TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY GIÁO DỤC
CÔNG DÂN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành
: 52140204
Giảng viên hướng dẫn:
TS. LÊ DUY SƠN
Sinh viên thực hiện:
Huỳnh Thanh Thuận
MSSV: 6108755
CẦN THƠ - 11/ 2013
LỜI CẢM ƠN
Được làm luận văn tốt nghiệp, đó là hạnh phúc không chỉ riêng bản thân em,
mà còn là hạnh phúc của gia đình em và người thân. Có thể nói để hoàn thành luận
văn tốt nghiệp này, đó chính là nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều quý thầy cô, gia đình,
người thân, các ban ngành địa phương và bạn cùng lớp.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến toàn thể quý thầy, cô khoa Khoa Học
Chính Trị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được làm luận văn. Đặc biệt em xin
gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Lê Duy Sơn là người trực tiếp hướng dẫn, tận
tình giúp đỡ em trong suốt thời gian làm luận văn. Cảm ơn các bạn sinh viên Sư
phạm Giáo dục công dân K36 đã quan tâm, động viên để tôi có thêm niềm tin và
sức mạnh để thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên, với lượng kiến thức và sự hiểu biết ít ỏi của bản thân, nên luận văn
của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em kính mong được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn
Cần thơ, ngày 20 tháng 11 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Huỳnh Thanh Thuận
Nguyễn Thanh An
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọ đề tài ...................................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài............................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 3
5. Kết cấu của luận văn............................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................................ 4
CHƯƠNG I: TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA GIÁO
VIÊN .......................................................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm tư duy lý luận ..................................................................................................... 4
1.2. Năng lực tư duy lý luận của giáo viên................................................................................. 8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA GIÁO VIÊN
GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
TỈNH AN GIANG .................................................................................................................... 15
2.1. Những ưu điểm về năng lực tư duy lý luận của giáo viên giảng dạy môn giáo dục công
dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An Giang hiện nay...................................................... 15
2.2. Những hạn chế trong năng lực tư duy lý luận của giáo viên giáo dục công dân trường
trung học phổ thông tỉnh An Giang hiện nay ........................................................................... 20
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ
LUẬN CHO GIÁO VIÊN GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH AN GIANG TRONG THỜI GIAN TỚI........................ 30
3.1. Nâng cao nhận thưc trách nhiệm của giáo viên GDCD Trường THPT ở tỉnh An Giang
về năng lực tư duy lý luận trong thời gian tới .......................................................................... 30
3.2. Tích cực bồi dưỡng, rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu khoa học để nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho giáo viên GDCD Trường THPT ở tỉnh An Giang ....................... 31
3.3. Từng bước kiện toàn và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên GDCD Trường THPT ở tỉnh An
Giang trong thời gian tới để nâng cao năng lực tư duy lý luận ................................................ 35
3.4. Xây dựng môi trường văn hóa sư phạm cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
giáo viên GDCD Trường THPT ở tỉnh An Giang trong thời gian tới ...................................... 38
3.5. Đổi mới việc bố trí sắp xếp, sử dụng cán bộ và thực hiện các chế dộ chính sách, bồi
dưỡng đối với giáo viên GDCD ở Trường THPT ở tỉnh An Giang trong thời gian tới ........ 43
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................... 49
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
MỞ BÀI
1. Lý do chọn đề tài.
Tư duy lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển phẩm chất, nhân
cách và quyết định đến các hoạt động của con người, khẳng định giá trị và ý nghĩa
to lớn của tư duy đối với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản,
Angghen đã chĩ ra rằng: “…Một dân tộc muốn đứng vững trên đĩnh của khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận”. Theo đó, phát triển tư duy lý luận là vắn đề
cấp thiết có ý nghĩa sống còn đối với người cán bộ, đội ngũ chính trị viên nói chung
và đội ngũ nhà giáo nói riêng.
Có thể nói rằng, bất kì một nước nào, một lĩnh vực nào của xã hội, muốn phát
triển cần phải có một nền khoa học tiên tiến đủ mạnh và đi kèm với nó là những con
người có năng lực tư duy lý luận đạt trình độ cao phù hợp với trình độ của khoa học
hiện đại . Đối với nước ta, năng lực tư duy lý luận đã trở thành tiền đề, điều kiện cơ
bản cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trình độ tư duy lý luận không chỉ là thước đo năng lực xã hội của mỗi cán bộ, đảng
viên, mà còn là tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất nhân cách của mỗi người. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế, không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi”. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, năng lực tư duy lý luận của giáo viên là hết
sức cần thiết ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của nhà trường, thực tế
những năm gần đây cho thấy, phẩm chất, năng lực, trình độ trí tuệ mà trực tiếp là
năng lực tư duy lý luận của giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông tỉnh An Giang còn nhiều mặt chưa được ngang tầm với đồi hỏi
của nhiệm vụ giáo dục ở trường trung học phổ thông hiện nay. Chính thực trạng đó
đã, đang và sẽ gây hậu quả nhiều mặt đối với bản thân người giáo viên, đối với
người học, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình giáo dục ở trường trung
học phổ thông. Vậy làm thế nào để năng cao năng lực tư duy lý luận cho giáo viên
giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An Giang hiện
nay đang là vấn đề cấp thiết, vấn đề này có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 1
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
tiễn, vừa cơ bản, vừa cấp bách, không chỉ đối với yêu cầu xây dựng giáo viên giảng
dạy ở nhà trường mà còn góp phần thúc đẩy đổi mới tư duy lý luận của giáo viên
giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông tỉnh An Giang hiện
nay, đó là lý do mà tác giả chọn đề tài “ nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giáo
viên giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông tỉnh An Giang
hiện nay”.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích: trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng năng lực tư duy lý luận của
giáo viên giảng dạy môn Giáo Dục Công Dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An
Giang, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho giáo viên giảng dạy môn Giáo Dục Công Dân trường trung học phổ thông
đáp ứng nhiệm vụ trong thời gian tới.
Nhiệm vụ: luận văn phải làm rõ:
+ Một là: khái quát nhũng vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và năng lực
tư duy lý luận của giáo viên.
+ Hai là: phân tích chỉ rõ thực trạng năng lực tư duy lý luận của giáo viên
giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An Giang.
+ Ba là: đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhầm nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông ở
tính An Giang trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu: để làm rõ đề tài tác giả nghiên cứu giáo viên giảng
dạy môn giáo dục công dân và việc năng cao năng lực tư duy lý luận cho việc giảng
dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An Giang trong thời
gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu việc nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân trường trung học phổ
thông ở tỉnh An Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho giáo viên giảng dạy giáo dục công dân trong thời gian tới.
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 2
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, lý
luận nhận thức và logic học mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách
của Đảng và Nhà Nước về con người về trình độ tư duy và năng lực tư duy lý luận,
về giáo dục đào tạo, về công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trong nhà
trường, luận văn còn kế thừa kết quả của các tác giả đi trước về vắn đề liên quan các
nghị quyết, đề án và báo cáo tổng kết công tác giáo dục và đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, điều tra, kết hợp logic- lịch
sử và các phương pháp khác để nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài lời cảm ơn, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 3
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
NỘI DUNG.
CHƯƠNG I: TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
GIÁO VIÊN.
1.1.Khái niệm tư duy lý luận.
1.1.1. Khai niêm Tư duy: con người trong cuộc sống luôn luôn phải hoạt
động nhầm thỏa mãng nhu cầu, duy trì sự tồn tại của mình, trong quá trình hoạt
động đó điểm mấu chốt để phân biệt giữa con người với con vật là con người có tư
duy. Tư duy giúp con người hoạt động một cách sáng tạo, có mục đích, tức hoạt
động có ý thức. Về điểm này C-Mac nhấn mạnh: “điều ngay từ đầu phân biệt nhà
kiến trúc tồi nhất là trước khi xây dựng những ngăn trong tổ ong bằng sáp, nhà kiến
trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi”. Tư duy có vai trò quan trọng
đói với hoạt động của con người như vậy:
Tư duy là giai đoạn cao nhất của quá trình nhận thức để hình thành tư duy
cần phải có các yếu tố:
Thế giới khách quan với các sự vật, hiện tượng khác nhau với tư cách là đối
tượng nhận thức của con người.
Bộ não người với tư cách là một dạng vật chất đặc biệt, làm cơ sở cho sự
hình thành và tồn tạy của các tư tưởng ý nghĩa.
Hoạt động thực tiễn của con người với tư cách là cầu nối cho sự tương tác
giữu bộ não người (cơ quan phản ánh) với thế giới khách quan (đối tượng phản ánh)
do đó là phương thức hình thành phản ánh lý tính tư duy.
Ngôn ngữ là hệ thống tính hiệu vật chất với tư cách là phương tiện để định
hình và thể hiện tư duy. Tư duy được hình thành thông qua quá trình con người với
bộ não của mình bằng hoạt động thực tiễn tác động vào các sự vật, hiện tượng vào
trong thế giới khách quan làm chúng bộc lộ ra các đặc điểm, cấu trúc, dấu hiệu, bản
chất của mình, hệ thống tín hiệu này được phản ánh vào trong não bộ thông qua hệ
thống các phản xạ thần kinh cao cấp và được hình thành bằng ngôn ngữ dưới dạng
các khái niệm, phán đoán, suy luận tư tưởng...
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 4
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
Với đặc điểm hình thành của tư duy như vậy, nên trong cuốn từ điển triết học do
M.M.Rodentan chủ biên định nghĩa “tư duy là sản phẩm cao nhất của cái vật chất
được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách
quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận…tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt
động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực tại một cách gián
tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật thực tại”.
Từ những đặc điểm của quá trình hình thành tư duy và nội dung trong định
nghĩa trên tư duy có những dấu hiệu bản chất sau.
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức phản ánh một cách gián tiếp
và khái quát của các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan trong các khái niệm
phán đoán và suy luận, do đó, trừu tượng hóa và khái quát hóa là phương pháp đặc
thù của tư duy, nếu không có khái quát hóa và trù tượng hóa của tư duy thì không
thể có các khái niệm, không có các lý thuyết khoa học, tức không thể có tư duy nói
chung.
Tư duy là phản ánh về thế giới khách quan đem lại cho con người những hiểu
biết về bản chất của sự vật, về những quy luật vận động của thế giới, vì vậy, tư duy
có tính độc lập tương đối, có tính năng động, sáng tạo, nói khác đi, tư duy là một hệ
tri thức có khả năng sản sinh ra tri thức mới, tác động trở lại thực tiễn. V.I. Lenin đã
nhận xét về vấn đề này như sau “sự khái quát đơn giản nhất, sự hình thành đầu tiên
và đơn giản nhất của những khái niệm, những phán đoán, suy luận, cũng đã có
nghĩa là con người nhận thức ngày càng sâu sắc về các mối liên hệ khách quan, về
các tính quy luật của thế giới”.
Tư duy là sản phẩm đặc thù chỉ có ở con người, không thể có tư duy nào ở
ngoài con người và loài người, mặt khác cũng không thể có tư duy của cá nhân trừu
tượng, mà chỉ có thể là tư duy của con người với tư cách là một thành viên của xã
hội, gia nhập vào đời sống xã hội, nếu tách khỏi xã hội loài người con người không
thể suy nghĩ theo kiểu người được.
Tư duy là hoạt động có tính mục đích của con người, bản chất của tư duy xét
đến cùng là nhầm giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn nhất định. Đồi hỏi của thực
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 5
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
tiễn cũng là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của tư duy, do đó
cũng như thực tiễn, sự phát triển và có tính quy luật, nó diễn ra đồng thời với quá
trình hoạt động thực tiễn của con người, từ việc nhận thức thế giới sung quanh đến
việc cải tạo, trinh phục thế giới.
Tuỳ theo góc độ tiếp cận mà người ta có thể phân làm nhiều loại khác nhau.
Theo trình độ phát triển của tư duy người ta chia ra thành hai loại: tư duy kinh
nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công
cụ là khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận hướng tới phân tích, tổng hợp, khái
quát để tìm ra bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, từ đó định hướng, hướng
dẫn hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người ngày càng có kết quả cao hơn.
Tóm lại tư duy xét về bản chất là sự phản ánh sang tạo hiện thực khách quan,
tính sáng tạo của tư duy là ở chổ trong quá trình phản ánh không sao chép nguyên xi
sự vật, biết phân loại “bóc”, “tach” sự vật bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng trên
cơ sở khái quát hóa và trừu tượng hóa đem lại cho con người những tri thức về bản
chất, quy luật của sự vật về hiện tượng khách quan, sáng tạo trong bản chất của tư
duy là trái với rặp khuôn, giáo điều, mái móc, là xa lạ với thái độ thụ động, ỷ lại với
chủ quan duy ý chí. Đó là khả năng nắm bắt được bản chất của sự vật biết phân biệt,
so sánh, tổng hợp, khái quát từ thực tế sinh động, từ những kinh nghiệm muôn vẽ
của đời sống thực nghiệm để rút ra những két luận khoa học, nhờ có tính sáng tạo
mà tư duy luôn vương tới cái mới, cái tiến bộ, giúp con người nhận thức thế giới
khách quan sâu sắc hơn đầy đủ hơn.[14, tr 64]
1.1.2. Khai niệm Lý luận: lý luận là khái niệm dùng để chỉ hệ thống các
quan điểm, những tư tưởng được tổng kết khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn của con người trong những lĩnh vực và thuộc những phạm vi không gian và thời
gian nhất định. Lý luận ấy có thể có tác dụng chỉ đạo ngược trở lại đối với các hoạt
động thực tiễn tiếp theo ở những lĩnh vực phạm vi phù hợp.
Có thể nêu thí dụ về lý luận đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mac, trong tác
phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản (1848), C.Mac và Angghen viết “ lịch sử tất
cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay (về sau Angghen nói thêm: trừ lịch sử của xã
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 6
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
hội công xã nguyên thủy) chỉ là lịch sử của đấu tranh giai cấp. Người tự do và người
nô lệ quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ ban, nói
tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn đối kháng với nhau” đến
thời cận đại thì “xã hội này càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai
cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Sau đó ít năm
Mác thừa nhận rằng: ông không có công phát hiện ra sự tồn tại của các giai cấp và
cuộc đấu tranh của các giai cấp, cái mới mà ông đã làm là chứng minh rằng: 1. sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất, 2. đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, 3. bản thân nền
chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội
không có giai cấp”. Như vậy theo lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, đấu
tranh giai cấp là động lực chính của quá trình vận động, phát triển của tất cả các xã
hội đã phân chia thành giai cấp.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trên nền tảng tinh hoa dân
hóa của dân tộc, ngay từ cuối năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng; lý
luận về đấu tranh giai cấp của Mác là đúng với hoàn cảnh lịch sử châu Âu, còn ở
Việt Nam, do những điều kiện đặc thù về kinh tế xã hội, văn hóa,… nên cuộc đấu
tranh giai cấp không giống như ở phương tây mà chủ nghĩa dân tộc mới chính là “
động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội”.
Từ tấm gương của Nguyễn Ái Quốc chúng ta có thể rút ra một kết luận có ý
nghĩa phương pháp luận là; bất cứ lý luận nào, dù là sự khái quát đúng đắn từ kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn của con người trong phạm vi của một không gian và
thời gian nhất định, nhất thiết điều phải được tiếp thu có lựa chọn và vận dụng sáng
tạo vào hoàn cảnh cụ thể, không thể sao chép và áp dụng một cách rập khuôn giáo
điều.[15, tr 13-14]
Như vậy lý luận với ý nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm
thực tiễn, là tổng hợp các tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong quá
trình lịch sử của con người, như vậy lý luận là sản phẩm cao của nhận thức, của sự
phản ánh hiện thực khách quan trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 7
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
lý và các quy luật tạo nên lý luận, là sản phẩm của quá trình nhận thức, nên bản chất
của lý luận “là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” là sự phản ánh gần đúng
của đối tượng nhận thức.
1.1.3. Khái niệm tư duy lý luận : tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ
khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát
để tìm ra bản chất quy luật của hiện thực khách quan. Từ đó định hướng, hướng dẫn
hoạt động thực tiễn của con người và sáng tạo tri thức mới, tư duy lý luận có một
vai trò hết sức quan trọng, Angghen đã viết “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh
cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”.
Tư duy lý luận có hai mặt gắn liền với nhau là nội dung tư duy và phương pháp tư
duy. Nội dung tư duy bao gồm hệ thống tri thức tồn tại dưới dạng khái niệm, phạm
trù, quy luật về những đối tượng xác định. Phương pháp tư duy là cách thức, thao
tác logic tiến hành “nhào nặn” những tri thức, khái quát tri thức, kinh nghiệm để cho
ra đời tri thức mới.[13, tr 55- 57]
1.2. Năng lực tư duy lý luận của giáo viên.
Khái niệm Năng lực: từ năng lực được định nghĩa là phẩm chất, trình độ khả
năng của con người, “theo từ điển tiếng việt xuất bản năm 2000, nhà xuất bản ngôn
ngữ thông tin thành phố Hồ chí Minh, của tác giả Nguyễn Văn Đạm”.
Còn từ điển tiếng việt của viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Đà Nẵng và trung
tâm từ điển học năm 2000 do tác giả Hoàn Phê chủ biên thì từ năng lực gồm có hai
nghĩa: năng lực là khả năng điều khiển chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó (ví dụ: mọi người bình thường đều có năng lực suy nghĩ) và
năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người có khả năng hoàn thành
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao (ví dụ: có năng lực tổ chức, bồi dưỡng
năng lực chuyên môn).
Từ những cách định nghĩa trên có thể khái quát nội hàm của khái niệm năng
lực là khả năng dưới dạng vật chất và tinh thần của cá nhân hoặc một tổ chức người
để thực hiện một hoạt động nào đó, nói đến năng lực là nói tới hoạt động của con
người, gắng với con người.[14,tr 64]
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 8
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng hợp các yếu tố chủ quan của chủ
thể đáp ứng yêu cầu hoạt động nào đó, bảo đảm cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Năng lực là tổng hợp các yếu tố chủ quan của chủ thể, bao gồm cả yếu tố vật chất và
yếu tố tinh thần, cả sức mạnh đã có và sức mạnh ở dạng tiềm năng. Mỗi yếu tố đều
giữ một vị trí, vai trò khác nhau, song giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau trong việc tạo nên khả năng và điều kiện nội tại căn bản để chủ thể hoạt động
đạt chất lượng, hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tư chất, vốn tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo hoạt động luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Khái niệm năng lực tư duy lý luận:
Từ quan niệm trên có thể hiểu: Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm
chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn
những vấn đề của nhận thức và thực tiễn ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề
xuất cụ thể sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể.
Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư duy lý luận:
- Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào tư chất của mỗi cá nhân.
- Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào quá trình giáo dục và tự giáo dục của
chủ thể.
- Năng lực tư duy lý luận ảnh hưởng bởi môi trường sống, điều kiện kinh tế,
văn hoá - xã hội.
- Năng lực tư duy lý luận phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn của chủ thể.
- Năng lực tư duy lý luận chịu ảnh hưởng bởi nhu cầu, lợi ích.
- Năng lực tư duy lý luận chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của khoa
học và thực tiễn xã hội.
Năng lực tư duy lý luận của giáo viên:
Thứ nhất: tư duy lý luận giúp đội ngũ giáo viên ngày càng nhận thức thấu
đáo khoa học chuyên ngành và các khoa học khác, muốn giảng dạy tốt, đồi hỏi
người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, nhận thức sâu sắc những nội dung
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 9
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
khoa học thuộc nội dung lĩnh vực mình đảm nhiệm, đồng thời phải có một phong
kiến thức rộng về các khoa học liên ngành, nhiệm vụ của họ phải biến những tri
thức khoa học thành tri thức thường trực của bản thân. Điều đó chỉ có thể thực hiện
được nhờ các thao tác tư duy: bằng sự phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trù tượng
hóa, hệ thống hóa những khái niệm, phạm trù thuộc các lĩnh vực đời sống xã hội,
mà từ đó ngày càng nhận thức nhanh hơn đúng đắng hơn, sâu sắc hơn tri thức khoa
học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa hoc chuyên ngành và các khoa học khác có liên
quan.
Mặt khác, cuộc sống luôn luôn vận động, biến đổi để không bị lạc hậu với
thực tiễn, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên cập nhật thông tin, nghiên cứu
tài liệu, tìm tòi, tích lũy tri thức và giải đáp những vấn đề thực tiến đặt ra.
Như vậy nhờ có tư duy lý luận người giáo viên mới có thể ngày càng nhận
thức thấu đáo tri thức khoa học, từ đó có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy
của mình, đồng thời, khi đã nắm được bản chất tri thức khoa học, thì năng lực tư
duy lý luận của giáo viên được nâng lênh một trình độ mới, mặt khác năng lực tư
duy lý luận tuy có yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu vẫn là sản phẩm của lịch sử xã
hội, sản phẩm của quá trình học tập, rèn luyện của mỗi người. Cho nên, việc rèn
luyện tư duy lý luận khoa học, cũng là điều kiện tốt để đội ngũ giáo viên nhận thức
các tri thức khoa học ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ hai: tư duy lý luận giúp người giáo viên có điều kiện tìm tòi, lựa chọn
phương pháp giảng dạy hiệu quả, chất lượng của việc dạy học phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó, phương pháp giảng dạy của đội
ngũ giáo viên có một vai trò hết sức quan trọng. Thực tế quá trình đào tạo cho thấy,
hệ thống phương pháp giảng dạy rất đa dạng, phong phú, không tồn tại một hệ
phương pháp chung sẵn có và bất biến nào cho mọi môn học hay mọi quá trình dạy
học. Vấn đề này là ở chổ, người thầy phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để
truyền thụ kiến thức cho người học một cách hiệu quả nhất.
Vận dụng linh hoạt, sang tạo những thao tác cơ bản của tư duy lý luận như
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trù tượng hóa để xây dựng đề cương, soạn giáo
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 10
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
án, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin hiện đại thiết kế bài giảng, căn cứ vào
nội dung kiến thức, chương trình môn học, đối tượng đào tạo cụ thể, cơ sở vật chất
đảm bảo để người giáo viên lựa chọn phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp.
Để năng động hóa tư duy cho học sinh, đòi hỏi người giáo viên bên cạnh
phương pháp truyền thống, cần phải sử dụng có hiệu quả phương tiện công nghệ
hiện đại hỗ trợ, kết hợp nhuần nhiễn các phương pháp khác với phương pháp gợi
mở, nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải đặc người học vào “tình
huống có vấn đề” để kích thích sự tìm tòi, óc sáng tạo vào việc tìm lời giải đáp, có
như vậy mới giúp cho học sinh nâng cao khả năng phát hiện và giải quyết vắn đề
một cách nhanh nhạy, kịp thời, vì trong thực tế cuộc sống cũng như trong công tác,
người học thường gặp những tình huống như vậy. Phương pháp dạy tốt không chỉ
dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức cho người học mà còn thể hiện rõ ở các tình
huốn khác như giao bài tập, trao đổi, thảo luận, ở sự định hướng, hướng dẫn học
sinh tự học, tự nghiên cứu để tiếp tục tích lũy tri thức, phát triển tư duy và vận dụng
có hiệu quả kiến thức đã học vào hoạt động thực tiễn.
Thứ ba: tư duy lý luận giúp giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học, nghiên cứu khoa học là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của người giáo viên. Để
tiến hành nghiên cứu khoa học, người giáo viên không những phải tích lũy đủ lượng
kiến thức cơ bản, kiến thức cơ sở, kiến thức chuyên môn, kiến thức khoa học liên
quan, sự trải nghiệm thực tiễn nhất định, điều kiện môi trường bảo đảm mà còn phải
có phương pháp tư duy khoa học thì mới có thể thực hiện được. Nếu chỉ có tri thức
và kinh nghiệm không thôi thì chưa đủ, vì hoạt động của người giáo viên là hoạt
động tư duy ở trình độ cao, từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, vựa vào tri
thức khoa học, tri thức tích lũy kinh nghiệm của bản thân, kết hợp với những thao
tác tư duy khoa học để nhận thức được bản chất, quy luật vận động của đối tượng
nghiên cứu, chỉ ra xu hướng vận động, biến đổi, và đề xuất nhũng giải pháp cải tạo
đối tượng theo mục đích của chủ thể nghiên cứu.
Nếu năng lực tư duy lý luận càng cao thì khả năng thực hiện các thao tác tư
duy khoa học càng dễ dàng, sản phẩm tư duy đem lại có giá trị cao, chính vì thế mà
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 11
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học cũng như các nhiệm vụ khác ngày càng
tốt hơn. Điều này sẽ lý giải tại sao có nhiều người cũng được đào tạo như nhau, ở
trong cùng một môi trường công tác, điều kiện cơ sở vật chất như nhau, song có
người lại hơn hẳn người khác về khả năng nghiên cứu khoa học hay lĩnh vực khác,
phải chăng ở họ năng lực tư duy lý luận về một hai vài lĩnh vực nào đó vượt trội hơn
so với người khác, như vậy nhờ có tư duy lý luận sẽ giúp cho đội ngũ giáo viên thực
hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và những nhiệm vụ khác.
Thứ tư: tư duy lý luận là điều kiện để người giáo viên tiếp tục học tập, rèn
luyện nâng cao hơn nữa tư duy biện chứng duy vật. Phương pháp tư duy biện
chứng, phương pháp tư duy khoa học là những cách thức biện pháp, quy tắc, nguyên
tắc, thao tác tư duy nhất định nhằm “nhào nặng” các tri thức tiền đề, để xây dựng
thành những tri thức khoa học mới dưới dạng những khái niệm phán đoán, suy luận
hoặc giã thuyết, lý thuyết, lý luận khoa học mới, phản ánh khách thể nhận thức một
cách chính xác hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn. Phương pháp tư duy khoa học giúp
người giáo viên tiến hành các hoạt động thu thập sử lý thông tin, thiết kế đề cương
soạn giáo án, ứng dụng công nghệ thông tin, tiến hành giảng bài, nghiên cứu đề tài
khoa học…một cách có hiệu quả.
Để có được phương pháp tư duy biện chứng duy vật, người giáo viên phải có
một trình độ và năng lực tư duy lý luận nhất định, bởi vì tư duy lý luận vốn là lý
luận của phương pháp tư duy biện chứng, lý luận này chỉ ra cách thức, biện pháp,
quy tắc tiến hành các biện pháp tư duy. Phương pháp tư duy khoa học được xây
dựng dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật và phép biện chứng duy vật, thế giới quan
duy vật là thế giới quan khoa học, được hình thành và phát triển trong lịch sử, muốn
có nó, chủ thể nhận thức phải có một trình độ nhận thức cao, nội dung của phép biện
chứng duy vật bao gồm hệ thống những nguyên lý, quy luật phạm trù phản ánh sự
tồn tại, vận động biến đổi của thế giới vật chất, nội dung này được trình bài một
cách khái quát hóa, trừu tượng hóa cao, do vậy, nếu không nhờ tư duy lý luận thì
không thể nhận thức được đầy đủ tính khoa học của nó.
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 12
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
Khi có được tư duy lý luận thì việc kết hợp giữa thế giới quan khoa học và
phép biện chứng duy vật để trở thành phương pháp tư duy khoa học sẽ dễ dàng, từ
đây việc thực hiện các thao tác tư duy khoa học được tiến hành một cách nhanh
chóng, chuẩn xác để tạo ra tri thức mới. Bên cạnh đó nhờ có phương pháp tư duy lý
luận, sẽ giúp cho người giáo viên tiếp tục học tập, làm giào hơn vốn kiến thức và
kinh nghiệm bản thân, nguồn chất liệu phong phú cung cấp cho việc thực hiện các
thao tác tư duy khoa học thuận lợi, như vậy có thể khẳng định tư duy lý luận là cơ
sở trang bị cho phương pháp tư duy và cung cấp chất liệu cho người giáo viên thực
hiện các thao tác tư duy khoa học,quá trình này diễn ra nhanh chóng, mang lại hiểu
quả cao sẽ lại tiếp tục động viên người giáo viên tích cực rèn luyện, nâng cao hơn
nữa phương pháp tư duy biện chứng.
Thứ năm: tư duy lý luận là cơ sở giúp cho đội ngũ giáo viên rèn luyện để
ngày càng thể hiện phẩm chất, nhân cách sư phạm, đối với mối người,mỗi nghề cụ
thể, cần phải có những phẩm chất, nhân cách cần thiết mà nghề nghiệp đó đồi hỏi,
khi nói về đội ngũ nhà giáo, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã dạy “nghề dạy học là
những nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, nhân dân ta cũng tôn vinh, gọi
người thầy giáo là “kỹ sư tâm hồn”.Bởi dạy học không chỉ dạy chữ mà còn cao hơn
là dạy cho học trò đạo lý làm người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “người thầy
giáo tốt – thầy giáo sứng đáng là thầy giáo – sứng đáng là người vẽ vang nhất”.Như
vậy, tự bản thân nó, nghề dạy học có những đồi hỏi nghiêm ngặt không chỉ về trình
độ tri thức mà còn đồi hỏi rất cao về phẩm chất đạo đức, phương pháp, tác phong sư
phạm của người thầy. Để quá trình này viễn ra nhanh chóng, đòi hỏi người giáo viên
phải trải qua một quá trình tích lũy liên tục cộng với phương pháp tu dưỡng, rèn
luyện khoa học do tư duy lý luận của họ đem lại, bởi vì phẩm chất nhân cách của
người giáo viên nói chung và người giáo viên trẻ nói riên không phải tự nhiên mà
có, nó là một quá trình tích lũy, tu dưỡng rèn luyện theo năm tháng. Phẩm chất này
được hình thành và phát triển ngay từ khi còn là sinh viên đào tạo để trở thành giáo
viên phẩm chất đó lại tiếp tục được phát triển và hoàn thiện hơn trong thực tiễn công
tác. Để quá trình này diễn ra dễ dàng thuận lợi, tư duy và tư duy lý luận đã cụ thể
quá những mục tiêu, yêu cầu đào tạo, năng lực kiến thức chuyên môn, phẩm chất
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 13
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
đạo đức, năng lực sư phạm…thành những nội dung công việc hang ngày, giúp họ dễ
nhận thức, đồng thời chỉ ra những biện pháp, cách thức tiến hành tu dưỡng, rèn
luyện hiểu quả để nhanh chóng hoàn thiện đầy đủ nhân cách phẩm chất của người
giáo viên.
Quá trình tích lũy và hoàn thiện phẩm chất nhân cách sư phạm cũng là quá
trình người giáo viên rèn luyện những thao tác, kỹ năng, kỹ xảo tiến hành tư duy lý
luận, khi năng lực tư duy lý luận được nâng cao, nó lại tiếp tục giúp cho người giáo
viên tiếp tục tu dưỡng hoàn thiện phẩm chất, nhân cách sư phạm, ngày càng hoàn
thiện hơn. Cứ như vậy quá trình này diến ra một cách biện chứng giúp cho người
giáo viên không ngừng trưởng thành hơn về mọi mặt.[12, tr 33 ]
Năng lực tư duy lý luận của người giáo viên được biểu hiện cụ thể là năng
lực nhận thức ở trình độ lý luận, năng lực vận dụng tri thức lý luận vào hoạt động
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, năng lực vận dụng tri thức lý luận vào hoạt động
đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng… Nâng cao năng lực tư duy lý luận của
giáo viên là quá trình nhận thức và hoạt động của các chủ thể trên cơ sở nắm vững
tính quy luật, làm chuyển hoá, hoàn thiện các yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý
luận của giáo viên, đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường. Dựa vào
đó để đánh giá thực trạng giáo viên một cách hiệu quả và thiết thực nhất.
Tóm lại, tư duy lý luận giúp cho giáo viên có khả năng nhận thức ở trình độ
lý luận và vận dụng tri thức lý luận vào hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học
mang lại hiệu quả cao. Năng lực tư duy lý luận giúp cho giáo viên ngày càng nhận
thức thấu đáo tri thức của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các khoa
học xã hội khac, là điều kiện để giáo viên tìm tòi, lựa chọn phương pháp giảng dạy
hiệu quả, giúp họ thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ
khác, năng lực tư duy lý luận là điều kiện để người giáo viên tiếp tục học tập, rèn
luyện nâng cao hơn nữa trình độ kiến thức và phương pháp tư duy biện chứng, là cơ
sở giúp họ tự bồi dưỡng, rèn luyện, ngày càng hoàn thiện về phẩm chất, nhân cách
của người giáo viên trong Nhà trường.
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 14
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA GIÁO
VIÊN GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở TỈNH AN GIANG.
2.1. Những ưu điểm về năng lực tư duy lý luận của giáo viên giảng dạy môn
giáo dục công dân trường trung học phổ thông tỉnh An Giang hiện nay.
2.1.1. Ưu điểm về nhận thức chuyên môn của giáo viên giảng dạy môn
giáo dục công dân trường trung học phổ thông ở tỉnh An Giang.
Giáo viên giáo dục công dân có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như:
- Những tri thức cụ thể để tiếp tục học tập như ngoại ngữ, tin học…nhờ có
kiến thức về các lĩnh vực đó nên giáo viên có thể tiếp cận nhanh với thông tin mới.
- Những tri thức có tính phương pháp luận: như triết học, kinh tế chính trị,
chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh (quan điểm của Hồ Chí Minh về
giáo dục), những đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, phương pháp luận
nghiên cứu khoa học giáo dục. Nhờ vậy mà người giáo viên có phương thức hoạt
động thực tiễn sáng tạo và hiệu quả.
- Những tri thức nghiệp vụ sư phạm như Tâm lí học, Giáo dục học, những
hiểu biết về đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước, xu thế phát triển trong và
ngoài nước.
- Những tri thức về các lĩnh vực như văn hóa, lịch sử, những vấn đề lớn của
thời đại (trong và ngoài nước).
Những tri thức về các lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn, chính trị, pháp
luật, đạo đức…vừa là tri thức nền cho sự phát triển nhân cách của người thầy giáo
dạy giáo dục công dân vừa là tri thưc giúp người giáo viên phát triển mạnh về tư
duy trong quá trình dạy học.
Giáo viên nắm vững mục tiêu, chương trình, cấu trúc, nội dung môn giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông.
Giáo viên thấy rõ mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục công dân là một
bộ phận trong toàn thể kế hoạch dạy học của trường phổ thông, thấy được mối quan
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 15
GVHD: TS.GVC: Lê Duy Sơn
Luận Văn Tốt Nghiệp
hệ giữa kế hoạch dạy học và kế hoạch toàn diện, thấy được tính giao thoa của môn
giáo dục công dân trong kế hoạch dạy học và kế hoạch giáo dục của nhà trường
trung học phổ thông.
Mục tiêu và nội dung chương trình môn giáo dục công dân ở trường trung
học phổ thông được thiết kế dựa trên những giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối
sống của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với
năm mối quan hệ (với bản thân, mọi người, với công việc, với môi trường và với lý
tưởng của dân tộc của Đảng). Căn cứ vào những giá trị cốt lõi của con người Việt
Nam, được chuẩn hóa thành những chuẩn mực hành vi, chuẩn mực đạo đức, pháp
luật, chính trị, tư tưởng… để xác định rõ mức độ cần thiết phải đạt được về kĩ năng,
thái độ. Chính vì tính hệ thống, tính phát triển liên tục như vậy mà giáo viên giảng
dạy giáo dục công dân hiểu sâu chương trình, mục tiêu nội dung môn giáo dục công
dân ở trường trung học phổ thông.
Giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân thường xuyên theo dõi tình hình
chính trị xã hội trong và ngoài nước, biết tích lũy thông tin, có ý thức vận dụng
thông tin mới vào tổ chức dạy học.
Môn giáo dục công dân là môn học có nội dung liên quan đến các vắn đề giá
trị đạo đức, văn hóa, pháp luật, chính trị… mà nhân loại đang quan tâm giải quyết,
đồng thời trang bị cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan để học sinh có ý thức,
có phương pháp giải quyết những mâu thuẫn đặt ra với mỗi cá nhân với tư cách là
một chủ thể phát triển tự nhiên, xã hội và phát triển nhân cách của mỗi người.
Những đặc điểm trên đòi hỏi người giáo viên phải nghiên cứu, liên hệ mục
tiêu, kiến thức của các bài với những vấn đề của thực tiễn đòi hỏi người giáo viên
phải có khả năng tư duy cao, có trình độ chuyên môn tốt.
Giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân biết tiếp cận với các kênh thông
tin, biêt tích lũy sự kiện, tư liệu qua các dân kiện của Đảng và Nhà nước, qua các
phương tiện thông tinh đại chúng (vô tuyến, đài phát thanh, báo, tạp chí, các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước), qua các hội thảo, hội nghị, các lớp tập huấn
SVTH: Huỳnh Thanh Thuận
Trang 16
- Xem thêm -