Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao chất lượng đào tạo tại trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp...

Tài liệu Nâng cao chất lượng đào tạo tại trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp thái nguyên

.PDF
114
34371
89

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH =====o0o===== NGUYỄN THỊ THU HỒNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ MÃ SỐ: 60.34.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ MINH THỌ THÁI NGUYÊN -2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH =====o0o===== NGUYỄN THỊ THU HỒNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ THÁI NGUYÊN -2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời kỳ hội nhập thế giới hiện nay, nền kinh tế và xã hội việt nam đang đứng trước những thử thách đầy cam go. Nguyên nhân cơ bản là do trình độ quản lý yếu kém và sự thiếu thốn nghiêm trọng nguồn nhân lực có trình độ ở nhiều lĩnh vực. So sánh với các nước trong khu vực, một điều rõ ràng là chúng ta đã không chuẩn bị tốt về vốn người cho sự phát triển. Trách nhiệm đó, một phần rất lớn là thuộc về giáo dục đại học, mũi nhọn xung kích. Xu thế “xã hội hóa” giáo dục, mở rộng số lượng đầu vào để tăng lợi nhuận, đang là xu thế chủ đạo. Ngày nay, khi tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố quan trọng nhất để tăng trưởng và phát triển thì sự thành bại của công cuộc hội nhập trong một thế giới đang cạnh tranh quyết liệt tùy thuộc rất nhiều vào giáo dục - đào tạo. Đối với Việt Nam , vai trò của giáo dục được xác định rõ trong điều 35, hiến pháp 1992: [9, t 148] “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, Có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.” Hiện nay Đảng và nhà nước ta khẳng định giáo dục và đào tạo là một trong ba lĩnh vực then chốt cần phải đột phá đề làm chuyển động tình hình kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực. Trong những năm qua nền giáo dục nước nhà đã có những chuyển biến tích cự, đa dạng hoá về mục tiêu đào tạo, loại hình đào tạo, loại trường về mô hình và sở hữu. Giáo dục nước nhà đã thu hẹp được khoảng cách với nền giáo dục của các nước trong khu vực và trên thế giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Bên cạnh những thành tựu đó, giáo dục nước ta vẫn bộc lộ một số yếu kém. Trong đó yếu kém lớn nhất là sự bất cập về khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục đối với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy mục tiêu phát triển giáo dục đến năm 2020 ở nước ta là cần tạo ra bước chuyển cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng đào tạo là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho các trường đại học và cao đẳng khẳng định uy tín và thương hiệu của nhà trường. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển trên thị trường giống như các ngành kinh tế thì các trường phải nâng cao chất lượng đào tạo, từ đó nâng cao được năng lực cạnh tranh. Hơn lúc nào hết, trường Cao Đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp đang đứng trước vận hội mới và trách nhiệm hết sức nặng nề, cần phải phát huy vai trò, vị trí đã và đang có nhằm góp phần tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. Những yêu cầu cấp bách trên đòi hỏi trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp không những phải năng động trong việc phát huy tiềm lực hiện có mà phải nâng cao chất lượng đào tạo để đào tạo ra đội ngũ cán bộ, nhân viên, kinh tế, kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao có khả năng đáp ứng yêu cầu công việc tại các doanh nghiệp trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Với mong muốn đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển của nhà trường, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 2.Mục tiêu nghiên cứu 2.1.Mục tiêu chung Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo nói chung và chất lượng đào tạo trong các trường Cao đẳng nói riêng. Vận dụng để đánh giá chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp từ đó để xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đào tạo. - Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo cao đẳng tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công nghiệp. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh tế Công nghiệp. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp Thái Nguyên. - Phạm vi nội dung: + Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đào tạo. + Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo cao đẳng tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công nghiệp. + Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh tế Công nghiệp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 - Phạm vi thời gian: Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp từ năm 2007 đến năm 2010 Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2010 đến tháng 9/2011. 4. Ý nghĩa khoa học của đề tài. Đối với nhà trường có ý nghĩa thiết thực trong việc giám sát, đánh giá, đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo góp phần phát triển thương hiệu của nhà trường. Giúp cho các phòng ban chức năng, các khoa khác có các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo phụ hợp. 5. Bố cục của luận văn Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng giáo dục đào tạo. Chương 2: Đánh giá chất lượng đào tạo tại trường Cao Đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp. Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại trường Cao đằng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp \ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO 1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lƣợng giáo dục đào tạo 1.1.1. Khái niệm về đào tạo Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đã nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Thật vậy, ngày nay đào tạo nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vậy đào tạo là gì? Xung quanh vấn đề này có nhiều khái niệm khác nhau như: - Đào tạo là một quá trình có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ …để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân người học, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả [7, tr11] - Đào tạo là cung cấp cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan tới công việc, nghề nghiệp được giao (Tổ chức lao động quốc tế) - Đào tạo là một quá trình học tập lý luận và kinh nghiệm để tìm kiếm một sự biến đổi về chất tương đối lâu dài của một cá nhân, giúp cá nhân có thêm năng lực thực hiện công việc [6, tr314] Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về đào tạo nhưng nhìn chung các quan niệm này đều có điểm chung là đào tạo là một quá trình cung cấp cho người học những kiến thức, kỹ năng để họ có thể hoàn thành công việc của mình. 1.1.2. Quan niệm về chất lượng Chất lượng là một khái niệm đa chiều, được nhiều tác giả đề cập đến theo các cách tiếp cận khác nhau, sau đây là một vài định nghĩa về chất lượng: - Theo tiêu chuẩn của nhà nước Liên Xô: Chất lượng là tổng thể những thuộc tính của nó quy định tính thích dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu cầu phù hợp với công dụng của nó [1,tr20]. Như vậy, theo quan niệm này thì chất lượng được xuất phát từ các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải bán thứ mà thị trường cần nên có một số quan niệm khác về chất lượng trên góc độ người tiêu dùng như: - Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu (European Organization for Quanlity Control) cho rằng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với yêu cầu của người tiêu dùng [1, tr20] - Gs .Philip B. Gosby (người Mỹ) cho rằng chất lượng là sự phù hợp với những yêu cầu hay đặc tính nhất định [6, tr21] - Theo ISO 8402 :1994 thì chất lượng là một tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng làm thỏa mãn nhu cầu đã xác định hoặc tiềm ẩn [8, tr257] - Theo ANSI (American National Stands Institute và ASQ (American Society for Quanlity) thì chất lượng là tổng hợp những đặc tính và đặc điểm của một sản phẩm hay dịch vụ có khả năng làm thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Như vậy chất lượng là một khái niệm phức tạp. Có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng tùy theo góc độ của người quan sát nhưng các quan niệm đều có chung ý tưởng: Chất lượng là sự thỏa mãn một yêu cầu nào đó của người sử dụng (khách hàng). Từ đó chúng ta thấy chất lượng phải có những đặc điểm cơ bản sau đây [1, tr24]:  Chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, có thể là sản phẩm, một hoạt động, một quá trình, một doanh nghiệp hay một con người.  Chất lượng là tập hợp các đặc tính của thực thể để thỏa mãn nhu cầu. vì vậy khi đánh giá chất lượng ta phải xét đến đặc điểm của thực thể liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể.  Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu. vì vậy, nếu thực thể đáp ứng được các tiêu chuẩn nhưng không phù hợp với nhu cầu, không được thị trường chấp nhận thì vẫn coi là không chất lượng.  Chất lượng phải gắn với điều kiện cụ thể của nhu cầu, của thị trường về các mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội, phong tục, tập quán. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7  Chất lượng phải được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu trên các phương diện: tính năng của sản phẩm, giá thỏa mãn, thời điểm cung cấp, dịch vụ, an toàn… 1.1.3. Quan niệm về chất lượng đào tạo Chất lượng đào tạo là một vấn đề được các trường quan tâm, xung quanh vấn đề này cũng có nhiều quan niệm khác nhau: 1.1.3.1. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu vào” Theo quan điểm của một số nước phương tây thì chất lượng của một trường học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó. Theo quan điểm này thì nguồn lực chính là chất lượng, nghĩa là các trường được xem là có chất lượng cao nếu tuyển sinh được sinh viên giỏi, cán bộ giảng dạy có uy tín, có nguồn tài chính để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường. Vậy quan điểm này đã bỏ qua quá trình đào tạo diễn ra trong thời gian dài trong nhà trường. Đây là quan điểm xem quá trình đào tạo là “hộp đen”, chỉ dựa vào đánh giá “đầu vào”, không quan tâm đến chất lượng “đầu ra”. Quan điểm này sẽ khó giải thích được tại sao một nhà trường có đầu vào cao nhưng hoạt động đào tạo hạn chế, sinh viên tốt nghiệp chưa chắc đã xuất sắc và một trường có đầu vào khiêm tốn nhưng sinh viên được cung cấp một chương trình đào tạo hiệu quả, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc [2, tr254]. 1.1.3.2. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu ra” Theo quan điểm này chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu ra” của quá trình đào tạo, được thể hiện thông qua năng lực của sinh viên tốt nghiệp. Xung quanh quan niệm này vẫn nảy sinh hai vấn đề: một là không xem xét mối liên hệ giữa “đầu vào” với “đầu ra”. Thực tế thì mối liên hệ này là có thực, tuy không phải là quan hệ nhân quả. Thứ hai là cách đánh giá “đầu ra” của các trường cũng rất khác nhau. [2, tr254] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 1.1.3.3. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “giá trị gia tăng” Quan điểm này cho rằng một trường có tác động tích cực tới sinh viên nếu tạo ra sự khác biệt trong sự phát triển trí tuệ và cá nhân của sinh viên. “ Giá trị gia tăng” xác định bằng cách lấy giá trị “đầu ra” trừ đi giá trị “đầu vào”. Nhưng nếu đánh giá chất lượng theo quan điểm này thì nảy sinh vấn đề là phải có thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu vào”, “đầu ra” cho các trường vì hệ thống giáo dục của các trường rất đa dạng. Hơn nữa nếu thiết lập được thước đo chung thì “giá trị gia tăng” cũng không cung cấp thông tin để cải tiến quá trình đào tạo trong các nhà trường. [2, tr254]. 1.1.3.4. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “giá trị học thuật” Quan điểm này đánh giá chất lượng đào tạo chủ yếu dựa vào năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng viên. tức là nếu một trường có nhiều giáo sư, tiến sĩ, có uy tín khoa học thì được coi là có chất lượng cao.Nhưng liệu chúng ta sẽ đánh giá năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng viên như thế nào khi xu hướng chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng [2, tr255]. 1.1.3.5. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “văn hóa tổ chức riêng” Quan điểm này cho rằng chất lượng của một trường được đánh giá thông qua “văn hóa tổ chức riêng” là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này khó áp dụng trong giáo dục vì nó có nguồn gốc từ lĩnh vực công nghiệp và thương mại. 1.1.3.6. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “kiểm toán” Đây là quan điểm coi trọng nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. theo họ, một cá nhân có đủ thông tin cần thiết để đưa ra các quyết định về chất lượng chính xác thì sẽ có chất lượng. Nhưng thực tế, không phải nhà trường nào có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin cũng đưa ra quyết định tối ưu [2, 255]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 1.1.3.7. Một số quan niệm khác về chất lượng đào tạo - Theo tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học quốc tế (INQAHEInternational Network of Quality Assurance in Higher Education) thì: chất lượng là sự trùng khớp với mục đích [2, tr256] Theo quan điểm này chất lượng đào tạo được đánh giá thông qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã được đề ra cho một chương trình đào tạo đã thiết kế. Khái niệm này được nhiều nhà phân tích và hoạch định chính sách giáo dục chấp nhận. - Theo Trần Khánh Đức (thuộc viện nghiên cứu phát triển giáo dục): chất lượng đào tạo là kết quả của cả quá trình đào tạo, phản ánh ở các đặc trưng về nhân cách, phẩm chất, năng lực hành nghề mà người tốt nghiệp đạt được phù hợp với mục tiêu, chương trình đào tạo của từng ngành nghề cụ thể [8, tr259] - Theo quyết định 65/2007/QĐ - BGDĐT ngày 01/11/2007: chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục của luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và cả nước. Như vậy xung quanh vấn đề chất lượng đào tạo có rất nhiều quan điểm khác nhau. chất lượng đào tạo là một khái niệm mang tính tương đối. Mỗi đối tượng khác nhau sẽ có những quan tâm khác nhau về chất lượng đào tạo phù hợp với lợi ích của họ. Với vị trí là sinh viên, giảng viên có thể quan tâm đến quá trình đào tạo như thế nào, còn các doanh nghiệp có thể quan tâm đến đầu ra của quá trình đào tạo. Vấn đề khi đánh giá chất lượng đào tạo chúng ta cần đưa ra các tiêu chí làm thước đo để đánh giá. Các tiêu chí này phải kết hợp hài hòa lợi ích của các đối tượng, sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường, đồng thời cũng phải thỏa mãn được nhu cầu của thị trường lao động và xã hội. 1.1.4. Quản lý chất lƣợng đào tạo 1.1.4.1. Quản lý chất lượng và các công cụ quản lý chất lượng cơ bản Theo ISO 9000:2000: quản lý chất lượng là các hoạt động nhằm điêu chỉnh và kiểm soát một cơ quan, tổ chức về vấn đề chất lượng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Như vậy, quản lý chất lượng có phạm vi rất rộng, nó không chỉ dành cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả các tổ chức khác như nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu, các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị. Để quản lý chất lượng, các tổ chức thường dùng các công cụ cơ bản[1, tr 55-59]: - Kiểm tra chất lượng (Quality Inspecstion) với mục tiêu để sàng lọc các sản phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi các sản phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có sản phẩm đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng. - Kiểm soát chất lượng (Quality Control - QC với mục tiêu ngăn ngừa việc tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải kiểm soát các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm (như dây truyền công nghệ), các đầu vào (như nguyên, nhiên vật liệu…), công cụ sản xuất (như trang thiết bị công nghệ) và yếu tố môi trường (như địa điểm sản xuất). - Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality Control – TQC) với mục tiêu kiểm soát tất cả các quá trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình xảy ra trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường, nghiên cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận chuyển, phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng. - Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở mức tốt nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho hoạt động quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục tiêu chất lượng đó đặt ra. 1.1.4.2. Các mô hình quản lý chất lượng đào tạo a. Mô hình BS 5750/ISO 9000 Mô hình BS 5750/ISO 9000 là một mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học được đưa ra vào đầu thập kỷ 90. Mô hình này dựa theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng của Anh BS 5750 và tương đương với tiêu chuẩn ISO 9000. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Bản chất của mô hình này là một hệ thống các văn bản quy định tiêu chuẩn và quy trình chi tiết, nghiêm ngặt ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất đảm bảo mọi sản phẩm hay dịch vụ phải phù hợp với mẫu mã, quy cách, các thông số kỹ thuật quy định trước đó với mục tiêu là tạo ra một đầu ra “phù hợp với mục đích”. Mô hình BS 5750/ISO 9000 đưa ra một kỷ luật nghiêm ngặt với những người sử dụng, đồng thời đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực tài lực và thời gian. Do mô hình này có nguồn gốc từ lĩnh vực sản xuất hàng hóa nên ngôn ngữ trong bộ tiêu chuẩn này vẫn xa lạ với giáo dục chẳng hạn mô hình gọi người học là sản phẩm, hơn nữa trong giáo dục khó tạo ra được các sản phẩm có chất lượng như nhau [2, tr269]. b. Mô hình chất lƣợng quản lý chất lƣợng tổng thể (Total Quality Management - TQM) TQM là mô hình quản lý chất lượng tập trung vào năm lĩnh vực: - Sứ mạng và chú trọng đến khách hàng - Tiếp cận các hoạt động có hệ thống - Phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực - Các tư tưởng dài hạn - Sự phục vụ hết mực Theo Sherr và Lozier (1991), có năm thành phần ảnh hưởng đến việc cải tiến chất lượng trong giáo dục: Sự trung thực; chia sẻ quan điểm; kiên nhẫn; hết lòng làm việc; và lý thuyết TQM. Trong năm thành tố trên thì lý thuyết TQM có thể dạy và học được. Mặc dù mô hình TQM cũng xuất xứ từ thương mại và công nghiệp nhưng tỏ ra phù hợp hơn với giáo dục. Mô hình này không áp dụng một hệ thống cứng nhắc cho bất kỳ một cơ sở đào tạo nào, nó tạo ra một nền văn hóa chất lượng bao trùm toàn bộ quá trình đào tạo. Triết lý của TQM là tất cả mọi người dù ở cương vị nào, vào bất kỳ thời điểm nào cũng đều là người quản lý chất lượng của phần việc mình được giao và hoàn thành một cách tốt nhất, với mục đích tối cao là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng [2, tr269]. Thực chất của TQM là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 - Cải tiến liên tục: triết lý quan trọng nhất của tqm là cải tiến không ngừng và có thể đạt được do quần chúng, thông qua quần chúng. sự cải tiến liên tục này thể hiện trong kế hoạch của các trường bằng các chu kỳ cải tiến, nâng cao dần theo vòng xoáy trôn ốc từ lợi ích trước mắt đến lợi ích lâu dài, từ trình độ xuất phát ở một thời điểm nhất định vươn không ngừng tới một trình độ cao hơn. Trong công tác đảm bảo chất lượng trong các ngành dịch vụ như giáo dục, chúng ta không thể cố định được một sản phẩm “không mắc lỗi” mà không làm giảm đi nhiều khả năng có thể đạt được mức độ hoàn hảo. Vì vậy quá trình đảm bảo chất lượng phải cải tiến liên tục. Khái niệm một sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng “không mắc lỗi” được xét theo phương diện hạn chế đó là những bằng cấp tối thiểu [2, tr270]. - Cải tiến từng bước: Quản lý chất lượng tổng thể được thực hiện bằng một loạt các dự án quy mô nhỏ có mức độ tăng dần. Về tổng thể quản lý chất lượng có quy mô rộng, bao quát hết hoạt động của cơ sở đào tạo, song việc thực hiện nhiệm vụ đó thực tế lại có quy mô hẹp, khả thi, thiết thực và có mức độ tăng dần. Sự can thiệp mạnh không phải là phương sách tốt để tạo ra sự chuyển biến lớn trong quản lý chất lượng tổng thể. Các dự án đồ sộ nhiều khi không phải là con đường tốt nhất vì thiếu kinh phí và nếu thất bạo sẽ dẫn tới sự thờ ơ, bất bình. Các dự án nhỏ sẽ dễ thành công, tạo ra sự tự tin và làm cơ sở cho các dự án lớn sau này. [2, tr270]. - Hệ thống tổ chức phải hướng tới khách hàng: chìa khóa để tạo ra thành công trong quản lý chất lượng tổng thể là tạo ra sự gắn bó hữu cơ giữa cung và cầu, giữa các bộ phận trong trường với nhau và với xã hội. Trong hệ thống tổ chức của nhà trường vai trò của các cán bộ quản lý là hộ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo chức, sinh viên, chứ không phải là chỉ lãnh đạo, kiểm tra họ. Trong quản lý chất lượng tổng thể mô hình cấp bậc trong hệ thống tổ chức quản lý nhà trường phải là mô hình đảo ngược (hình 1.1). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Cán bộ lãnh đạo cấp trường Cán bộ quản lý cấp khoa Cán bộ giảng dạy Cán bộ phục vụ Quản lý chất lượng tổng thể trong GDĐH Sinh viên Cán bộ giảng dạy và phục vụ Cán bộ lãnh đạo trường, khoa Hình 1.1: Mô hình TQM đảo ngƣợc Sự đảo ngược về thứ tự trong hệ thống tổ chức quản lý của nhà trường theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể không làm phương hại đến cơ cấu quyền lực của nhà trường, cũng không làm giảm sút vai trò lãnh đạo của các cán bộ lãnh đạo trường, khoa. trong thực tế sự lãnh đạo của cán bộ quản lý vẫn giữ vai trò quyết định của quản lý chất lượng tổng thể. đảo ngược thứ bậc chỉ nhấn mạnh mối tương quan trong quá trình đào tạo hướng tới sinh viên như nhân vật trung tâm [2, tr271]. c. Mô hình các yếu tố tổ chức Mô hình này đưa ra 5 yếu tố để đánh giá như sau: 1 - Đầu vào: Sinh viên, cán bộ trong trường, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, quy chế, luật định, tài chính,… 2 - Quá trình đào tạo: Phương pháp và quy trình đào tạo, quản lý đào tạo,… 3 - Kết quả đào tạo: Mức độ hoàn thành khóa học, năng lực đạt được và khả năng thích ứng của sinh viên. 4 - Đầu ra: Sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu và các dịch vụ đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 5 - Hiệu quả: Kết quả của giáo dục và ảnh hưởng của nó đối với xã hội Dựa vào 5 yếu tố đánh giá trên các học giả đã đưa ra 5 khái niệm về chất lượng giáo dục như sau: 1. Chất lượng đầu vào : trình độ đầu vào thỏa mãn các tiêu chí, mục tiêu đề ra. 2. Chất lượng quá trình đào tạo: mức độ đáp ứng yêu cầu của quá trình dạy và học và các quá trình đào tạo khác. 3. Chất lượng đầu ra: mức độ đạt được của đầu ra (sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu khoa học và các dịch vụ khác so với bộ tiêu chí hoặc mục tiêu đã định sẵn. 4. Chất lượng sản phẩm: mức độ đạt các yêu cầu công tác của sinh viên tốt nghiệp qua đánh giá của chính bản thân sinh viên, của cha mẹ, của cơ quan công tác và của xã hội. 5. Chất lượng giá trị gia tăng: mức độ năng lực của sinh viên tốt nghiệp (kiến thức, kỹ năng, quan điểm) đóng góp cho xã hội và đặc biệt là hệ thống giáo dục [2, tr272]. Trong ba mô hình quản lý chất lượng giáo dục nêu trên, nếu xem chất lượng giáo dục là sự trùng khớp với mục tiêu thì sử dụng mô hình TQM là phù hợp hơn cả. mô hình cho phép nghiên cứu đề ra các mục tiêu chiến lược của giáo dục trong từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách lớn của chính phủ đối với giáo dục. Và tùy thuộc vào nguồn lực hiện có, các nhà quản lý chất lượng giáo dục có thể chủ động tác động đến những khâu, lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng từ đó nâng cao dần chất lượng giáo dục theo kế hoạch đã đề ra [2, tr 272]. 1.1.5. Đánh giá chất lượng đào tạo Chất lượng đào tạo là một khái niệm động, đa chiều. Vì vậy ta không thể dùng một phép đo đơn giản để đo lường và đánh giá chất lượng trong giáo dục đào tạo. Để đánh giá chất lượng trong giáo dục đào tạo người ta thường dùng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chí và các chỉ số tương ứng với các lĩnh vực trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ cộng đồng của các trường. Các chỉ số này có thể là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 định tính nghĩa là đánh giá bằng nhận xét chủ quan của người đánh giá. hoặc chỉ số cũng có thể là định lượng, tức là đánh giá và đo lường bằng điểm số [2, tr 268]. Vậy tại sao chúng ta phải đánh giá chất lượng đào tạo, mục đích, nội dung và phương pháp đánh giá là gì? 1.1.5.1. Sự cần thiết phải đánh giá chất lượng đào tạo Trong những năm gần đây, hệ thống giáo dục của việt nam phát triển mạnh mẽ. Một mạng lưới giáo dục bao gồm các học viện, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đa dạng về loại hình, phương thức đào tạo đã được hình thành khắp cả nước. Quy mô đào tạo nước ta đang tăng nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Cùng với sự tăng nhanh của quy mô đào tạo thì một vấn đề ngày càng được quan tâm đó là chất lượng đào tạo. Mặc dù chất lượng đào tạo ở nước ta trong vài năm gần đây đã có chuyển biến tốt, nhưng vẫn còn hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, và chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến của khu vực cũng như thế giới. gần đây các hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo đã được chú ý nhưng còn thiếu đồng bộ và chưa thành hệ thống. Vì vậy, đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo cần phải được các cấp, các ngành và xã hội quan tâm.[2, tr279]. 1.1.5.2. Mục đích đánh giá Đánh giá chất lượng đào tạo trước tiên là để làm rõ quy mô, chất lượng và hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và các dịch vụ xã hội theo các chức năng, nhiệm vụ của nhà trường. Mặt khác, đánh giá chất lượng đào tạo còn nhằm mục đích xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định của nhà nước đã công bố xem đạt đến mức độ nào. từ đó, nhà trường xác định các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức để đề ra các chiến lược, kế hoạch và các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo của trường. đồng thời, nhà trường có thể đưa ra các kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp hộ trợ cho nhà trường trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 1.1.5.3. Nội dung đánh giá Trên cơ sở các tiêu chuẩn kiểm định và các quy định cụ thể về các chuẩn mực do nhà nước hoặc hiệp hội ban hành công tác đánh giá chất lượng đào tạo của nhà trường gồm một số nội dung sau đây [1, tr275]: - Thu thập, tổng hợp và phân tích các thông tin, tư liệu, số liệu thống kê theo yêu cầu của các tiêu chí và tiêu chuẩn kiểm định đề ra. - Tổ chức thẩm tra, khảo sát ý kiến của cán bộ, giáo viên, giảng viên, sinh viên của nhà trường. điều tra tình hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp và ý kiến nhận xét, đánh giá của các cơ sở sử dụng nhân lực do nhà trường đào tạo, bồi dưỡng. - Tổng hợp các thông tin thu thập được theo các tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định, đánh giá chất lượng đào tạo. 1.1.5.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo Chất lượng giáo dục là một khái niệm động, nhiều chiều, khó định nghĩa một cách chính xác. Vì vậy, để đánh giá chất lượng đào tạo ta cần xem xét các yếu tố tác động đến chất lượng đào tạo. Vậy những yếu tố nào có thể tác động tới chất lượng đào tạo? Có nhiều nhân tố tác động đến chất lượng đào tạo, tuy nhiên trong luận văn này, tác giả chỉ xem xét một số nhân tố cơ bản sau đây: Mục tiêu và chƣơng trình đào tạo Mục tiêu đào tạo là đích mà nhà trường mong muốn đạt được sau một quá trình đào tạo. Như chúng ta đã biết, chất lượng đào tạo là sự đáp ứng mục tiêu đào tạo đề ra. Vậy mục tiêu đào tạo là một căn cứ để đánh giá chất lượng của quá trình đào tạo. Mối quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo được thể hiện trong hình 1.2 dưới đây [11, tr307]. Điều 33 luật giáo dục năm 2005 có ghi:” Đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, có lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 quá trình đào tạo mục tiêu đào tạo chất lượng đào tạo kiến thức người tốt nghiệp kỹ năng thái độ - đặc trưng, giá trị, nhân cách, xã hội, nghề nghiệp - giá trị sức lao động, năng lực hành nghề, trình độ chuyên môn - năng lực thích ứng với thị trường lao động - năng lực phát triển nghề nghiệp Hình 1.2: Quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo Mục tiêu đào tạo cần phải được cụ thể hóa cho từng ngành nghề trên cơ sở bám sát các yêu cầu của thị trường lao động, của xã hội về kiến thức, kỹ năng và thái độ giúp người tốt nghiệp sau khi ra trường có thể làm việc với hiệu quả cao nhất. Bên cạnh mục tiêu đào tạo thì chương trình đào tạo cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Chương trình đào tạo là điều kiện cơ bản, điều kiện tiên quyết bảo đảm chất lượng GD – ĐT của một trường đại học. Một chương trình tốt, phù hợp sẽ tạo ra được sản phẩm tốt. Ngược lại, một chương trình đào tạo lạc hậu, chậm đổi mới sẽ tạo ra sản phẩm lao động không phù hợp. Chương trình đào tạo là bản cụ thể hóa của mục tiêu đào tạo, nó quy định các chuẩn kiến thức, kỹ năng, phương pháp và hình thức đào tạo, cũng như cách thức đánh giá kết quả của mỗi môn học. Muốn có chất lượng đào tạo tốt thì chương trình đào tạo phải cụ thể, cấu trúc hợp lý, giúp người học thu nhận được các kiến thức, kỹ năng đồng thời cũng phải đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong từng thời kỳ. Muốn vậy, chương trình đào tạo cần phải được chỉnh sửa, bổ sung trên cơ sở các tiêu chuẩn của bộ giáo dục và đào tạo, ý kiến của người học, người sử dụng lao động và các tổ chức khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 Cơ sở vật chất, phƣơng tiện trang thiết bị dạy học Để thực hiện được quá trình đào tạo, mỗi cơ sở đào tạo cần được trang bị những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học tập. Nói đến cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học là muốn nói tới hệ thống phòng học, thực hành, thư viện, giáo trình, giáo án, đèn chiếu, máy chiếu… Cơ sở vật chất, phương tiện trang thiết bị dạy học là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Nó có vai trò hỗ trợ cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Thật vậy, chúng ta không thể đảm bảo chất lượng giáo dục nếu hệ thống các phòng học, phòng thực hành, thí nghiệm không đầy đủ không đáp ứng được các yêu cầu của việc dạy và học. Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”, hay ngạn ngữ nước ngoài có câu:”Nghe thì quên, nhìn mới nhớ, làm thì hiểu”. Đúng vậy, các phương tiện và thiết bị dạy học giúp tối đa hóa thời gian mà việc học tập thực sự diễn ra, tối thiểu hóa các lao động cấp thấp, tạo thuận lợi cho mối tương tác giữa thầy và trò [2, tr239]. Nhờ các phương tiện và thiết bị dạy học , người học hứng thú với việc học, dễ nhớ, dễ hiểu hơn từ đó hình thành những kỹ năng nhất định. Đội ngũ giáo viên Bên cạnh mục tiêu, chương trình đào tạo và cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học thì một yếu tố khác quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đó là đội ngũ giáo viên. Nếu có chương trình, sách giáo khoa tốt, thiết bị đầy đủ, thời lượng học hợp lý, nhưng giáo viên yếu năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức kém thì không thể dạy tốt và sẽ không có chất lượng tốt. Trong thời đại mới, nhà giáo không còn là người truyền thụ kiến thức, mà là người hỗ trợ, hướng dẫn cho người học tìm chọn và xử lý thông tin. Vậy thì vai trò của nhà giáo trong thời đại mới sẽ như thế nào? Câu ngạn ngữ: “không thầy đố mày làm nên” còn đúng không? Trong thời đại hiện nay, vai trò của nhà giáo thay đổi nhưng vị trí của nhà giáo hoặc là không đổi hoặc là được nâng cao hơn so với trước nếu nhà giáo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất