Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh thái b...

Tài liệu Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh thái bình hiện nay

.PDF
101
58
77

Mô tả:

LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quán triệt quan điểm của Đảng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay và để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước, tỉnh Thái Bình đã không ngừng xây dựng và phát triển về mọi mặt. Đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục bởi “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Từ xa xưa, Thái Bình vốn là một tỉnh thuần nông không những có truyền thống thâm canh giỏi mà còn là một trong những tỉnh có nền văn hiến cao, có truyền thống “hiếu học”. Hơn nửa thế kỷ qua, tuy còn là một tỉnh rất khó khăn về kinh tế, nhưng Thái Bình vẫn không ngừng đầu tư cho sự nghiệp “trồng người”, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Từ ngày hoà bình lập lại, bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp giáo dục của tỉnh Thái Bình được đặc biệt coi trọng, được coi là “chìa khoá” để mở cửa vào lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật. Gắn liền với phong trào sản xuất, với khẩu hiệu “lúa xanh tươi, người biết chữ” Thái Bình đã được tặng thưởng huân chương lao động hạng Nhì. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra vô cùng ác liệt nhưng sự nghiệp giáo dục của tỉnh Thái Bình vẫn được duy trì và phát triển. Hiện nay trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và bùng nổ về khoa học công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hệ thống các trường chuyên nghiệp, kinh tế kỹ thuật, trường chính trị, trường dạy nghề đã phát huy tác dụng và góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cũng như nguồn nhân lực cho tỉnh Thái Bình. Nhiều năm qua, Thái Bình “được mùa” về sự nghiệp “trồng người”. “Đất học” Thái Bình có nhiều tài năng nở rộ, hàng năm số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng đạt từ 20% đến 30%. Các làng quê và đô thị của Thái Bình đã nuôi dưỡng nên biết bao cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư… Họ đã và đang làm giàu cho quê hương, đất nước. Nhiều người con của Thái Bình đã và đang giữ những cương vị chủ chốt ở các địa phương và Trung ương [2]. Những năm gần đây, Thái Bình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của Thái Bình. Quê lúa đã dần đổi màu, những nhà máy, những khu công nghiệp mọc lên ngày càng nhiều. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá, của sự mở cửa giao lưu, hội nhập với thế giới… một mặt, đã tạo nhiều cơ hội học tập và việc làm cho mọi thành viên trong xã hội. Mặt khác, cũng đem lại những nguy cơ và thách thức cho mỗi cá nhân và cả xã hội, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên. Truyền thống “đất học” Thái Bình đang có nguy cơ bị đe doạ bởi các hiện tượng chán học, lười học, bỏ giờ, học đối phó, quay cóp trong thi cử. Thêm vào đó là nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý… đã và đang xâm nhập vào nhà trường ở Thái Bình gây ảnh hưởng xấu đến một bộ phận học sinh, sinh viên. Tất cả những hiện trạng tiêu cực đó đã ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập của học sinh, sinh viên Thái Bình, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh. Những hiện tượng trên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa biết phát huy và nâng cao những mặt mạnh và tích cực của những sinh viên, và bản thân mỗi sinh viên chưa thực sự cố gắng phát huy hết nội lực của mình trong quá trình học tập và rèn luyện. Trước thực trạng như vậy, cùng với yêu cầu đổi mới ở tỉnh Thái Bình và phát huy truyền thống của quê hương, đất nước, chúng tôi thực sự thấy bức xúc và muốn góp phần nhỏ bé để có thể giúp các em sinh viên Thái Bình có thể nâng cao vai trò nhận thức của họ trong quá trình học tập. Chỉ có như vậy thì Thái Bình mới thực sự góp sức mình vào công cuộc phát triển chung của đất nước. Nhận thức được vấn đề cần phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở Thái Bình trong thời kỳ đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của tỉnh, của đất nước, là cần có một đội ngũ lao động có thể lực, trí lực, có tâm huyết, trung thành với lý tưởng và nhiệt tình cách mạng. Vì lẽ đó tác giả đã chọn đề tài này với mong muốn có thể góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của đất nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề liên quan đến chủ thể nhận thức, khách thể nhận thức đã được một số tác giả nghiên cứu như: Luận án tiến sỹ của Nguyễn Tiến Thủ “Quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên Việt Nam hiện nay”, Hà Nội 2001. Luận án tập trung nhiều vào lý luận về chủ thể và khách thể nhận thức. Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đức Hoàn “Phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay” (Qua thực thế một số trường cao đẳng ở tỉnh Hải Dương), Hà Nội 2001. Luận văn tập trung vào đối tượng là sinh viên cao đẳng khối Kinh tế kỹ thuật ở tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sỹ của Phùng Minh Hải “Vấn đề phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của học viên hệ Trung cấp lý luận chính trị ở Cần Thơ hiện nay”, Hà Nội 2003. Luận văn tập trung vào nghiên cứu đối tượng là học viên hệ Trung cấp lý luận chính trị ở Cần Thơ. Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng đề cập tới vai trò chủ thể và khách thể cũng như mối quan hệ biện chứng giưã chủ thể và khách thể như: “Hệ tự tưởng Đức”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, “Bút ký triết học”… Tác phẩm “Phát huy tinh thần học tập cầu học, cầu tiến bộ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dã nhấn mạnh tới vai trò chủ thể nhận thức trong học tập. Trong các Nghị quyết của Đảng ta, đặc biệt là các nghị quyết từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX luôn đề cập đến vấn đề phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao tinh thần tự học… Vấn đề “Nõng cao vai trũ chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viờn ở tỉnh Thỏi Bỡnh hiện nay”, với đối tượng sinh viên đại học Y khoa, sinh viên cao đẳng Sư phạm và sinh viên trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật ở một tỉnh thuần nông nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, một miền quê có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội rất đặc trưng vẫn là mảng đề tài cần được tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích Trên cơ sở phân tích thực trạng nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình, đề xuất một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. - Nhiệm vụ + Phân tích tính tất yếu khách quan của việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. + Khảo sát, điều tra, phân tích thực trạng nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. + Đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn + Khảo sát sinh viên của Đại học Y khoa Thái Bình, sinh viên Cao đẳng Sư phạm và sinh viên Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật. + Phạm vi nghiên cứu tập trung và trực tiếp của luận văn là vấn đề “Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay”. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn - Cơ sở lý luận + Luận văn được viết dựa trên những quan điểm triết học Mác - Lê nin về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức, về lý luận nhận thức. Luận văn cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng và sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. + Luận văn được viết dựa trên những nghị quyết, quyết định và thông tri về giáo dục và đào tạo có liên quan của tỉnh Thái Bình, của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của Bộ Y tế. - Phương pháp nghiên cứu + Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa DVBC và CNDVLS. + Kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, phối hợp với các phương pháp so sánh, thống kê… để làm rõ vấn đề mà luận văn đề cập. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Góp phần luận chứng cho vấn đề vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Qua điều tra thực tế, tổng kết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nhằm nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay. Đưa ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt thực tiễn, luận văn là sự vận dụng, cụ thể hoá một số vấn đề lý luận của Triết học Mác - Lê nin vào thực tiễn giáo dục, đào tạo ở tỉnh Thái Bình hiện nay. Vì lẽ đó, những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết sẽ góp phần thiết thực về cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng ở Thái Bình hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Tính tất yếu của việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay 1.1. vai trò Chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên hiện nay 1.1.1. Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên * Đặc điểm tâm - sinh lý, xã hội của sinh viên Sinh viên là một nhóm xã hội đặc thù trong tầng lớp thanh niên, họ tồn tại đan xen trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, dân tộc, đoàn thể. Sinh viên đang học tập và sinh sống ở tỉnh Thái Bình thường có độ tuổi 17-18 đến 24-25, một số ít sinh viên ở độ tuổi 25-30. - Về sinh lý: ở độ tuổi 17-25 hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và phối hợp giữa các chức năng. Thời kỳ đầu của giai đoạn này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3 trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Bộ não đã đạt được trọng lượng tối đa (khoảng 14.000gram), số tế bào thần kinh phát triển tương đối đầy đủ. Lứa tuổi này hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt đến mức trưởng thành. Đang trong giai đoạn “dạy thì” các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình hoàn thiện. Giới tính phân biệt rõ và phát triển đầy đủ ở mỗi giới cả về hình thể đến biểu hiện nội tiết tố. - Về tâm lý: 17-25 tuổi là thời kỳ phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận lô gích, trong lĩnh hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và nghi ngờ. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển khả năng hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập cao. ở độ tuổi này sinh viên có tính nhạy bén cao, khả năng giải thích và gắn ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào kinh nghiệm và tri thức có trước đây. Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho lứa tuổi này biết cách lĩnh hội tối ưu tri thức và đó chính là cơ sở vững chắc cho toàn bộ quá trình học tập và nghiên cứu khoa học của mỗi một sinh viên. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức và có thái độ với bản thân, là sự đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu mà xã hội đòi hỏi. - Về mặt xã hội: Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về đạo đức và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là họ có vai trò xã hội của người lớn. Người sinh viên đã có kế hoạch cho lao động của riêng mình, độc lập trong phán đoán và hành vi, bắt đầu thể nghiệm mình trong cuộc sống. Vì ở độ tuổi sau trẻ em và bắt đầu thành người lớn, nên thế giới nội tâm của họ là vô cùng phức tạp, phát triển nhân cách của sinh viên là một quá trình chuyển từ các yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu của bản thân sinh viên và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực của chính bản thân họ. Những mâu thuẫn chính là: + Mâu thuẫn giữa ước mơ của người sinh viên với khả năng điều kiện và kinh nghiệm để thực hiện ước mơ đó. + Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập chuyên sâu những môn ưa thích và yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập do nhà trường quy định. + Mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin vô cùng phong phú với khả năng điều kiện để xử lý thông tin. Về thái độ học tập của sinh viên thì có rất nhiều kiểu khác nhau. Có sinh viên học chỉ vì nghề nghiệp mà không hề quan tâm đến các lĩnh vực trí thức cũng như hoạt động xã hội khác. Họ luôn thực hiện bài tập theo yêu cầu và chỉ cần đạt điểm trung bình. Ngoài sách bắt buộc phải đọc thì họ chỉ đọc theo ý thích, không liên quan gì đến sự phát triển nghề nghiệp. Có sinh viên lại thích các môn học mà họ coi là tri thức về cuộc sống nói chung trên cơ sở lựa chọn riêng của mình. Họ quan tâm nhiều đến thế giới tư tưởng và sách. Ngoài giờ học bắt buộc, họ tự nguyện tham gia vào các chuyên đề tự chọn, những giờ phụ đạo, các buổi hoà nhạc… Họ muốn hiểu biết các lĩnh vực mà họ quan tâm, họ luôn tham gia vào các tổ chức khoa học và né tránh các tổ chức tập thể, các công việc xã hội không liên quan trực tiếp đến việc học tập. Với những sinh viên này thì học tập thực sự là những khát khao tri thức và kinh nghiệm sống. Cũng có những sinh viên vừa ham thích sách vở và học tập, nhưng vẫn tham gia các hình thức hoạt động và đời sống tập thể, họ cố gắng đạt điểm cao trong các kỳ thi, coi hoạt động tập thể, có ảnh hưởng tích cực đến bản thân. Có những sinh viên luôn chú ý đến các hoạt động xã hội của nhà trường hơn là bản thân các khoa học. Họ gắn bó với trường và tham gia tích cực vào các hoạt động bề nổi. Với họ thời sinh viên không có nghĩa chỉ là giảng đường, mà còn có các câu lạc bộ, các tổ chức sinh viên… Họ cũng cố gắng để có "mảnh bằng", nhưng ít khi vượt quá ngưỡng tối thiểu. Ngoài những đặc điểm trên, ở vào tuổi của mình sinh viên còn ít từng trải, thiếu kinh nghiệm và vốn sống hạn chế cho nên bên cạnh rất nhiều ưu điểm thì sinh viên còn bộc lộ những hạn chế không tránh khỏi do khí chất của mình như: hấp tấp, vội vàng do muốn sớm khẳng định mình nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống. Tính tự phụ, bồng bột, chủ quan vì muốn nhập cuộc để tự khẳng định mình nên thiếu kiềm chế, nhẹ dạ, cả tin, gặp khó khăn là dễ hoang mang, dao động, dễ bị kích thích, thiếu tự chủ do hệ tim mạch và hệ thần kinh chưa ổn định. Khí chất của thanh niên chưa cân bằng nên dễ bốc đồng và thường bị lợi dụng. Do đặc điểm về tuổi tác của mình nên sinh viên thường tiếp thu thông tin ít chọn lọc, hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng lại nhanh quên quá khứ. Vì lẽ đó mà trong quá trình giảng dạy cho sinh viên, bên cạnh việc giáo dục chuyên môn nghiệp vụ thì phải giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị và giá trị truyền thống cho sinh viên. Hiểu được đặc điểm tâm lý, xã hội của sinh viên, bản chất tốt đẹp, khả năng cách mạng của tuổi trẻ cũng như những hạn chế của họ là một vấn đề rất quan trọng để có nhận thức đúng, có thái độ đánh giá đúng và có quan điểm giáo dục, vận động, phát triển họ một cách khoa học, hiệu quả và như vậy sẽ tạo ra những thành quả lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực mới góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Sau 20 năm đổi mới, do những biến đổi trong chính sách kinh tế - xã hội và ngoại giao, kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách ngoại giao từ chỗ chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu sang đa phương hoá, đa dạng hoá dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thang giá trị và định hướng xã hội của thanh niên - sinh viên. Nhiều đề tài cấp Nhà nước như đề tài KX-04-09 “Những luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách thanh niên hiện nay”. Đề tài KX07-10 “ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế thị trường đối với sự phát triển nhân cách con người Việt Nam”… đều nhận định rằng thang giá trị và sự lựa chọn giá trị trong thanh niên, sinh viên hiện nay đã có sự thay đổi trên cả 2 khía cạnh. Thứ nhất: Sự biến đổi của chính các giá trị. Hiện nay, một số các giá trị truyền thống đã được thay đổi về nội dung như, những giá trị đề cao tinh thần hy sinh , xả thân vì nước, vì dân trong thời kỳ chiến tranh đã được thay thế bằng nội dung mới là phải làm tất cả những gì để dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các giá trị về ý thức cộng đồng, về truyền thống đoàn kết không chỉ được quan niệm là hy sinh lợi ích của cá nhân mà còn là sự kết hợp giữa các lợi ích xã hội tập thể và cá nhân, coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội. Trong lao động sản xuất không chỉ là cần cù, chịu khó mà cần phải lao động có tri thức khoa học, có lương tâm trách nhiệm, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Trong cơ chế hiện nay, đòi hỏi con người phải không chỉ dám nghĩ, dám làm mà còn dám chịu trách nhiệm, chấp nhận cạnh tranh, liên doanh liên kết với các cá nhân, các tổ chức kinh tế dịch vụ trong nước và quốc tế. Thứ 2: Sự thay đổi trật tự ưu tiên trong hệ thống giá trị. Qua điều tra 3.000 sinh viên ở 3 trường đại học Y khoa Thái Bình, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Thái Bình và trường cao đẳng Sư phạm Thái Bình chúng tôi thấy các giá trị sinh viên Thái Bình quan tâm nhất là: Bảng 1.1: Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay STT Các giá trị Tỷ lệ (%) 1 Có việc làm và lập nghiệp 99 2 Có học vấn rộng và tư duy sáng tạo 70 3 Có cuộc sống gia đình hạnh phúc 90 4 Có nhu cầu mới, nếp sống văn minh 70 5 Có bản lĩnh, nhân cách công nhân 51 Nguồn: Qua điều tra khảo sát 3.000 snh viên của các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Thái Bình từ tháng 4 - tháng 5/2005. So với kết quả điều tra của đề tài: “Sinh viên - nhu cầu, nguyện vọng” do hội thanh niên thực hiện thì các chỉ số tương ứng là: 83%, 64%, 56,2%, 52,4% và 51,5%. Như vậy quan niệm của sinh viên ở tỉnh Thái Bình về trật tự ưu tiên các giá trị có những điểm khác biệt so với sinh viên của cả nước. Qua điều tra xã hội học, của tác giả Trần Xuân Vinh (1995) “Sự biến đổi một số giá trị cơ bản và thanh niên hiện nay” [103, tr.40 - 43] thì chỉ có 12,1% sinh viên mong muốn được tham gia quản lý xã hội, 26,7% xây dựng Đảng, đoàn, 12,9% lựa chọn nghề nghiệp để được đóng góp sức lực của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong khi đó 81,2% sinh viên lựa chọn cho mình nghề nghiệp có thu nhập cao là quan trọng hàng đầu. Như trên đã trình bày thì giá trị không hoàn toàn là cái bất biến, mà nó luôn biến đổi để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Sự biến đổi ở đây không chỉ về nội dung mà còn về trật tự ưu tiên và xuất hiện thêm những giá trị mới. Có sự biến đổi đó của các giá trị là do sự biến đổi của thực tiễn xã hội và nhận thức của con người. Nền kinh tế - xã hội của chúng ta đang có sự chuyển mình ghê gớm, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của thang giá trị. Từ đó dẫn đến việc chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá và định hướng cho sinh viên biết kết hợp một cách hài hoà giữa các giá trị, nhằm giảm thiểu những lệch lạc, cực đoan trong việc lựa chọn của các em. Qua kết quả điều tra xã hội học ở 3 trường đại học Y Thái Bình, cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Thái Bình, cao đẳng Sư phạm Thái Bình và qua một số đề tài nghiên cứu về thanh niên, sinh viên Việt Nam, chúng tôi thấy thanh niên - sinh viên là những con người về thể chất đã đạt đến độ hoàn chỉnh, là thời kỳ phát triển đầy đủ các tố chất của con người Việt Nam hiện đại. Và như vậy thì sinh viên Thái Bình cũng không nằm ngoài xu hướng chung của sinh viên cả nước trong quan niệm về trật tự ưu tiên các hệ thống giá trị cho dù họ có một số những quan điểm riêng. Từ những điểm đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rất rõ sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập là những người trẻ, với độ tuổi 18-25 là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, đầy ước mơ và khát vọng, tuổi của tương lai, với nghị lực tiềm tàng, tính năng động trong cuộc sống, là một thế hệ hội đủ các tố chất: Yêu nước, thông minh, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có nghị lực, ham học lập để có việc làm và lập nghiệp. * Tính đặc thù của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập Chúng ta muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng thì không thể không nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên chính ở đây là một bộ phận quan trọng của quá trình dạy - học. Trước hết chúng ta phải hiểu quá trình dạy - học là gì ? Từ đó tìm hiểu tính đặc thù của sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập. Học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh, sinh viên là chủ thể, tri thức khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Học là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Chiếm lĩnh tri thức khoa học là mục đích của việc học, quá trình này được thực hiện từng bước như sau: Trước hết học sinh, sinh viên phải nắm vững nghĩa, đào sâu ý chứa đựng trong các khái niệm, các tri thức khoa học. Sau đó tái tạo các khái niệm, các tri thức khoa học đó trong bản thân, và phải thao tác với nó, sử dụng nó giống như một công cụ, một phương pháp để chiếm lĩnh thêm các khái niệm và tri thức khoa học khác hoặc để mở rộng, đào sâu, nâng cao thêm chính các khái niệm, tri thức đó ở trình độ lý thuyết cao hơn. Khi đã chiếm lĩnh được các khái niệm, các tri thức khoa học thì người học sẽ biến chúng từ trong kho tàng tri thức xã hội thành học vấn của riêng mình. Từ đó hình thành cho mình một thái độ mới trong việc đánh giá các giá trị tinh thần và vật chất của thế giới khách quan. Như vậy, khi thực hiện thành công quá trình chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học thì người học sẽ thực hiện được 3 mục đích: Nắm vững khái niệm, tri thức, phát triển tư duy lý luận và giáo dục đạo đức. Ba mục đích này không tách biệt nhau mà chúng gắn bó, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau. Về cấu trúc của việc học có 2 chức năng thống nhất với nhau. Ngoài việc lĩnh hội, tiếp thu thông tin dạy của thầy thì quá trình tự điều khiển để chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học của người học sinh, sinh viên (tự giác, tích cực, tự lực) là rất quan trọng. Nội dung của học chính là nội dung của việc chiếm lĩnh các khái niệm, các tri thức khoa học. Điều quan trọng của việc chiếm lĩnh nội dung của khoa học, của các tri thức khoa học là lĩnh hội phương pháp kiến tạo nên các khái niệm từ đó rút ra phương pháp nhận thức khoa học nói chung. Ngoài ra việc chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học, người học còn phải nắm vững quá trình phát triển lô gích của khái niệm, của tri thức khoa học. Bởi vì khái niệm khoa học luôn vận động, biến đổi và phát triển cùng sự vận động, phát triển của thực tiễn. Tóm lại, nội dung của học là một nguyên lý khái niệm của môn học, cấu trúc lô gích của môn học đó, các phương pháp đặc trưng của khoa học, ngôn ngữ của khoa học đó và biết ứng dụng những hiểu biết đã có vào việc học tập và lao động của mình. Từ đó hình thành khái niệm mới, tri thức mới nhưng là đổi mới đối với bản thân học sinh, sinh viên đó là phương pháp chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Như vậy, sinh viên học có nghĩa là nhận thức. Phương pháp học cũng là những phương pháp nhận thức. Muốn học tốt thì cần phải thống nhất giữa mục đích, nội dung và phương pháp học. Đó là sự điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh khoa học trên cơ sở sự tự điều khiển và hướng dẫn của người dạy. Dạy - là quá trình điều khiển, tối ưu hoá quá trình học sinh, sinh viên chiếm lĩnh khái niệm khoa học, tri thức khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Dạy học có mục đích là điều khiển sự học tập của học sinh, sinh viên. Dạy có 2 chức năng tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau, đó là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học của người học. Sơ đồ 1.1: Quá trình dạy học Khái niệm khoa học, tri thức khoa học Dạy Truyền đạt Điều khiển Học cộng tác Lĩnh hội Tự điều khiển Quá trình học tập của sinh viên thực chất là quá trình nhận thức, tức là đi từ “trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”, chỉ có điều quá trình đó luôn có sự giúp đỡ, định hướng, hướng dẫn của giáo viên. Đây chính là nét đặc thù của quá trình nhận thức trong học tập của sinh viên. Trong quan hệ với người dạy thì sinh viên là khách thể của quá trình giáo dục và đào tạo, nhưng trong quan hệ với tri thức khoa học và thực tiễn xã hội thì sinh viên lại tồn tại với tư cách là chủ thể của các quá trình nhận thức và ở góc độ này thì tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội lại trở thành khách thể nhận thức của sinh viên - chủ thể nhận thức. Như vậy sinh viên luôn tồn tại trong mối quan hệ “kép” vừa là khách thể lại vừa là chủ thể của quá trình dạy - học. Trong quan hệ với nhà trường, với giáo viên thì họ là khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục nhà trường, với giáo viên thì họ là khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục và đào tạo. Nhưng trong quá trình học tập nghiên cứu khoa học thì họ là chủ thể nhận thức. * Vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập Như trên chúng ta đã rõ, trong quá trình học tập thì sinh viên là chủ thể nhận thức còn các tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội chính là khách thể nhận thức của sinh viên. Quá trình sinh viên học tập chính là quá trình nhận thức dưới sự hướng dẫn của giảng viên, nhưng vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức là hết sức quan trọng. Điều này thể hiện ở điểm cơ bản sau: - Sinh viên đóng vai trò quyết định trong quá trình học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình biến học tập thành tự học tập. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tri thức mới từ những tri thức đã lĩnh hội. - Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình vận dụng các tri thức đã lĩnh hội vào học tập và nghiên cứu khoa học. 1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sinh viên - Chủ thể nhận thức trong học tập Chất lượng giáo dục, đào tạo có liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn cho giáo dục, đào tạo của chúng ta đạt kết quả cao đáp ứng được những đổi thay to lớn của thời đại (xu thế quốc tế hoá, tin học hoá - hướng tới xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức) Đảng ta cần phải tích cực chuyển nền giáo dục, đào tạo sang hệ thống học tập suốt đời, tăng cường phát triển các chương trình phù hợp với nền kinh tế - xã hội và yêu cầu của mỗi cá nhân. Chuyển giáo dục, đào tạo từ một hệ thống đồng nhất sang một hệ thống giáo dục đa dạng và mềm dẻo, hiện đại hoá các phương pháp dạy học. Để có thể thực hiện được những yêu cầu trên thì cần phải có một môi trường giáo dục tốt, phải có một đội ngũ các thầy giáo, cô giáo giỏi cùng các cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo trình, sách giáo khoa, thư viện… phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Từ một hệ điều kiện có liên quan và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào tạo thì có thể nói có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập như: - Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo - Những vấn đề về quản lý, các quy chế, cách kiểm tra, đánh giá chất lượng. - Đội ngũ giáo viên và chất lượng, động lực của đội ngũ này. - Cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính. - Chế độ sử dụng và đãi ngộ với người có trình độ đại học, sau đại học. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ xin được trình bày một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. * Mục tiêu, cấu trúc và nội dung của chương trình Mục tiêu của giáo dục đại học, cao đẳng là đào tạo nhân lực có trình độ cao, các chuyên gia cho tất cả các lĩnh vực phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta chưa có điều kiện để giáo dục đại học, cao đẳng thực hiện được mục tiêu dân trí, mà trước tiên là phải tập trung vào việc đào tạo nhân lực, trong đó nhân tài là nhân lực có năng lực đặc biệt, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có thể phù hợp ở thực tế Việt Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như định hướng đổi mới mục tiêu đào tạo đại học, cao đẳng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), hình thức đào tạo ở bậc đại học được cấu trúc lại bao gồm 2 bộ phận. + Kiến thức giáo dục đại cương Bao gồm các học phần gồm 6 lĩnh vực: Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa học Tự nhiên và Toán học, Ngoại ngữ, giáo dục Quốc phòng và giáo dục Thể chất. Giúp cho người học có tầm nhìn rộng, có thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn, hiểu biết về tự nhiên, xã hội và bản thân con người, nắm vững những tư duy khoa học, biết tôn trọng các di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân, biết yêu Tổ quốc và có năng lực bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Các học phần về giáo dục đại cương có thể tồn tại dưới những môn học thích hợp từ một số ngành khoa học. + Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp Bao gồm 3 nhóm học phần: Cốt lõi (Kiến thức cơ sở và ngành học chuyên ngành, bao gồm các học phần khoa học cơ bản phục vụ cho chuyên môn, Ngoại ngữ chuyên ngành và khoa học quân sự chuyên ngành). Nhóm học chuyên môn chính và nhóm học phần chuyên môn phụ nhằm củng cố cho người học những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ban đầu. Chương trình đào tạo cao đẳng cấu trúc có thể khác ở cấp này, có 2 loại hình chính là: cao đẳng thực hành như: (cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Nông nghiệp, cao đẳng Y tế…) và cao đẳng cơ bản như: (cao đẳng Sư phạm và một số cao đẳng Nghiệp vụ…). Chương trình cao đẳng thực hành chủ định cung cấp cho người học các kiến thức và kỹ năng hoạt động nghề nghiệp là chủ yếu, do đó trong chương trình đào tạo khối lượng giáo dục đại cương giới hạn ở mức vừa đủ cho người học tiếp thu được các kiến thức nghề nghiệp, một bộ phận kiến thức về nghề nghiệp được bố trí dưới dạng các học phần thực hành (có thể đến 50% hoặc hơn). Ngược lại, chương trình của các dạng cao đẳng cơ bản có thể xem như một bộ phận cấu thành của chương trình đại học thuộc ngành tương ứng. Do vậy chương trình của các dạng cao đẳng này có thể chứa trọn vẹn hoặc chứa một phần khối lượng kiến thức giáo dục đại cương ở chương trình đại học. Nội dung giáo dục đại học, cao đẳng phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiện đại và phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, hội nhập với trình độ chung trên thế giới. Nội dung cụ thể và mỗi lĩnh vực đào tạo đã được xác định theo Điều 36, Luật giáo dục, chú ý sát hợp với yêu cầu của đất nước, và cập nhật trình độ Quốc tế. Mỗi một khoá học cao đẳng 3 năm, đại học: 4-5 năm, riêng trường đại học Y khoa là 6 năm. Như vậy, chính mục tiêu, cấu trúc, nội dung của chương trình giáo dục và đào tạo sẽ quy định sinh viên - chủ thể nhận thức phải lĩnh hội đủ lượng tri thức đại cương, tri thức chuyên nghiệp ở từng cấp học, ngành học như thế nào. * Hệ thống giáo trình Để việc học tập của sinh viên đạt kết quả cao và chất lượng tốt thì ngoài các tài liệu phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu, hệ thống giáo trình có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi giáo trình của một môn học phải đạt được mục tiêu là trang bị một lượng tri thức khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên sâu có tính chất chuyên biệt nhưng không có nghĩa là hoàn toàn độc lập, tách rời với các môn khoa học khác. Mỗi giáo trình của môn học là một hệ thống cấu trúc toàn vẹn được tạo bởi 2 khối tri thức. + Khối tri thức nền tảng: Là một hệ thống tri thức thuộc về cơ sở của khoa học tạo nên môn đó. Khối nền tảng được xây dựng, thiết kế như một hệ thống toàn vẹn theo lô gíc chặt chẽ và khoa học, đồng thời phải kết hợp với lô gíc của sư phạm phù hợp với những đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi. Khối tri thức nền tảng giữ vai trò quy định, chủ đạo của môn học. + Khối tri thức hỗ trợ: Là những kỹ năng của khoa học khác mà ta cần huy động để hỗ trợ cho việc tiếp thu kiến thức nền tảng. Hai khối kiến thức trên tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, tạo sự liên thông môn học như là một chỉnh thể thống nhất. Trong hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay có rất nhiều giáo trình cho các môn học, về cơ bản đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên trên thực tế trong những năm qua cho thấy phần lớn các giáo trình đại học, cao đẳng ở nước ta còn nặng về lý thuyết, coi trọng tri thức hàn lâm, nhẹ về ứng dụng thực hành, chất lượng giáo trình còn thấp… Vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa bằng nhiều biện pháp như: Tăng nguồn kinh phí, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với các tác giả nhằm biên soạn, đổi mới nội dung, chương trình các giáo trình, sách giáo khoa cho phù hợp với điều kiện hiện nay của tỉnh Thái Bình và của đất nước. Trên cơ sở hệ thống giáo trình có chất lượng mới có thể phát huy tính chủ động, tích cực của sinh viên trong học tập. * Hệ thống các phương pháp Hệ thống các phương pháp trong quá trình dạy - học là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. Thực chất của phương pháp giáo dục ở đại học, cao đẳng là khuyến khích sự chủ động học tập, nghiên cứu khoa học của người học kết hợp với việc giảng dạy, hướng dẫn của người dạy. Phương pháp phải thể hiện được nguyên lý giáo dục: Lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất. Chấm dứt tình trạng dạy chạy, không có thực hành, thực tập. Đặc biệt cần sớm chấm dứt tình trạng xa rời cuộc sống và đề phòng khuynh hướng “phi chính trị” trong các trường. Cụ thể như sau: + Người giảng viên phải sử dụng một loạt các phương pháp để có thể bồi dưỡng năng lực, định hướng trong hoạt động khoa học và đời sống cho sinh viên. Quá trình này không phải đến giai đoạn này mới bắt đầu, mà thực tế đã được hình thành từ trong các trường phổ thông. Chẳng hạn ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường phổ thông, tuỳ theo năng khiếu và sở thích của mình mà mỗi học sinh đã xác định hướng đi và nghề nghiệp cho bản thân bằng cách lựa chọn ngành nghề và các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Tuy đã được định hình một cách cơ bản từ khi còn là học sinh phổ thông. Song vẫn là cần thiết khi các trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ giúp sinh viên của mình định hướng và xác định lại, giúp họ tự tin và quyết tâm học tập hơn nữa để có một cơ sở tốt cho tương lai, nghề nghiệp sau này. + Phát triển tư duy trừu tượng, tư duy lý luận Lượng kiến thức mà mỗi sinh viên cần phải lĩnh hội khi học tập và nghiên cứu tại các trường đại học, cao đẳng là rất lớn. Vì lẽ đó người giảng viên chỉ có truyền đạt một số lượng kiến thức cơ bản nhất, việc còn lại là phải dạy cách học cho sinh viên. Bởi có tới 1/3 các khái niệm, phạm trù là sinh viên phải tự học để hiểu. Do đó, dạy phương pháp cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng chính là rèn luyện tư duy lý luận, tư duy trừu tượng, rèn luyện ngôn ngữ để nắm được các thuật ngữ mới, sử dụng để diễn đạt, làm bài kiểm tra, bài thi chuẩn xác và lô gíc. + Rèn luyện năng lực vận dụng các tri thức và giải pháp hoạt động trí tuệ để nắm được các đối tượng và các quá trình mới. Bồi dưỡng năng lực dự báo khoa học. Đây là một năng lực cần thiết của mỗi sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu. Từ những tri thức cơ bản và chuyên ngành đã có, sinh viên có thể dự báo được những tiến bộ của nó trong tương lai và những ứng dụng của nó trong đời sống xã hội. + Bồi dưỡng năng lực tổ chức lao động một cách khoa học. Trong những năm gần đây ngành giáo dục, đào tạo đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nhưng do rất nhiều nguyên nhân mà việc đổi mới phương pháp còn rất nhiều hạn chế làm cho sinh viên chưa thể chủ động trong học tập và chưa phát huy được tính sáng tạo của mình. * Đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng: Giảng viên là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới chất lượng học tập và nghiên cứu của sinh viên. Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn đánh giá cao công lao của các thầy giáo, cô giáo, của nhà trường đối với việc giảng dạy thế hệ trẻ. Trong những năm đổi mới, truyền thống tôn sư trọng đạo (hoặc như dân gian nói: Không thầy đố mày làm nên) đã được giữ gìn. Từ năm 1984, Chính phủ quyết định lấy ngày 20/11 hàng năm là “Ngày nhà giáo Việt Nam” trở thành ngày hội của toàn dân. Nhà nước cũng đã có các danh hiệu cao quý do Chủ tịch nước ký tặng các nhà giáo như danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, “Nhà giáo nhân dân”. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ký tặng các nhà giáo có nhiều thành tích đóng góp nhiều năm cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Huy hiệu “Vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Hiện nay đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục chiếm phần lớn trong đội ngũ những người ăn lương của Nhà nước. Trong khi số cán bộ hành chính sự nghiệp của Nhà nước có vài trăm nghìn người, số cán bộ trong các Viện và cơ sở nghiên cứu có hơn 50.000 người thì tổng số đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục tới trên dưới 800.000 người, riêng cán bộ giảng dạy các trường đại học, cao đẳng 34.117 trong số 34.117 cán bộ giảng dạy có 221 giáo sư, 1.024 phó giáo sư, trên 3.000 tiến sỹ, 1.459 thạc sỹ. Gần đây (14/10/2004) theo báo cáo của Chính phủ thì tổng số đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đó lên tới trên 1.000.000 người, riêng cán bộ giảng dạy đạt trình độ thạc sỹ trở lên chiếm 45%. So với yêu cầu thực tiễn của giáo dục, đào tạo thì trình độ giảng viên có học vị từ thạc sỹ trở lên còn chiếm tỷ lệ thấp, trình độ ngoại ngữ, tin học yếu kém, sự hẫng hụt cán bộ có trình độ cao trong đội ngũ giáo viên, giảng viên vẫn chưa khắc phục được [19]. Hàng năm các trường đều tổ chức hội giảng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên qua thực tế đã được khảo sát chúng tôi thấy phần lớn giảng viên chưa tích cực cải tiến phương pháp giảng dạy. Phương pháp giảng dạy chủ yếu vấn là cách dạy áp đặt , “giảng viên là trung tâm”, “thầy đọc trò ghi”, giảng viên mỗi người dạy theo 1 cách vì chưa có giáo trình chuẩn. Đông đảo đội ngũ giảng viên không có cơ hội để được đào tạo và bồi dưỡng thêm kiến thức nên chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại. Số cán bộ giảng dạy tham gia nghiên cứu khoa học - một biện pháp để nâng cao trình độ cũng còn hạn chế, chính sách ưu đãi để khuyến khích giảng viên đi học nâng cao trình độ chưa hấp dẫn. Vì vậy mà tỷ lệ giảng viên đi học thêm để nâng cao trình độ chưa nhiều. Những hạn chế về trình độ, năng lực sư phạm, những bất cập về chính sách đãi ngộ đối với độ ngũ giảng viên, giảng viên… đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, đến học tập và nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của các sinh viên đại học, cao đẳng. * Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng cũng là một nhân tố có ảnh hưởng lớn tới việc học tập và nghiên cứu của sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. Vì vậy, việc xây dựng lực lượng cán bộ quản lý và chuyên gia vững vàng trong giáo dục, đào tạo là hết sức quan trọng. Đội ngũ này phải nắm vững được mục tiêu và quan điểm giáo dục của Đảng, đồng thời phải quan tâm nghiên cứu về khoa học giáo dục đại học, cao đẳng. Tổng kết những kinh nghiệm đã có để có thể làm tốt công việc của mình. * Cơ sở vật chất, điều kiện sống và chính sách đối với sinh viên. - Cơ sở vật chất. Quá trình giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên dù được tiến hành dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được diễn ra trong những điều kiện vật chất nhất định. Vì lẽ đó, cơ sở vật chất của nhà trường sẽ ảnh hưởng nhất định đến quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trong những năm qua chất lượng của sinh viên đại học, cao đẳng còn thấp, phần lớn sinh viên ra trường về làm việc ở các cơ quan, trường học kiến thức thực hành còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cơ sở vật chất dành cho quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Sau 20 năm đổi mới, Nhà nước liên tục gia tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo, vì vậy cơ sở vật chất của các trường đại học, cao đẳng có sự biến đổi đáng kể. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã được xây mới, được sửa chữa, cải tạo và nâng cấp rất nhiều: giảng đường, ký xá, khu vui chơi giải trí, trang thiết bị để phục vụ cho giảng dạy và học tập đều được quan tâm.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất