Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ngoại giao văn hóa việt nam với asean trong thời kỳ hội nhập...

Tài liệu Ngoại giao văn hóa việt nam với asean trong thời kỳ hội nhập

.PDF
250
853
61

Mô tả:

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY YÊN NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2016 BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THÙY YÊN NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62310640 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1, PGS.TS. Nguyễn Văn Cương 2, PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả. Các kết quả nghiên cứu và kết luận trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thùy Yên 1 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC ....................................................................................................................1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..........................................................................2 MỞ ĐẦU........................................................................................................................3 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO VĂN HÓA VÀ KHÁI LƯỢC VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI ASEAN...............................19 1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa......................................................................19 1.2. Cơ sở lý thuyết của luận án ...................................................................................49 1.3. Khái lược về mối quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN ........................................55 Tiểu kết .........................................................................................................................62 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP...................................63 2.1. Những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .............63 2.2. Các hình thức hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ...................72 2.3. Đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .........................104 Tiểu kết .......................................................................................................................113 CHƯƠNG 3. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA NGOẠI GIAO VĂN HÓA VIỆT NAM VỚI ASEAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.................................................115 3.1. Xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN ..................115 3.2. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN .........................................................................................121 Tiểu kết .......................................................................................................................146 KẾT LUẬN ...............................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..........................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................152 PHỤ LỤC ..................................................................................................................162 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ AC : Cộng đồng ASEAN ARF : Diễn đàn khu vực ASEAN ASA : Hiệp hội Đông Nam Á ASCC : Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN - COCI : Ủy ban Văn hóa - Thông tin ASEAN CLM : Campuchia, Lào, Mianma CLMV : Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam CNXH : Chủ nghĩa xã hội CSR : Trách nhiệm xã hội HTQT : Hợp tác Quốc tế NCKH : Nghiên cứu Khoa học NCS : Nghiên cứu sinh NGVH : Ngoại giao văn hóa Nxb : Nhà xuất bản PVS : Phỏng vấn sâu SEAGAMES : Đại hội thể thao Đông Nam Á UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc XHCN : Xã hội chủ nghĩa VHTTDL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, bức tranh toàn cảnh về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... của thế giới có nhiều thay đổi. Xu hướng chủ đạo của thế giới và khu vực là hòa bình, hợp tác và phát triển. Sự phát triển của mỗi quốc gia, khu vực và cả thế giới đang có xu hướng phụ thuộc ngày càng nhiều vào môi trường quốc tế. Những thành tựu của khoa học công nghệ và thông tin đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh. Các cuộc xung đột tôn giáo - sắc tộc, tranh chấp về lãnh thổ... không chỉ ảnh hưởng đến một vài quốc gia mà còn lan rộng ra toàn khu vực, ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa trên tất cả các lĩnh vực là một xu hướng tất yếu. Vì vậy mỗi quốc gia muốn tham gia vào quá trình toàn cầu hóa thì phải chủ động xác định chiến lược hội nhập và xác định “vị thế” của mình trong quan hệ quốc tế, đặc biệt các quốc gia ngày càng chú trọng gia tăng sức mạnh mềm của mình trên trường quốc tế. Sự vận động và phát triển của ASEAN trong những năm qua cũng nằm trong quy luật đó và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy của khu vực và quốc tế. Do vậy việc Việt Nam hội nhập ASEAN (1995) là phù hợp với xu thế của thời đại và điều kiện hoàn cảnh riêng của đất nước. ASEAN mang lại cho đất nước ta nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực, tạo thuận lợi và hỗ trợ rất lớn trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Trong 20 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của hiệp hội ASEAN như kinh tế, quốc phòng - an ninh và đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác văn hóa. Tham gia hội nhập ASEAN, Việt Nam có điều kiện khai thác tối đa những thuận lợi để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đất nước. Thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được là không chỉ tăng cường sự hiểu biết, tin cậy nhau và sẵn sàng hỗ trợ nhau khi cần thiết, mà còn thúc đẩy tinh thần đoàn kết giữa nhân dân các nước ASEAN. Trong xu thế quốc tế hóa 4 và toàn cầu hóa như hiện nay, văn hóa là chiếc cầu nối quan trọng trong quan hệ quốc tế của mỗi nước. Vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa nói chung và ngoại giao văn hóa nói riêng đã được thừa nhận rộng rãi trong nghiên cứu và trong chính sách phát triển chung trên toàn thế giới. Các quốc gia, ở mức độ khác nhau, đều sử dụng văn hóa như một công cụ trong hoạt động ngoại giao. Vì đây là kênh ngoại giao hữu hiệu làm gia tăng sức mạnh mềm, xây dựng lòng tin, quảng bá giá trị văn hóa ra thế giới, tiếp thu văn hóa nhân loại để làm giàu cho nền văn hóa đất nước. Từ đầu thế kỷ XXI, khi toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, ngoại giao văn hóa càng được sử dụng rộng rãi với nhiều hình thức phong phú và có vai trò quan trọng hơn trong nền ngoại giao của mỗi quốc gia bởi sức lan toả mạnh mẽ của văn hóa có vai trò to lớn trong việc xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn các mối quan hệ chính trị và kinh tế. Nhân tố văn hóa có ảnh hưởng, tác động đến quan hệ quốc tế và trong một số trường hợp mang tính quyết định. Do đó, việc vận dụng yếu tố văn hóa để nâng cao hiệu quả triển khai đường lối đối ngoại được các quốc gia ngày càng chú trọng. Sự trân trọng các giá trị văn hóa trong công tác ngoại giao trở thành cầu nối để vượt qua những khác biệt, đưa các dân tộc xích lại gần nhau và cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong xu thế hòa bình, sự phân công lao động trên thế giới ngày càng sâu sắc sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét và xu thế hội nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế quốc tế thì ngoại giao văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết. Như nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam với sự kết hợp giữa nhận thức về vai trò của văn hóa và nhận thức về sự cần thiết đẩy mạnh hội nhập quốc tế đã đưa ngoại giao văn hóa thực sự trở thành một trong 3 trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu chủ trương: "Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại" [26, tr.235], đồng thời đề cập trực tiếp đến vai trò của ngoại giao văn hóa: "Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa” [26, tr.238]. 5 Với vai trò ngày càng lớn của ngoại giao văn hóa, việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế, trước hết là quan hệ với các nước trong khu vực rất quan trọng trong tình hình hiện nay. Nghiên cứu các hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, giúp chúng ta nhận diện được tình hình thực tế, đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN, nhận định xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN trong những năm tới, từ đó đưa ra những bàn luận nhằm thúc đẩy công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN để đáp ứng những yêu cầu thực tiễn hiện nay. Xuất phát từ tình hình đó, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài: “Ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập” làm luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Những nghiên cứu về ngoại giao văn hóa 2.