Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp nhằm nâng cao khảnăng thắng thầu của công ty công trình giao th...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao khảnăng thắng thầu của công ty công trình giao thông 208

.PDF
100
86
78

Mô tả:

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của Công ty công trình giao thông 208 Lời mở đầu Thuật ngữ “đấu thầu” đã trở nên quen thuộc trong những năm gần đây ở Việt Nam mặc dù nó đã được xuất hiện từ lâu trên thế giới. Trước đây, khi nền kinh tế còn ở bao cấp, người sản xuất và bán những gì mình có và không quan tâm đến nhu cầu của người mua, do đó người mua không có quyền lựa chọn cho mình những hàng hoá phù hợp. Chỉ đến khi chuyển dần sang kinh tế thị trường thì tính cạnh tranh xuất hiện, khái niệm đấu thầu cũng dần dần hình thành và được chấp nhận như một điều tất yếu. Trong xây dựng có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm, song để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, việc thắng thầu là rất quan trọng đối với các công ty. Hiện nay, Công ty Công trình giao thông 208 đã nhận thức được vai trò to lớn của đấu thầu. Trong quá tình tham dự đấu thầu các công trình, công ty đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, song bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại ảnh hưởng đến kết quả đấu thầu của công ty. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của Công ty công trình giao thông 208” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn đóng góp kiến nhỏ vào quá trình hoàn thiện hoạt động đấu thầu của Công ty. Nội dung của luận văn gồm 3 phần: - Chương I: Tổng quan chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp. - Chương II: Thực trạng đấu thầu xây lắp ở công ty Công trình giao thông 208 giai đoạn 2000 - 2003. - Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của công ty. Chương I Tổng quan chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp I. Tổng quan chung về đấu thầu. 1. Sự ra đời và phát triển của hoạt động đấu thầu. Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hoá, dịch vụ trong đời sống xã hội loài người. Nó ra đời và phát triển cùng với phương thức sản xuất phát triển dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và các cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự ra đời của CNTB độc quyền và CNTB nhà nước vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu tự do cạnh tranh mà làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Nhà nước tư bản vừa là người đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản và vừa là người điều tiết quá trình sản xuất, vừa là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu Khoa học - thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục tiêu phát triển kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế. Ngoài ra, nhà nước còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, phát triển các ngành kinh tế cần thiết cho xã hội, nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp, lâu hoàn vốn, những mua sắm chi tiêu của Chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức kinh tế tài chính. Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên ở hầu hết các nước tư bản đều có những luật mua sắm công dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động đấu thầu đã xuất hiện rất sớm nhưng luật lệ liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và đã xuất hiện đầu tiên ở Anh. Khi Hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế (FIDIC) thành lập thì quy trình đấu thầu ngày càng được hoàn thiện dần. Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy các quy định về đấu thầu ở các tổ chức quốc tế và ở các quốc gia khắp trên thế giới. Riêng ở Việt Nam thì sự hình thành của quy chế đấu thầu như sau: - 12/2/1990 có quy chế đấu thầu trong xây dựng do Bộ xây dựng ban hành. - 13/11/1992 có quy định về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. - 3/1994 Bộ xây dựng ban hành quy chế đấu thầu xây lắp. - 16/4/1994 Quy chế đấu thầu đầu tiên của Việt Nam đã được ban hành (tư vấn, công trình xây lắp, máy móc thiết bị, đấu thầu dự án). - 7/1996 quy chế này được sửa đổi, bổ sung (đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị thành đấu thầu mua sắm hàng hoá, đấu thầu dự án thành đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án). - 1/9/1999 quy chế được sửa đổi lần 2 và gắn liền với nó là NĐ 88/1999. - 05/5/2000 quy chế đấu thầu tiếp tục được bổ sung, hoàn chỉnh và NĐ 14/2000 đã ra đời. - 12/6/2003 NĐ 66/2003 đã ra đời và là nghị định mới nhất hiện nay. - Hiện nay, quy chế đấu thầu được thực hiện trên cơ sở lồng ghép 3 nghị định: NĐ 88/1999, NĐ 14/2000, NĐ 66/2003. 2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đấu thầu. a. Khái niệm. - Năm 1995, trong từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện để xây dựng công trình (người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn. - Năm 1998, trong từ điển tiếng Việt định nghĩa: Đấu thầu là đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc bán. - Quy chế đấu thầu hiện nay định nghĩa như sau: Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của Bên mời thầu. ở đây bên mua còn gọi là Bên mời thầu, bên bán còn gọi là các nhà thầu. Bên mua sẽ cung cấp cho bên bán những yêu cầu (trong Hồ sơ mời thầu). Sau một thời gian cụ thể, bên bán phải trả lời người mua, bên bán phải nộp cho người mua bản chào hàng. Tất cả những điều đó được thể hiện trong Hồ sơ dự thầu hay là đề xuất dự thầu. Nguồn vốn là cơ sở để thực hiện đấu thầu. Đó có thể là nguồn vốn của nhà nước hoặc do nhà nước quản lý. Đối với doanh nghiệp tư nhân, tuỳ chủ đầu tư quyết định, còn đối với doanh nghiệp nhà nước một phần nào đó phải thực hiện theo quy định. Hoạt động đấu thầu này mang tính bắt buộc tuỳ theo tính chất của nguồn vốn và phụ thuộc vào môi trường luật pháp. b. Đặc điểm của hoạt động đấu thầu. Mỗi phương thức giao dịch trên thị trường đều có các đặc điểm riêng khác nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trưng của chúng, quyết định đến quy trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có liên quan. Vì vậy, việc nghiên cứu phát triển các đặc điểm riêng này một cách thấu đáo là một công việc không thể thiếu được của những người tham gia đấu thầu. Hoạt động đấu thầu có một số đặc điểm sau đây: * Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán: Người mua trên thị trường phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan, các chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây dựng công trình thường. Nhưng cũng có những trường hợp người mua thiếu vốn phải đi vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. Do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để từ đó lựa chọn được người bán thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối ưu nhất. Ngược lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá, dịch vụ được tự do cạnh tranh với nhau để giành quyền cung cấp và kết quả của sự cạnh tranh đó đã làm cho giá cả tiến gần lại với giá thực trên thị trường, điều mà bất cứ người mua nào cũng mong đợi. * Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước: Mặc dù được tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhưng các nhà thầu phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mời thầu đã quy định trước. Hay nói một cách khác, người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra những điều kiện ràng buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các điều kiện tài chính, các điều kiện kỹ thuật thường được thể hiện trong Hồ sơ mời thầu. Các nhà thầu một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra mới mong có hy vọng trúng thầu, cá biệt có những trường hợp các nhà thầu đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng vì không tìm được đối tác liên doanh, liên kết nên đã không giành được hợp đồng. Và cũng có những nhà thầu không tìm được nhà thầu theo quy định nên cũng không trúng thầu. Chính vì những lý do nói trên trong đấu thầu thì thị trường thuộc về phía mời thầu, họ “vừa là người bị động, vừa là người chủ động” là như vậy. * Tính đặc biệt của đấu thầu còn thể hiện trong việc xác định thời gian và địa điểm mở thầu và những vấn đề khác có liên quan. Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy ước tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ được xác định cụ thể trong Hồ sơ mời thầu. Khi mở thầu các nhà thầu thường phải có mặt nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã được chuẩn bị trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của Hồ sơ dự thầu. * Trong đấu thầu ngoài Bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự hiện diện của người thứ ba, đó là người tư vấn. FIDIC, WB, ADB đều cho rằng “kỹ sư tư vấn” là người đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông đồng thoả hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy người kỹ sư tư vấn phải có trình độ, năng lực chuyên môn để giúp chủ dự án giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể chia thành: - Làm báo cáo trước khi đầu tư. - Các dịch vụ chuẩn bị để xác định và thực hiện dự án. - Các dịch vụ giám sát, quản lý dự án. - Giúp đỡ kỹ thuật (dịch vụ cố vấn, phát triển và lập kế hoạch, xây dựng, tổ chức, đào tạo). Tuỳ theo công trình dự án, Bên mời thầu thuê một hoặc một số loại hình dịch vụ thích hợp. Muốn thuê đúng loại hình dịch vụ, Bên mời thầu thường tìm đến các công ty tư vấn bằng giao dịch trực tiếp hay thông qua đấu thầu. Các thông tin quan trọng về công ty tư vấn chúng ta có thể tìm thấy tài liệu của ngân hàng về công ty tư vấn hoặc là các nguồn khác có liên quan. 3. Các nguyên tắc đấu thầu và các loại hình đấu thầu. a. Các nguyên tắc đấu thầu. - Nguyên tắc hiệu quả về tài chính và hiệu quả về thời gian. - Nguyên tắc cạnh tranh: nguyên tắc cạnh tranh tạo điều kiện cho các nhà thầu cạnh tranh với nhau ở phạm vi rộng nhất có thể. - Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này đảm bảo đối xử như nhau đối với các nhà thầu tham gia dự thầu. - Nguyên tắc minh bạch: đây là nguyên tắc quan trọng nhất nhưng khó thực hiện và khó kiểm tra nhất. Nguyên tắc này nói rằng: trong quá trình thực hiện đấu thầu thì các hoạt động diễn ra không được gây nghi ngờ cho các nhà thầu, Bên mời thầu và cơ quan quản lý. b. Các loại hình đấu thầu. * Đấu thầu tuyển chọn tư vấn: “Tư vấn” là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn do Bên mời thầu trong việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án (sản phẩm của họ là chất xám). Đấu thầu tuyển chọn tư vấn gồm 3 giai đoạn: - Chuẩn bị đầu tư: trong giai đoạn này nhà tư vấn có thể thực hiện các công việc sau: lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi; đánh giá báo cáo nghiên cứu khả thi; lập dự toán (tổng dự toán), đánh giá dự toán (hoặc tổng dự toán). - Thực hiện đầu tư: nhà tư vấn phải lập Hồ sơ mời thầu cho các phần công việc của dự án; giám sát thi công công trình, giám sát cung cấp hàng hoá; có thể thực hiện những công việc như kiểm tra chất lượng công trình, kiểm tra chất lượng hàng hoá; luôn luôn phải đi kèm việc xây lắp công trình với việc đánh giá tác động tới môi trường; quản lý, điều hành các hoạt động của dự án; tư vấn về tài chính, thu xếp các khoản vay. - Vận hành kết quả đầu tư: các công việc mà tư vấn phải làm là đào tạo nhân sự; kiểm tra chất lượng sản phẩm, đánh giá sự tiêu thụ sản phẩm trên thị trường (nghiên cứu thị trường); xử lý ảnh hưởng tới môi trường; báo cáo kết quả của việc thực hiện dự án đầu tư, chuẩn bị những giấy tờ, thông tin cần thiết cho việc thanh lý dự án. * Đấu thầu xây lắp: là công việc có liên quan đến xây dựng công trình, hạng mục công trình; lắp đặt hệ thống điện, nước của các công trình hoặc hạng mục công trình. Nhà thầu xây lắp là những người quyết định chính đối với dự án. * Đấu thầu mua sắm hàng hoá và các dịch vụ khác: - Hàng hoá bao gồm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, nguyên vật liệu... là những thứ có thể cân, đong, đo, đếm. Bên cạnh đó còn có những thứ không thể cân, đong, đo, đếm được như nhãn mác hàng hoá, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghệ. - Dịch vụ như: bảo hiểm, sửa chữa và bảo dưỡng máy bay. 4. Các phương thức đấu thầu. a. Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp Hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Bao giờ người ta cũng đánh giá đề xuất kỹ thuật trước, đề xuất tài chính sau. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn hầu như không áp dụng phương thức này. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn có một số trường hợp áp dụng. Phương thức này còn được áp dụng đối với những công trình xây lắp hoặc mua sắm máy móc thiết bị không yêu cầu kỹ thuật phức tạp. Trong phương thức này giá cả của các nhà thầu đều được Bên mời thầu nắm bắt và các nhà thầu cũng nắm bắt được thông tin này. b. Đấu thầu hai túi hồ sơ : Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng và có thể nộp cùng một lúc trước khi đóng thầu.Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Hoặc các nhà thầu có thể nộp đề xuất kỹ thuật trước. Sau đó nếu ai đạt yêu cầu thì mới phải nộp đề xuất về kỹ thuật. Đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính nộp cùng lúc hay không nộp cùng lúc là do Bên mời thầu quy định trong Hồ sơ mời thầu. Khác với phương thức đấu thầu một túi hồ sơ, phương thức này chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn và đề xuất về tài chính của những nhà thầu không đạt yêu cầu về kỹ thuật được giữ bí mật. Ưu điểm của phương thức này là Bên mời thầu không bị phân tán về giá cả trong quá trình đánh giá về đề xuất kỹ thuật. c. Đấu thầu hai giai đoạn: Đặc điểm của phương thức này là ở giai đoạn đầu tiên, bên mời thầu yêu cầu các nhà thầu nộp cho một đề xuất về kỹ thuật (có thể sơ bộ chưa cần cụ thể lắm) và chưa cần đề xuất về tài chính. Sau đó, Bên mời thầu cùng làm việc với các nhà thầu xem các đề xuất kỹ thuật còn những gì chưa đạt yêu cầu, những thông tin cần bổ sung (Bên mời thầu làm việc với từng nhà thầu). ở giai đoạn hai, đối với những nhà thầu mà đề xuất kỹ thuật còn thiếu sót nhưng có thể sửa chữa được thì Bên mời thầu yêu cầu nhà thầu về tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Sau đó nộp cùng với đề xuất về tài chính trong cùng một túi hồ sơ (đề xuất tài chính không có giá). Phương thức đấu thầu này áp dụng cho những trường hợp sau: - Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng trở lên; - Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp; - Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay (nhà thầu phải làm từ khâu thiết kế, xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị, sau khi làm xong mới bàn giao cho Bên mời thầu), một số dự án ở dạng BOT, BTO, BT Quá trình thực hiện phương thức này như sau: * Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp Hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để Bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình; * Giai đoạn thứ hai : Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp Hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. 5. Tác dụng của đấu thầu. Đấu thầu trong thời gian qua đã chứng minh được sức sống tiềm tàng vốn có. Trong tương lai đấu thầu sẽ còn được sử dụng rộng rãi hơn. Thị trường đấu thầu là nơi diễn ra sự mua bán hàng hoá, dịch vụ, là sự tổng hợp các mối quan hệ, các thành viên tham gia vào thị trường này đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình. Nhà cung cấp thường tìm cách bán hàng với giá cao, nhằm thu về khoản lợi nhuận tối đa có thể được. Ngược lại, người mua (chủ đầu tư) với số tiền có hạn lại mong muốn thu được sự thoả mãn lớn nhất về sản phẩm với giá cả hợp lý. Đấu thầu xét về mặt kinh tế, xã hội đều có lợi cho các bên liên quan. a. Đối với Bên mời thầu: Bên mời thầu thường là các cơ quan hành chính, các công ty không am hiểu thị trường, không có kinh nghiệm mua bán, vì vậy họ sử dụng đấu thầu như một phương thức mua bán có hiệu quả nhất. Thị trường đấu thầu là thị trường thuộc về phía người mua hàng. Trên thị trường này chỉ có một người mua nhưng có nhiều người bán. Trong trường hợp đó, người mua do nắm chắc được nhu cầu, điều đó cũng có nghĩa là họ nắm chắc được mối quan hệ giữa số lượng, chất lượng, và giá cả nên đã tìm mọi cách để hướng tới sự tối đa hoá lợi ích kinh tế. Mỗi hoạt động mua sắm ở đây, dù của một cơ quan hành chính hay của một công ty kinh doanh cũng đều phải tuân theo một tiến trình nhất định mang tính logic. Các hoạt động mua sắm thường được tiến hành thông qua điều tra phân tích nhu cầu, xác định các chỉ tiêu kỹ thuật, thương mại, các điều kiện tài chính, tìm hiểu nguồn cung cấp, tiến hành giao dịch, đàm phán ký hợp đồng và tổ chức thực hiện sao cho có hiệu quả. Trong hoạt động đấu thầu các chỉ tiêu sau đây thường được người gọi thầu xem xét đến: - Giá cả. - Chất lượng - Độ tin cậy theo thời gian. - Thời hạn sử dụng. - Thị trường và uy tín của người cung cấp. - Chi phí bảo hành. - Hiệu quả dịch vụ sau bán hàng. - Độ bền và giá trị sử dụng còn lại. Vì vậy, giá chào thấp nhất chưa chắc đã trúng thầu. Việc mua bán đúng chất lượng thường tốn kém tiền bạc nhưng nó đem lại sự tiết kiệm cho người mua (chi phí sửa chữa, thay thế). Tối ưu hoá các hoạt động mua sắm qua đấu thầu là kết quả một chuỗi những quyết định được nêu ra trên cơ sở các chỉ tiêu có thể mâu thuận nhau. Người ta ví hoạt động đấu thầu như một trò chơi, ở đó có luật lệ riêng. b. Đối với nhà thầu: Trong đấu thầu do giành được những hợp đồng lớn có khi lên tới cả tỷ USD nên các nhà thầu cũng có lợi về nhiều mặt. Đối với xã hội uy tín của họ được nâng cao, giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tăng, những nhà lãnh đạo công ty, hãng trúng thầu có điều kiện tiến xa hơn trên con đường danh vọng. Do tập trung cung cấp lớn trong một thời gian dài nên các nhà thầu đã giải quyết được công ăn việc làm cho nhân công của mình, giúp họ có điều kiện cải thiện đời sống, nâng cao trình độ kỹ thuật. Như chúng ta đã biết, mỗi công ty, mỗi hãng sau khi hoàn thành xong hợp đồng thì lực lượng công nhân dư thừa không biết giải quyết ra sao, ví dụ như công nhân nhà máy thuỷ điện Hoà Bình trước đây. Nếu những công ty đó mạnh, có uy tín, làm ăn có hiệu quả, họ giành được hợp đồng trong các cuộc đấu thầu tiếp theo thì vấn đề nhân lực sẽ được giải quyết tốt đẹp. Đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng giúp cho nhà thầu có điều kiện thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Như đã biết, Bên mời thầu trong Hồ sơ mời thầu đã đòi hỏi các nhà thầu trong tương lai phải cung cấp hàng hoá thiết bị đạt những tiêu chuẩn nhất định hoặc sử dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại. Muốn có đủ các điều kiện như trên, các nhà thầu không còn con đường nào khác là phải thay đổi cả về chất, lẫn lượng. Ngoài ra, do giành được hợp đồng có giá trị cao các nhà thầu mới có điều kiện lớn và càng đầu tư lớn thì khả năng trúng thầu có thể sẽ ngày càng lớn hơn. Đấu thầu không chỉ đem tới cho các nhà thầu các lợi ích kinh tế mà còn giúp họ nâng cao uy tín trên thị trường, giành được mỗi gói thầu nhà thầu có thêm một giấy chứng chỉ hành nghề, có thêm thu nhập, bởi vì tất cả trong các thông báo mời thầu, Hồ sơ mời thầu đều có yêu cầu các nhà thầu xuất trình giấy chứng nhận của một cơ quan có thẩm quyền về việc thực hiện các dự án tương tự. Các văn bản giấy tờ này là cơ sở để cho Bên mời thầu tuyển chọn, so sánh về mặt kinh nghiệm, kỹ thuật. Đấu thầu còn là điều kiện để nhà thầu mở rộng sự hợp tác quốc tế. Trong thực tiễn, để đảm bảo thắng lợi trong đấu thầu, các nhà thầu đôi khi phải tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài về rất nhiều mặt. Ví dụ như sự đảm bảo nguồn cung cấp vốn để xây dựng công trình, xin bảo lãnh, liên doanh, liên kết. Các công việc trên sẽ không dễ dàng gì đối với các công ty nhỏ, uy tín thấp, làm ăn không có hiệu quả. Càng mở rộng sự hợp tác thì năng lực của các nhà thầu càng được nâng cao. Đó là sự đảm bảo lớn nhất cho khả năng thắng lợi trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giành hợp đồng. Ngoài những mặt thuận lợi, những mặt mạnh các nhà thầu khi tham gia đấu thầu đã gặp không ít khó khăn, trở ngại: - Một là, họ gặp phải sự phức tạp về thủ tục giấy tờ. - Hai là, muốn có đủ điều kiện dự thầu phải có sự bảo lãnh của một ngân hàng nào đó được chủ đầu tư đồng ý. c. Lợi ích đối với người tư vấn: Trên thế giới đang tồn tại nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ tư vấn. Các nhà đầu tư, những nhà gọi thầu đã triệt để sử dụng sức mạnh của các loại dịch vụ này. Các công ty tư vấn có thể do chủ đầu tư lựa chọn hoặc do người tài trợ giới thiệu. Các công việc tư vấn là các công việc phụ thuộc chủ yếu vào con người. ở những nơi mà người ta sử dụng công nghệ có sẵn và việc được giao nặng về thiết bị, thì người ta thường gọi hợp đồng đó là hợp đồng dịch vụ hơn là hợp đồng tư vấn. Việc sử dụng tư vấn trong đấu thầu đã đem lại cho chủ đầu tư rất nhiều lợi ích. Ngược lại, các công ty tư vấn khi tham gia đấu thầu cũng đem lại cho họ rất nhiều lợi thế: -Thứ nhất, các công ty tư vấn thu được một khoản lợi nhuận sau khi trừ đi các chi phí có liên quan. -Thứ hai, các công ty tư vấn tăng khả năng cung ứng các dịch vụ có chất lượng cao. Thông qua đấu thầu, các công ty này dần dần tích luỹ được kinh nghiệm trong tư vấn, giám sát, quản lý chất lượng công trình. -Thứ ba, thông qua đấu thầu quốc tế, các công ty tư vấn mở rộng được sự hợp tác quốc tế và họ càng có khả năng cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao hơn nữa. II. Tổng quan chung về đấu thầu xây lắp. 1. Khái niệm về đấu thầu xây lắp. Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn các nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu về xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng. 2. Trình tự tổ chức đấu thầu xây lắp (Điều 33). Quá trình tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện theo một trình tự nhất định do quy chế đấu thầu quy định. Hiện nay, việc tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện theo trình tự sau: - Sơ tuyển nhà thầu (nếu có). - Lập Hồ sơ mời thầu. - Gửi thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu. - Nhận và quản lý Hồ sơ dự thầu. - Mở thầu. - Đánh giá và xếp hạng nhà thầu. Công việc đấu thầu quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này do Bên mời thầu thực hiện hoặc thuê chuyên gia thực hiện. - Trình duyệt kết quả đấu thầu. - Công bố kết quả trúng thầu, thương thảo hoàn thiện hợp đồng. - Trình duyệt nội dung hợp đồng (theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6 của quy chế này) và ký hợp đồng. * Ghi chú: Nội dung của điểm b khoản 1 Điều 6 trong quy chế đấu thầu: Nội dung hợp đồng phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt (chỉ bắt buộc đối với các hợp đồng sẽ ký với nhà thầu nước ngoài hoặc các hợp đồng sẽ ký với nhà thầu trong nước mà kết quả đấu thầu do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). 3. Hồ sơ dự thầu xây lắp. Nội dung của Hồ sơ dự thầu xây lắp gồm: * Các nội dung về hành chính, pháp lý: - Đơn dự thầu hợp lệ (phải có chữ ký của người có thẩm quyền). - Bản sao giấy đăng ký kinh doanh. - Tài liệu giới thiệu năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu kể cả nhà thầu phụ (nếu có). - Văn bản thoả thuận liên danh (trường hợp liên danh dự thầu) - Bảo lãnh dự thầu * Các nội dung về kỹ thuật: - Biện pháp và tổ chức thi công đối với gói thầu. - Tiến độ thực hiện hợp đồng. - Đặc tính kỹ thuật, nguồn cung cấp vật tư, vật liệu xây dựng. - Các biện pháp đảm bảo chất lượng. * Các nội dung về thương mại, tài chính: - Giá dự thầu kèm theo thuyết minh và biểu giá chi tiết. - Điều kiện tài chính (nếu có). - Điều kiện thanh toán. 4. Tiêu chuẩn đánh giá và đánh giá Hồ sơ dự thầu xây lắp. a. Tiêu chuẩn đánh giá Hồ sơ dự thầu (Điều 40). Tiêu chuẩn đánh giá Hồ sơ dự thầu phải được nêu đầy đủ trong Hồ sơ mời thầu, bao gồm: * Tiêu chuẩn về kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu: - Kinh nghiệm đã thực hiện các dự án có yêu cầu kỹ thuật ở vùng địa lý và hiện trường tương tự. - Số lượng, trình độ cán bộ, công nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện dự án. - Năng lực tài chính (doanh thu, lợi nhuận và các chỉ tiêu khác). Các nội dung quy định tại khoản này được đánh giá theo tiêu chí “đạt”, “không đạt”. Nhà thầu phải đạt cả 3 nội dung trên thì mới được xem là đủ năng lực và kinh nghiệm tham dự thầu. * Tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật: - Mức độ đáp ứng đối với các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng vật tư thiết bị được nêu trong hồ sơ thiết kế. - Tính hợp lý và khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công. - Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện khác như phòng cháy chữa cháy, an toàn lao động. - Mức độ đáp ứng của thiết bị thi công (số lượng, chủng loại, chất lượng và tiến độ huy động), nhân lực thi công. - Các biện pháp đảm bảo chất lượng. - Khả năng cung cấp tài chính (nếu có yêu cầu). - Các nội dung về tiến độ thi công, mức độ liên danh, liên kết và những nội dung khác có yêu cầu trong Hồ sơ mời thầu. Sử dụng thang điểm (100 hoặc 1000) hoặc tiêu chí “đạt”, “không đạt” để xác định các nội dung quy định tại khoản này.Tiêu chuẩn đánh giá cần quy định mức điểm tối thiểu về mặt kỹ thuật nhưng không được quy định thấp hơn 70% tổng số diểm về mặt kỹ thuật (đối với gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao, mức điểm tối thiểu quy định không thấp hơn 90% tổng số điểm về mặt kỹ thuật) khi sử dụng thang điểm để đánh giá Hồ sơ dự thầu. Trường hợp sử dụng tiêu chí “đạt”, “không đạt” cũng phải quy dịnh rõ mức yêu cầu tối thiểu về mặt kỹ thuật. Hồ sơ dự thầu có tổng số điểm đạt hoặc vượt mức điểm tối thiểu đối với phương pháp chấm điểm hoặc đạt các yêu cầu theo tiêu chí “đạt”, “không đạt” được coi là đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật. * Tiêu chuẩn đưa về một mặt bằng để xác định giá đánh giá, bao gồm: - Chất lượng vật tư sử dụng để thi công, lắp đặt. - Chi phí vận hành, bảo dưỡng, duy tu công trình. - Những chi phí phát sinh khác mà chủ dự án phải thanh toán ngoài hợp đồng xây lắp (nếu có). - Điều kiện hợp đồng (đặc biệt là tiến độ thanh quyết toán). - Điều kiện tài chính (như thời gian vay, lãi suất vay...). - Thời gian thực hiện hợp đồng. * Ngoài tiêu chuẩn đánh giá quy định trong Hồ sơ mời thầu không được bỏ bớt, bổ sung hoặc thay đổi bất kỳ nội dung nào của tiêu chuẩn đánh giá trong quá trình xét thầu (K5-Đ1-NĐ66). b. Đánh giá Hồ sơ dự thầu: Việc đánh giá Hồ sơ dự thầu được thực hiện theo trình tự sau: * Đánh giá sơ bộ: việc đánh giá sơ bộ là nhằm loại bỏ các Hồ sơ dự thầu không đáp ứng yêu cầu, bao gồm: - Kiểm tra tính hợp lệ của Hồ sơ dự thầu. - Xem xét sự đáp ứng cơ bản của Hồ sơ dự thầu đối với Hồ sơ mời thầu. - Làm rõ Hồ sơ dự thầu nếu cần. * Đánh giá chi tiết: Việc đánh giá chi tiết Hồ sơ dự thầu bao gồm hai bước sau: - Bước 1: đánh giá về mặt kỹ thuật để chọn danh sách ngắn. Việc đánh giá về mặt kỹ thuật được căn cứ theo tiêu chuẩn đánh giá nêu trong Hồ sơ mời thầu để chọn danh sách ngắn. Trong quá trình đánh giá Bên mời thầu có quyền yêu cầu các nhà thầu giải thích về những nội dung chưa rõ, chưa hợp lý trong Hồ sơ dự thầu của các nhà thầu như về khối lượng, đơn giá. - Bước 2: Đánh giá về mặt tài chính, thương mại. Tiến hành đánh giá tài chính, thương mại các nhà thầu thuộc danh sách ngắn trên cùng một mặt bằng theo tiêu chuẩn đánh giá được duyệt. Việc đánh giá về mặt tài chính, thương mại nhằm xác định giá đánh giá bao gồm các nội dung sau: - Sửa lỗi. - Hiệu chỉnh các sai lệch. - Chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung. - Đưa về một mặt bằng so sánh. - Xác định giá đánh giá của các Hồ sơ dự thầu. Trong quá trình đánh giá, Bên mời thầu có quyền yêu cầu nhà thầu làm rõ về những đơn giá bất hợp lý và nếu căn bản giải trình của nhà thầu không đủ rõ, thì được coi là sai lệch để đưa vào giá đánh giá của nhà thầu đó. * Xếp hạng Hồ sơ dự thầu theo giá đánh giá và kiến nghị nhà thầu trúng thầu với giá trúng thầu tương ứng. III. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao khả năng thắng thầu của các công ty xây dựng. 1. Nghiên cứu kỹ Hồ sơ mời thầu. Chỉ có nghiên cứu kỹ Hồ sơ mời thầu mới xây dựng bản đề xuất kỹ thuật khả thi và đề ra được các biện pháp thực thi có hiệu quả. Việc nghiên cứu thời hạn thực hiện công việc để tìm cách rút ngắn thời gian hoàn thành, nghiên cứu các loại chi phí của từng hạng mục nhằm xây dựng phương án thanh toán, tính đơn giá cho chúng. Kinh nghiệm của một số nhà thầu trên thế giới và ở Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng người ta phải chuẩn bị nhiều phương án dự thầu với các mức lợi nhuận khác nhau, sau này tuỳ theo tình hình mà quyết định tham gia phương án nào. Ngoài ra, người dự thầu còn hết sức chú ý tới từng hạng mục dễ phát sinh chi phí để chào giá ở mức cao hơn so với công việc ổn định. Vốn là một vấn đề hết sức quan trọng, các nhà thầu đã phải tìm mọi cách để giải quyết có lợi cho mình, trong đó có biện pháp thực hiện thanh toán theo tiến trình giảm dần, trong khi đó người gọi thầu lại muốn thanh toán phù hợp với tiến độ hoàn thành công việc. 2. Xác định giá dự thầu hợp lý, hấp dẫn. Khi xây dựng giá dự thầu các nhà thầu phải dựa vào các cơ sở có liên quan như các quy định của các nước sở tại về cách tính đơn giá các hạng mục, các quy định về thuế, các chính sách ưu đãi, các quy định về giá của Nhà nước... Người dự thầu có thể tính toán và thực hiện một cách tiết kiệm bằng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ riêng của mình. Tức là nhà thầu sẽ dựa vào cơ sở pháp lý đó để xây dựng một giá thầu hợp lý nhất. Khi xác định giá dự thầu mọi người không được bỏ qua các nguyên tắc tính thuế. Mặt khác, họ cũng phải nắm được các nguyên tắc, phương pháp tính giá trị hải quan để nắm bắt được những chi phí nào được loại ra, những chi phí nào được tính vào giá trị tính thuế. Với mỗi gói thầu, nhà thầu phải xây dựng nhiều mức giá chào khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi khi ra quyết định dự thầu, đàm phán ký hợp đồng. 3. Đầu tư trang thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến. Bên cạnh các công ty có mắu mặt của Việt Nam như Tổng công ty CTGT 4, Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Tổng công ty xây dựng Trường Sơn... còn có các công ty nước ngoài tham gia. Các công ty nước ngoài thường có nhiều ưu thế vượt trội so với các công ty của Việt Nam. Do vậy, muốn giành được hợp đồng thì các công ty xây dựng của Việt Nam phải thay đổi thiết bị, công nghệ. Việc mua máy móc thiết bị có liên quan chặt chẽ tới tiền vốn. Không có vốn thì trở thành nhà thầu phụ cũng khó đối với các công ty của Việt Nam, ngay cả khi các nhà thầu chính nước ngoài có thiện chí mong muốn họ hợp tác. Nguyên nhân làm cho các nhà thầu phụ Việt Nam không phát triển là do chuyên môn hoá và hợp tác hoá chưa cao. Mặt khác, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà thầu Việt Nam cũng là một nguyên nhân làm cho thầu phụ kém phát triển, để giành được thầu họ đã không ngần ngại bỏ thầu giá thấp, chấp nhận lỗ. Việc hỗ trợ, ưu tiên các nhà thầu trong nước là một việc làm thiết thực cả trong hiện tại lẫn tương lai, trong đó có sự ưu tiên về vốn đầu tư. Do mua sắm thiết bị khó khăn về vốn nên con đường thứ hai để thay đổi thiết bị công nghệ là đi thuê mua của các công ty tài chính, một hoạt động mới ra đời và phát triển ở Việt Nam thời gian qua. Mua máy móc thiết bị thì người mua sẽ có quyền chủ động trong kinh doanh, còn thuê thì người đi thuê sẽ bị động trong việc sử dụng thiết bị vì phải đặt dưới sự kiểm soát của người cho thuê, nhưng bù lại họ lại không bị khó khăn về vốn. Nhưng con đường thuê thiết bị trong giai đoạn hiện nay sẽ thích hợp hơn cả so với các cách làm khác, một biện pháp khả dĩ mà các nhà thầu Việt Nam có thể khai thác được. 4. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thực hiện các công việc có liên quan đến đấu thầu. Các nhà thầu phần lớn là các nhà sản xuất, các nhà xây dựng... Do vậy, họ ít am hiểu các quy định có liên quan đến đấu thầu, một công việc vừa mang tính hình thức nhưng cũng rất chặt chẽ và khoa học. Tham gia đấu thầu, các nhà thầu ngoài việc am hiểu kỹ thuật họ còn phải có kỹ năng, kỹ xảo trong nghề nghiệp. Muốn chuẩn bị Hồ sơ dự thầu tốt, tổ chức thực hiện hợp đồng thắng lợi các nhà thầu phải có trong tay các chuyên gia giỏi về kỹ thuật, kinh tế, pháp lý... Muốn có được những chuyên gia như vậy thì cách tốt nhất là tổ chức đào tạo, trang bị kiến thức về đấu thầu bằng các cuộc hội nghị, hội thảo, tập huấn, các khoá đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước. Việc đào tạo, trang bị kiến thức trong bất kỳ trường hợp nào cũng không phải là thừa và phải coi đây là một loại hình đào tạo có hiệu quả nhất. Chương II Thực trạng đấu thầu xây lắp ở Công ty công trình giao thông 208 giai đoạn 2000 - 2003. I. Giới thiệu chung về Công ty Công trình giao thông 208. 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty công trình giao thông 208. Công ty công trình giao thông 208 là Doanh nghiệp Nhà nước hạng I, hạch toán độc lập trực thuộc Tổng công ty CTGT 4 - Bộ Giao thông vận tải. Có trụ sở chính tại 26B Vân Hồ 2 - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tiền thân của Công ty là trạm quản lý quốc lộ Hà Nội thuộc sở giao thông Hà Nội, được thành lập năm 1965. Nhiệm vụ chính của trạm là đảm bảo giao thông thông suốt tất cả các cửa ngõ vào Thủ đô Hà Nội mà lúc đó chủ yếu là các bến phà, cầu phao. Năm 1971, công ty trực thuộc cục quản lý đường bộ Việt Nam và đổi tên là Xí nghiệp quản lý sửa chữa giao thông Trung ương 208. Nhiệm vụ của Xí nghiệp là đảm bảo giao thông thông suốt khu vực Hà Nội và ứng cứu bảo đảm giao thông trên phạm vi toàn quốc khi có lệnh điều động. Ngoài ra còn được Bộ quốc phòng giao cho quản lý một số lượng lớn máy móc thiết bị phao phà sẵn sàng ứng cứu khi có chiến tranh xảy ra, bên cạnh đó là duy tu và bảo dưỡng 125 km quốc lộ 1 từ Hà Nội đến Dốc Xây, Thanh Hoá. Năm 1992, Xí nghiệp đổi tên thành Phân khu quản lý đường bộ 208 thuộc khu quản lý đường bộ 2. Nhiệm vụ là bảo dưỡng các thiết bị phao phà, ứng cứu đảm bảo giao thông trên toàn quốc khi có lệnh, tiến hành xây dựng các công trình cơ bản nhỏ. Đại tu, sửa chữa các cầu đường bộ, rải thảm bê tông asphalt, sửa chữa và làm mới một số cầu và đường ở các tỉnh phía Bắc, xây dựng các công trình dân dụng. Tháng 7/1992, Phân khu quản lý đường bộ 208 tách làm đôi thành lập: Phân khu quản lý đường bộ 234 trực thuộc Khu quản lý đường bộ 2 và Công ty sửa chữa công trình giao thông 208 trực thuộc Cục quản lý đường bộ Việt Nam có đăng ký kinh doanh 108842 ngày 19/8/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội và giấy phép kinh doanh số 2233 do Bộ GTVT cấp ngày 19/8/1994. Từ năm 1995 đến nay Công ty đổi tên thành Công ty công trình giao thông 208 trực thuộc Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 theo: Thông báo 132/TB ngày 29/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ Quyết định thành lập số 1103/ QĐ - TCCB ngày 6/3/1993 của Bộ Giao thông vận tải. Đăng ký kinh doanh số: 108842 ngày 19/8/1993 của trọng tài kinh tế Hà Nội Giấy phép hành nghề số 173BXD/CSXD ngày 11/8/1998 do Bộ trưởng Bộ Xây dựng cấp. Nhiệm vụ của công ty lúc này là đại tu, làm mới nâng cấp và mở rộng đường bộ, xây dựng cầu bê tông cốt thép. Sản xuất và rải thảm asphalt, lắp ráp cầu phao khi xảy ra lụt bão. Phạm vi hoạt động của Công ty trên toàn quốc và nước ngoài, thông qua đấu thầu dự án. 2. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty. Giám đốc Phó giám đốc kinh doan h Phòn g Kinh doan h Phòn g vật tưthiế t bị Phó giám đốc nội chín h Phòn g kế toán Phòn g hành chín h tổng Phó giám đốc kỹ thuậ t Phòn g tổ chức cán bộ Phòn g kỹ thuậ t Phòn g dự án * Giám đốc công ty: Là người đại diện pháp nhân của doanh nghiệp, có quyền điều hành cao nhất và chịu trách nhiệm trước cấp trên, trước pháp luật của nhà nước về điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo các mặt công tác. * Phó giám đốc Kinh doanh: Trực tiếp theo dõi kế hoạch sản xuất kinh doanh, các hợp đồng kinh tế; trực tiếp chỉ đạo thanh quyết toán các công trình với chủ đầu tư và thanh quyết toán nội bộ. * Phó giám đốc nội chính: Phụ trách công tác nội chính, y tế, đời sống, hành chính quản trị trong công ty. * Phó Giám đốc kỹ thuật thi công: Trực tiếp chỉ đạo sản xuất, kiểm tra chất lượng công trình trong toàn công ty; điều động bố trí vật tư, thiết bị cho các công trình theo tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty. *Phòng Hành chính tổng hợp: Tham mưu cho Giám đốc Công ty về lĩnh vực hành chính, quản trị, tổng hợp hoạt động của Công ty.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan