Cho nên những nhà kinh
doanh mặt hàng thời trang phải hết sức chú ý đến nhân tố này để nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Tuỳ từng loại hình sản phẩm và mục tiêu kinh doanh mà doanh
nghiệp quyết định có nên thay đổi mẫu mã thường xuyên hay không. Đối với
một số loại sản phẩm thì việc thay đổi mẫu mã thường xuyên sẽ tạo cảm giác
mới mẻ đối với người tiêu dùng, đặc biệt là hàng thời trang hay các sản
phẩm tiêu dùng khác. Tuy nhiên, đối với một số loại sản phẩm thì việc thay
đổi mẫu mã sẽ tạo tâm lý bất an cho khách hàng hoặc làm thay đổi các giá trị
truyền thống của sản phẩm hay của công ty. Vì thế mà có những sản phẩm
từ khi xuất hiện trên thị trường đã không hề thay đổi mẫu mã hoặc chỉ thay
đổi rất ít. Trường hợp này thường xảy ra đối với những doanh nghiệp lớn mà
sản phẩm của họ đã trở nên quen thuộc đối với khách hàng, ví dụ như sản
phẩm Coca-cola hay Pepsi.
5. Thƣơng hiệu.
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, “thương hiệu” là một
cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp
tất cả các yếu tố kể trên nhằm xác định một sản phẩm hay dịch vụ của một
(hay một nhóm) người bán nhằm phân biệt các sản phẩm (dịch vụ) đó với các
đối thủ cạnh tranh.
19
- Xem thêm -