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước * Những luận điểm làm tiền đề cho lý luận ngoại giao văn hóa - Thuyết xung đột văn minh Thuyết xung đột văn minh do Samuel P.Huntington đề ra, ông cho rằng, nhân tố văn hóa ngày càng có vai trò quan trọng trong quan hệ giao lưu quốc và thế giới đang tiến vào một thời kỳ lịch sử của “Xung đột giữa các nền văn minh”. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, chính trị toàn cầu đang tiến hành tổ chức lại theo ranh giới văn minh. Đặc tính chung và sự khác biệt của văn hóa ảnh hưởng tới các quốc gia, những dân tộc và quốc gia có nền văn hóa tương tự đang tụ hợp lại, những dân tộc và quốc gia có nền văn hóa khác đang chia tách ra. Các tác phẩm của ông bao gồm: “Sự xung đột giữa các nền văn minh” và“Các loại quy phạm của thế giới sau chiến tranh lạnh. Nếu như không phải là văn minh thì sẽ là cái gì?” trên Tạp chí Ngoại giao, năm 1992; Năm 1996 ông xuất bản cuốn sách “Xung đột của văn minh và việc xây dựng lại trật tự thế giới”; Năm 2003 ở Việt Nam 6 cuốn “Sự va chạm của các nền văn minh” của Samuel P.Huntington đã được dịch ra tiếng Việt do Nxb Lao động, Hà Nội xuất bản. “Thuyết xung đột văn minh” của Huntington trong nhiều năm đã gây ra luận chiến gay gắt trong giới học thuật quốc tế. Học giả người Đức Harald Miluer, người đại diện thuyết chủ trương “Cùng tồn tại văn minh” với tác phẩm tiêu biểu “Cùng tồn tại văn minh” đã phê phán thuyết xung đột văn minh của Huntington (2001), cho rằng Huntington thổi phồng quá đáng sự xung đột giữa các nền văn hóa. Tuy nhiên “Thuyết xung đột văn minh” cũng đã tác động đến mọi người về sự thay đổi của tình hình thế giới từ góc nhìn văn hóa. - Sức mạnh mềm Những thảo luận về sức mạnh mềm đã xuất hiện khá sớm trong đời sống học thuật phương Tây. Sau đó khái niệm này được Joseph Nye - Nhà nghiên cứu chính trị học quốc tế Mỹ, giáo sư danh tiếng Đại học Havard định nghĩa và phát triển thành một luận thuyết. Ông nêu quan điểm: cần chú ý đặc biệt khác nhau giữa“sức mạnh cứng” (khả năng kinh tế, quân sự của một nước tiến hành mua chuộc và tập hợp) và “sức mạnh mềm” (khả năng cảm hóa và kêu gọi hình thái ý thức văn hóa để tiến hành thu hút) được thể hiện trong cuốn sách “Nước Mỹ định một mình làm bá chủ thế giới chăng?” và luận văn “Xác định lại ranh giới lợi ích quốc gia”, (1990). Một tác phẩm vận dụng lý luận “sức mạnh mềm”, phân tích tường tận tác dụng của sức mạnh mềm là cuốn sách: “Sức mạnh mềm: Sự thống trị toàn cầu của phim ảnh, nhạc thịnh hành, truyền hình và quán ăn nhanh của Mỹ” (2005) của Matthen Fraser, học giả Canada. Trong cuốn sách đó, ông đã trình bày tường tận sự khởi nguồn, phát triển của “sức mạnh mềm” của Mỹ và sự ảnh hưởng của nó trong ngoại giao quốc tế từ bốn mặt: Phim ảnh, truyền hình, âm nhạc thịnh hành và quán ăn nhanh. Các nghiên cứu trên đã đi đến xác định: Sức hấp dẫn về văn hóa, tư tưởng chính trị và các chính sách quốc gia là ba nguồn lực chính tạo nên sức mạnh mềm. - Văn hóa trong quan hệ quốc tế 7 Vai trò văn hóa trong quan hệ quốc tế đã được các nhà nghiên cứu đề cập tới rất nhiều và ngày càng đi vào chiều sâu. Đã có rất nhiều tác phẩm bàn luận về vấn đề này tiêu biểu như: “Chính trị học toàn cầu” do Herano Kenichiro; “Thay đổi lớn toàn cầu” do David Held, giáo sư Đại học Mở Anh quốc; “Quan hệ văn hóa quốc tế” của học giả văn hóa Pháp Louis Doro; “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai học giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald; “Nhân tố văn hóa trong quan hệ quốc tế Đông Tây” của Tư Trung Quân; “Lý luận văn hóa của chính trị thế giới” và trong luận văn cùng tên đã trình bày luận điểm: “Văn hóa có quan hệ với quan hệ quốc tế như thế nào?” của Tần Á Thanh; “Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và ngoại giao” của Phùng Thiệu Lôi;...[61, tr.14-22]. Các tác phẩm trên đều đề cập tới vai trò của văn hóa trong quan hệ quốc tế từ nhiều góc độ. Tiêu biểu là luận điểm của ông Herano Kenichiro, giáo sư trường Đại học Tokyo, chuyên gia về vấn đề quốc tế nổi tiếng của Nhật trong cuốn sách “Chính trị học toàn cầu” cho rằng, trong giao lưu giữa các nước ngoài quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế và quan hệ pháp luật ra còn có quan hệ văn hóa, hơn nữa quan hệ văn hóa không chỉ gián tiếp mà còn trực tiếp ảnh hưởng tới đời sống và lối sống của mọi người. Ông đề xuất, văn hóa trong quan hệ quốc tế bao gồm 4 mặt sau: (1), quan hệ giữa văn hóa và văn hóa lạ; (2), ý trực diện văn hóa trong quan hệ quốc tế; (3), quan hệ văn hóa có tính quốc tế; (4), văn hóa quốc tế [61, tr.16]. Luận điểm của học giả văn hóa Pháp Louis Doro đã phân tích một cách hệ thống quan hệ văn hóa quốc tế, nhấn mạnh vị trí, vai trò của giao lưu văn hóa quốc tế trong ngoại giao tổng thể trong cuốn sách “Quan hệ văn hóa quốc tế”. Ông cho rằng hoạt động giao lưu văn hóa đối ngoại ngày càng hướng tới trung tâm sân khấu giao lưu quốc tế, lĩnh vực hoạt động ngoại giao nhà nước được mở rộng không còn giới hạn ở lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và quân sự nữa mà đi sâu vào lĩnh vực văn hóa. [61, tr.17]. Những nghiên cứu về văn hóa trong quan hệ quốc tế ở trên sẽ là cơ sở cho nghiên cứu ngoại giao văn hóa sau này. * Về ngoại giao văn hóa 8 Việc nghiên cứu của giới học giả về ngoại giao văn hóa bắt đầu tương đối muộn. Khái niệm mới “ngoại giao văn hóa” do nhà sử học ngoại giao người Mỹ Ralph Tumer đưa ra sớm nhất từ những năm 40 của thế kỷ XX. Sau này, nhà sử học ngoại giao Mỹ Frank Ninkovich đã trình bày và phát triển một cách hệ thống quan niệm trên. Ninkovich cho rằng: “Nhà chính trị có kiến thức sâu rộng luôn luôn thừa nhận ngoại giao cần suy tính kỹ quan niệm giá trị văn hóa, vì những quan niệm giá trị này có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành khả năng lập luận ngoại giao, do đó mà càng có ý nghĩa hơn so với tín ngưỡng, hình thái ý thức hay quan niệm trừu tượng của nó. Ở thế kỷ XX, hầu như tất cả các nhà chính trị quan trọng của Mỹ đều cân nhắc coi nhân tố văn hóa là bộ phận để xử lý công việc ngoại giao của họ; quả thật văn hóa có tác dụng rõ ràng trong công việc ngoại giao của họ, thường là quyết định trong quyết sách đối ngoại của họ” [61, tr.21]. Bước vào thế kỷ XXI, mang lại sự thay đổi có “tính cách mạng” cho nghiên cứu ngoại giao văn hóa phải kể đến cuốn sách “Ngoại giao nhiều quỹ đạo” của hai học giả nổi tiếng người Mỹ Louise Diamond và John Mc Donald. Các tác giả chỉ ra rằng, muốn tìm hiểu ngoại giao toàn diện thì phải tiến hành nghiên cứu và phân tích ngoại giao từ những góc độ khác nhau. Các tác giả nhận xét: chính phủ, phi chính phủ hay cơ quan chuyên môn, hoạt động thương vụ, cá nhân công dân, nghiên cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, tài trợ, thông tin và truyền thông đều có thể trở thành kênh quan trọng của trao đổi ngoại giao. Trong 9 “Quỹ đạo” ngoại giao mà các tác giả nêu có 3 lĩnh vực (nghiên cứu/đào tạo và giáo dục, tôn giáo, truyền bá và truyền thông) là thuộc về phạm trù ngoại giao văn hóa [61, tr.17]. 2.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ngày càng được gia tăng cả chiều sâu lẫn chiều rộng, trong đó văn hóa trở thành một lĩnh vực phát triển mạnh mẽ. Ngoại giao văn hóa là một đề tài rất quan trọng, nhưng các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở nước ta còn chưa nhiều và đây là lĩnh vực khá mới mẻ. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu chuyên sâu 9 về ngoại giao văn hóa ở dạng đề tài cấp Bộ, luận văn, sách, giáo trình và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, hay trong kỷ yếu của các hội thảo khoa học... Về sách giáo trình có một số cuốn tiêu biểu như:“Giáo trình quan hệ công chúng chính phủ trong văn hóa đối ngoại” (2011) do Lê Thanh Bình chủ biên; “Ngoại giao và công tác ngoại giao” (2009) của Vũ Dương Huân. “Những vấn đề quốc tế đương đại và quan hệ đối ngoại của Việt Nam” của Viện Quan hệ Quốc tế (Học viện Ngoại giao); … Trong đó đáng chú ý là cuốn sách“Ngoại giao văn hóa cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng” (2012) của Phạm Thái Việt. Có thể khẳng định đây được xem là một ấn phẩm đầu tiên của Việt Nam về ngoại giao văn hóa. Cuốn sách chia thành 10 chương đề cập tới nhiều vấn đề nhưng dung lượng dành cho ngoại giao văn hóa còn hạn chế, các vấn đề như vai trò, nội dung, hình thức… của ngoại giao văn hóa thì chưa được đề cập tới. Tuy nhiên, khái niệm văn hóa, ngoại giao, đặc biệt về khái niệm ngoại giao văn hóa đã được tác giả nghiên cứu khá dày công. Ngoài ra phải kể đến một số bài viết, bài phát biểu của các nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu ngoại giao văn hóa trình bày trong các Hội thảo: Hội thảo quốc gia: "Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững" (2008) do Bộ Ngoại giao tổ chức. Đáng chú ý là các bài viết của Nguyễn Mạnh Cầm, Vũ Khiêu, Phạm Sanh Châu, Vũ Dương Huân, Trần Trọng Toàn... đã nêu nên những ý kiến về ngoại giao văn hóa rất sâu sắc và bổ ích. Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa trong thế giới hội nhập” (2010) do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Kỷ yếu Hội thảo có nhiều bài về ngoại giao văn hóa, các tác giả đã đề cập tới quan niệm về ngoại giao văn hóa và vai trò của ngoại giao văn hóa, sự khác nhau giữa ngoại giao văn hóa và giao lưu văn hóa… Hội thảo “Văn hóa đối ngoại trong thế giới hội nhập” (2011) do Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức. Hội thảo bàn về những vấn đề lý luận và thực tiễn của văn hóa đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhiều bài viết về ngoại giao 10 tiêu biểu như các bài viết của Vũ Khoan, Phạm Sanh Châu, Lê Viết Duyên… Đáng chú ý là bài “Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Lý luận và thực tiễn trong thời kỳ hội nhập” của Nguyễn Thái Yên Hương. Tác giả cũng bàn luận về ngoại giao và đánh giá thực trạng hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của ngoại giao văn hóa trong thời gian tới. Nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao văn hóa còn được thể hiện dưới dạng đề tài. Đặc biệt phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI” (2009) chủ nhiệm đề tài Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa Đối ngoại, UNESCO. Đây là đề tài nghiên cứu cấp Bộ chuyên sâu đầu tiên bàn về ngoại giao văn hóa. Một lợi thế thấy rõ là nhóm tác giả chính là những người đang thực thi nhiệm vụ ngoại giao văn hóa nên sẽ gặp rất nhiều thuận lợi trong việc triển khai nghiên cứu. Thành công của đề tài là không chỉ đáp ứng được hiểu biết cơ bản ban đầu về ngoại giao văn hóa Việt Nam mà còn hiểu biết được ngoại giao văn hóa trên thế giới hiện nay được tổ chức như thế nào. Tuy nhiên một số nội dung trong đề tài mới chỉ được nêu khái quát, chưa phân tích kỹ, mới mang tính gợi mở như: Vai trò của ngoại giao văn hóa; nội dung của ngoại giao văn hóa; thực trạng của công tác ngoại giao văn hóa Việt Nam. Các tác giả cũng chưa đề cập tới khái niệm cần thiết như: ngoại giao, văn hóa ngoại giao, xung đột văn hóa… đây là sự gợi mở cho hướng nghiên cứu tiếp theo. Đáng chú ý là các bài báo được đăng trên tạp chí chuyên ngành về ngoại giao văn hóa như: “Thông tin truyền thông và đẩy mạnh ngoại giao văn hóa” của Đỗ Quí Doãn, Tạp chí Cộng sản số 797, 3/2009; “ngoại giao văn hóa và truyền thông văn hóa đối ngoại trong bối cảnh hội nhập của quốc tế” của Đặng Thị Thu Hương, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1, 3/2009; ngoại giao văn hóa qua Festival tại Việt Nam” của Đỗ Thị Minh Thúy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 335, 5/ 2012; “Quan hệ công chúng và ngoại giao văn hóa” của Phạm Thái Việt, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3, 11 9/2009; “ngoại giao văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của Cao Vũ Huyền, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 336, 6/2012; “Ngoại giao văn hóa trong chiến lược phát triển hòa bình của Trung Quốc” của Phạm Hồng Yến, Tạp chí Quốc tế số 2, 6/2011; “Ngoại giao văn hóa: Trung Quốc quảng bá quốc gia như thế nào?” của Thạch Hà, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2, 6/2009; Ngoại giao văn hóa Trung Quốc và vai trò của nó trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 8/2009. Có thể nói chỉ trong giới hạn của những bài viết, các tác giả dưới những lăng kính khác nhau đã khai thác, phân tích những vấn về liên quan đến ngoại giao văn hóa rất sâu sắc và đầy mới mẻ về các vấn đề như: - Vai trò của thông tin và truyền thông trong việc đẩy mạnh ngoại giao văn hóa hiện nay. - Sự tiến triển Quan hệ công chúng (PR), những nội dung cơ bản của PR và khả năng ứng dụng PR trong ngoại giao văn hóa. - Việc tổ chức festival ở Việt Nam chính là một hoạt động ngoại giao văn hóa nhằm thúc đẩy sự quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam ra thế giới, thúc đẩy sự hiểu biết văn hóa thế giới tại Việt Nam. - Muốn thực hiện thành công ngoại giao văn hóa, chúng ta phải chú trọng, tăng cường “khai thông” nhận thức, tư tưởng cho toàn xã hội về vai trò to lớn của ngoại giao văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa. - Vai trò của việc tôn vinh các giá trị bản sắc dân tộc, đưa ra một số việc cần làm ngay như: tổ chức lựa chọn Quốc phục, Quốc nhạc, Quốc tửu, các món ăn tiêu biểu của Việt Nam… - Truyền thống ngoại giao văn hoá với những nét đẹp trong suốt thời kỳ lịch sử với ba đặc trưng cơ bản đó là: ngoại giao gắn với chủ thể văn hóa; ngoại giao lấy tinh thần khoan hòa văn hóa làm phương châm; ngoại giao thông qua con đường văn học nghệ thuật... 12 2.2. Những nghiên cứu về mối quan hệ và ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN * Về lịch sử, chính trị, văn hóa Việt Nam với ASEAN Các cuốn sách viết về lịch sử, chính trị, văn hóa của Việt Nam với ASEAN khá nhiều, tiêu biểu như: cuốn “Việt Nam – Đông Nam Á: Quan hệ lịch sử văn hóa” (1995) của Phạm Đức Thành, Ngô Văn Doanh, Trần Thị Lý...; “Các nước Đông Nam Á” (2010) của các tác giả Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Thị Kim Yến, Đào Ngọc Tú; “Việt Nam- ASEAN” (1995) do Phạm Đức Thành (chủ biên); “Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN” (2009) của Đinh Xuân Lý; “Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (2011) của Bùi Văn Hùng; “Một Đông Nam Á vận mệnh chung, tương lai chung” (2013) của M.Rajaretnam và Thái Quang Trung; “Quốc hội Việt Nam với AIPA trong tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN” của Ngô Đức Mạnh; “Xây dựng Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN” (2013) do Đức Ninh chủ biên; “Hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN. Bối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra” (2013) do Trương Duy Hòa chủ biên; “Đánh giá hiện thực các cam kết xây dựng Cộng đồng ASEAN” do Nguyễn Huy Hoàng chủ biên... Trong đó đáng chú ý là cuốn sách “Lịch sử Đông Nam Á tập VI: Đông Nam Á trong thời kỳ hòa bình, phát triển và hội nhập (1991-2010)” (2012) do Nguyễn Thu Mỹ, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á chủ biên. Cuốn sách đã dựng lại quá trình phấn đấu vì hòa bình, an ninh, phát triển và hội nhập của Đông Nam Á từ 1991- 2010, bàn về một số vấn đề khoa học và thực tiễn trong lịch sử Đông Nam Á đương đại như các vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng các giá trị văn hóa dân tộc, hiện đại và giữ gìn bản sắc khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa như: các chính sách về văn hóa của các nước Đông Nam Á; các thành tựu phát triển văn hóa, xã hội và những vấn đề đang đặt ra cho các nước Đông Nam Á trong thời gian tới; tình hình xây dựng Cộng đồng ASEAN… 13 * Về ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN Có thể khẳng định là hiện chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu sâu về NGVH Việt Nam với ASEAN. Những tài liệu chủ yếu bàn về vấn đề có liên quan đến NGVH Việt Nam với ASEAN có thể kể đến: Cuốn “Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về sự gia tăng quyền lực mềm” (2013) do Hoàng Minh Lợi chủ biên đã bàn về sự gia tăng quyền lực mềm tại khu vực Đông Bắc Á và tác động của nó tới nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam). Các tác giả đề xuất, Việt Nam cần phải có những đối sách thích hợp để biến những lợi thế, sức mạnh trở thành “quyền lực mềm phục vụ hữu hiệu cho việc xây dựng hình ảnh và vị thế quốc gia”; Cuốn "Sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc - Tác động tới Việt Nam và một số nước Đông Á” (2015) do Nguyễn Thị Thu Phương chủ biên nói về mức độ tác động của sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc một số nước Đông Á và đặc biệt các tác giả nhận định Việt Nam cần tỉnh táo, thận trọng trong việc tiếp nhận, hấp thu, tiếp biến có chọn lọc những tác động tích cực từ sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc, đồng thời tăng cường “nội lực” văn hóa nhằm chống đỡ, hóa giải được những tác động nguy hại gây xói mòn các giá trị nền tảng, làm giảm đi bản sắc văn hóa, chủ quyền văn hóa quốc gia. Từ đó xây dựng “chiến lược nâng cao sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam”. Hội thảo khoa học quốc tế “ASEAN:40 năm nhìn lại và hướng tới”, (2007) do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức. Hội thảo đã nhìn nhận thực tế 40 năm tồn tại và phát triển đã chứng tỏ rằng ASEAN đã tạo dựng được một bản sắc riêng, không hòa trộn, được các nước và cộng đồng quốc tế thừa nhận như là một “phong cách ASEAN”. Sự hình thành bản sắc hay phong cách đó gắn liền với cội nguồn văn hóa Đông Nam Á từ hàng nghìn năm trước và trở thành tài sản chung của ASEAN hiện nay. Ngoài ra còn một số bài viết liên quan đến NGVH Việt Nam với ASEAN như: "Hợp tác văn hóa, thông tin và giáo dục trong ASEAN trong thế kỷ XXI” (2009) của Đỗ Hương Giang, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á; “Quan hệ văn 14 hóa Việt Nam - ASEAN: một cách tiếp cận” của Lê Đình Tự; “Vài nét giao lưu văn hóa ASEAN – Trung Quốc và Việt Nam trong lĩnh vực thư viện” (2012) của Phan Thị Kim Dung, Tạp chí Thư viện Việt Nam... Trong đó phải kể đến bài viết “Hợp tác văn hóa Việt Nam – ASEAN hướng tới cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN” của Vũ Tuyết Loan, và bài “Tư duy đối ngoại của Việt Nam về văn hóa trong hợp tác ASEAN” của Lê Viết Duyên. Theo hai tác giả, hợp tác văn hoá giữa các nước ASEAN với nhau và giữa ASEAN với các nước đối thoại là một nhu cầu tất yếu và rất được coi trọng. Các bài viết đã bàn về hợp tác văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm qua và triển vọng hợp tác văn hoá Việt Nam - ASEAN trong những năm sắp tới. Tác giả nhận định văn hoá đã, đang và sẽ đóng vai trò quan trọng đề cao hình ảnh của ASEAN, không thể xây dựng một Cộng đồng ASEAN trong tương lai mà không gắn với việc giữ gìn và làm phong phú hơn những đặc trưng của văn hoá các dân tộc ASEAN, của con người ASEAN. Văn hoá giúp tạo dựng tinh thần ASEAN, từ đó khiến cho nếp nghĩ và hành động của mỗi người dân trong từng quốc gia có tính khu vực hơn. Tóm lại, tổng quan tình hình nghiên cứu cả trong và ngoài nước cho thấy, đây là những tài liệu hữu ích để tham khảo về lý luận và thực tiễn của ngoại giao văn hóa. Đóng góp của các công trình là đã tìm ra khái niệm ngoại giao văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau, tầm quan trọng của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế. Nhiều công trình còn nghiên cứu và phân tích sâu về chính sách và thực tiễn ngoại giao văn hóa của một số quốc gia cụ thể, hoặc làm rõ những nhân tố tác động, những mục tiêu chiến lược mà chính sách ngoại giao văn hóa của quốc gia đó hướng tới. Tuy nhiên, vẫn thiếu hụt các công trình nghiên cứu dưới góc độ văn hóa học mà chủ yếu là dưới cách tiếp cận chính trị học, ngoại giao học. Nhìn chung, do phần tư liệu tổng quan không phải là công trình nghiên cứu chuyên biệt về chủ đề được lựa chọn nghiên cứu nên tính hệ thống và vấn đề nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài chưa cao. Các công trình liên quan đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN mới chỉ dừng lại ở các bài viết dưới dạng biểu hiện của ngoại giao văn hóa như sức mạnh mềm văn hóa, hoạt động giao lưu, hợp tác về 15 văn hóa giữa Việt Nam với ASEAN… Có thể thấy rằng hiện nay các công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngoại giao văn hóa của khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập đang còn hạn chế, thiếu hụt. Việc mô tả, phân tích tương đối rõ ràng mức độ thành công của các công trình nghiên trong và ngoài nước và những kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của luận án đã đem đến nhiều gợi mở ở các cấp độ khác nhau như: quan điểm phân tích hệ thống lý luận về ngoại giao văn hóa, sức mạnh mềm văn hóa, vai trò của ngoại giao văn hóa, những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa, hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN, xu hướng vận động của ngoại giao văn hóa trong quan hệ quốc tế nói chung và Việt Nam với các nước ASEAN nói riêng. 2.3. Câu hỏi nghiên cứu của luận án - Tại sao ngoại giao văn hóa lại được đề cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế và có vị trí ngang hàng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế? - Thực tiễn hoạt động của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời gian qua được thực hiện như thế nào? - Ngoại giao văn hóa (một hoạt động văn hóa) có vai trò gì (đóng góp gì?) cho mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN? - Ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN có xu hướng vận động như thế nào và những vấn đề cần đặt ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay? 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực tiễn và đánh giá hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN, đồng thời góp bàn những phương thức để nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ hệ thống lý luận về ngoại giao văn hóa. - Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam với ASEAN 16 - Nghiên cứu những nhân tố tác động đến ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN. - Khảo sát thực tiễn triển khai hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN. - Nghiên cứu xu hướng vận động và những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập. 5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Thực tiễn hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN. 5.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Trong không gian Đông Nam Á hiện đại. - Thời gian nghiên cứu: từ 1995 (khi Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN) đến nay. - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Ngoại giao văn hóa với cơ cấu hoạt động hoạt động rất đa dạng và phong phú như phân loại theo nội dung hoạt động, hình thức hoạt động, chủ thể hoạt động, không gian hoạt đông… Trong khuôn khổ của luận án tác giả xin tập trung vào tiêu chí phân loại theo hình thức hoạt động của ngoại giao văn hóa. - Giới thuyết tên đề tài: Hiểu theo nghĩa đầy đủ tên đề tài của luận án là: Hoạt động ngoại giao văn hóa của Việt Nam với các nước ASEAN trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở phương pháp luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và hợp tác quốc tế; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách văn hóa đối ngoại, ngoại giao văn hóa nói chung và với ASEAN nói riêng. Ngoài ra luận án còn dựa trên cơ sở lý thuyết về "Sức mạnh mềm” và “Tiếp biến văn hóa”. 17 6.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu Được sử dụng để tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp, giúp NCS sử dụng nhiều nguồn tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, dùng để đánh giá, phân loại tài liệu trong quá trình nghiên cứu nhằm phân tích, luận giải cơ sở lý luận liên quan đến ngoại giao văn hóa, hệ thống hóa quan điểm của điểm của Đảng và Nhà nước về ngoại giao văn hóa, đồng thời phân tích hoạt động thực tiễn ngoại giao văn hóa Việt Nam với các nước ASEAN trong thời gian qua, những thành tựu và hạn chế cần khắc phục. - Phương pháp chuyên gia Trên cơ sở nội dung của luận án, NCS lựa chọn các nhà khoa học, các chuyên gia, những người am hiểu về lý luận và thực tiễn về ngoại giao văn hóa làm việc tại các cơ quan nghiên cứu và các cục, vụ chức năng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL), Bộ Ngoại giao… để trao đổi, tham khảo những quan điểm, ý kiến đối với vấn đề nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn chủ yếu là quan điểm của các chuyên gia về các vấn đề liên quan đến hoạt động ngoại giao văn hóa giữa Việt Nam với các nước ASEAN như: nhận thức của họ về vai trò của ngoại giao văn hóa, đánh giá của họ về thành công và hạn chế của hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN, về cơ chế phối hợp, về nguồn nhân lực, nguồn kinh phí cho hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN… - Phương pháp liên ngành Nghiên cứu hoạt động ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN trong thời kỳ hội nhập là sự thu thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành như lịch sử, xã hội học, ngoại giao học, chính trị học… Cho nên, các thao tác nghiên cứu của luận án được thực hiện thông qua sự kết hợp linh hoạt các phương pháp trên. Sử dụng phương pháp liên ngành, đa ngành vào đề tài luận án, giúp cho việc khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau trong vấn đề nghiên cứu. Phương pháp liên ngành/đa ngành còn liên cứu các lĩnh vực chồng lẫn giữa các hoạt động văn hóa, chính trị, kinh tế của ngoại giao văn hóa Việt Nam với ASEAN.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan