z
ƯỜ
NG ĐẠ
Ơ
TR
TRƯỜ
ƯỜNG
ĐẠII HỌC CẦN TH
THƠ
ÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NH
NHÂ
Ữ VĂN
BỘ MÔN NG
NGỮ
�����
O
LÊ TH
THỊỊ HỒNG ĐÀ
ĐÀO
MSSV: 6106308
ÔN TỪ NGH
Ệ THU
ẬT
NG
NGÔ
NGHỆ
THUẬ
TRONG MỘT SỐ BÀI TH
Ơ TÌNH CỦA XU
ÂN QU
ỲNH
THƠ
XUÂ
QUỲ
Lu
Luậận văn tốt nghi
nghiệệp Đạ
Đạii học
ữ văn
Ng
Ngàành Ng
Ngữ
ng dẫn: ThS. GVC. CHIM VĂN BÉ
Cán bộ hướ
ướng
ơ, năm 2013
Cần Th
Thơ
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
NG TỔNG QU
ÁT
ĐỀ CƯƠ
ƯƠNG
QUÁ
ẦN MỞ ĐẦ
U
PH
PHẦ
ĐẦU
I.
Lý do chọn đề tài
II.
Lịch sử vấn đề
III.
Mục đích nghiên cứu
IV.
Phạm vi nghiên cứu
V.
Phương pháp nghiên cứu
ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ
ươ
ng một: Vấn đề đặ
ưng của ng
ữ th
ơ Vi
Ch
Chươ
ương
đặcc tr
trư
ngôôn ng
ngữ
thơ
Việệt Nam
I.
Quan điểm của Nguyễn Phan Cảnh
II.
Quan điểm của Hữu Đạt
III.
Quan điểm của Bùi Công Hùng
IV.
Quan điểm của Chim Văn Bé
V.
Hướng tiếp cận của đề tài
ươ
ng hai: Ng
ôn từ ngh
ơ tình của Xu
Ch
Chươ
ương
Ngô
nghệệ thu
thuậật trong một số bài th
thơ
Xuâân Qu
Quỳỳnh
I.
Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương
1.
Cuộc đời
2.
Sự nghiệp văn chương
II.
Phân tích một số bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh từ góc độ ngôn ngữ
1.
Sóng
2.
Thơ tình cuối mùa thu
3.
Tự hát
4.
Hoa cỏ may
III.
Đánh giá chung về đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình
của Xuân Quỳnh
ẦN KẾT LU
ẬN
PH
PHẦ
LUẬ
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
1
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
ẦN MỞ ĐẦ
U
PH
PHẦ
ĐẦU
I.
ỌN ĐỀ TÀI
LÝ DO CH
CHỌ
“Cuộc sống ngắn ngủi, con người chỉ đi qua cuộc đời như một vệt sáng rồi biến
mất vĩnh viễn” (trích Thư Xuân Quỳnh gửi Lưu Quang Vũ). Nhưng những gì là thơ, là
văn, là nghệ thuật chân chính thì vẫn sống mãi cùng thời gian. Xuân Quỳnh là một
người nghệ sĩ với những vần thơ như thế!
Là một nhà thơ tiêu biểu cho những cây bút nữ có sức sáng tạo dồi dào của nền
thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh đã đến và dâng tặng cho đời những vần thơ
được kết tinh từ trái tim ngập tràn yêu thương của một người phụ nữ hồn hậu, luôn day
dứt, khát khao đi tìm hạnh phúc. Tất cả những điều đó đã trở thành nỗi ám ảnh, xót xa
trong những vần thơ Xuân Quỳnh “tự hát” về mình, về cuộc đời.
Hơn hai mươi lăm năm làm thơ, dù nghệ thuật sáng tạo chưa phải là nhiều,
nhưng những gì Xuân Quỳnh để lại trong tác phẩm của mình đã thực sự làm rung động
tâm hồn độc giả nhiều thế hệ. Bà đã tạo được cho mình một tiếng nói riêng, một phong
cách riêng “trộn mà không lẫn” so với các nhà thơ cùng thời.
Tình yêu, thiếu nhi và chiến tranh là những mảnh đất màu mỡ mà Xuân Quỳnh
đã dành trọn sự nghiệp sáng tác của mình để vun xới. Đặc biệt, khi nhắc đến Xuân
Quỳnh chúng ta không thể quên được những bài thơ tình đặc sắc của bà. Đó là một
mảng thơ khá phong phú và rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Một thứ
tình yêu bao giờ cũng gắn liền với những lo toan, vất vả, tự nguyện sống hết mình cho
tình yêu và cũng đòi hỏi sự thủy chung tuyệt đối. Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt
Nam mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu, vừa hồn
nhiên, chân thật, lại vừa sôi nổi của một trái tim phụ nữ.
Nói như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì cả đời và thơ Xuân Quỳnh đều
tràn ngập một chữ YÊU: yêu từ buổi ban đầu cho đến lúc tuổi ngả chiều, yêu trong đời
thực, yêu trong ảo tưởng, yêu qua linh cảm, yêu đơn phương, yêu dữ dội, yêu cháy
lòng… rồi đem cái yêu ấy vào thơ khiến tiếng thơ cũng là tiếng thổn thức của lòng, để
như một lẽ thường tình Xuân Quỳnh trở thành “Nữ hoàng thơ tình” hàng đầu Việt
Nam thế kỷ XX:
“Đấy tình yêu em đã nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn vàng khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
2
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Cho con người thật Người hơn”
(Nói cùng anh)
Tiếp cận với thơ tình Xuân Quỳnh, chúng tôi dường như tìm thấy tâm trạng của
chính mình trong những vần thơ của thi sĩ - cũng là nỗi nhớ mong khắc khoải, sự ưu tư,
lo lắng trong tình yêu và cả sự đau đớn khôn nguôi khi hạnh phúc đổ vỡ... Hơn nữa,
Xuân Quỳnh cũng là một trong số các tác giả tiêu biểu được chọn để giảng dạy trong
chương trình Văn học bậc trung học phổ thông.
Đã hơn năm mươi năm kể từ khi tập thơ đầu tiên được xuất bản và hai mươi
lăm năm kể từ sngày định mệnh đã cướp đi cả gia đình Xuân Quỳnh, mặc dù đã có khá
nhiều những công trình nghiên cứu, khảo sát về thơ Xuân Quỳnh, song dường như vẫn
chưa có công trình nào tiếp cận nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh một cách toàn diện và có
hệ thống, đặc biệt là về phương diện ngôn ngữ. Bởi không gì khác hơn, ngôn từ chính
là chiếc chìa khóa mở cửa tòa lâu đài văn chương nguy nga, tráng lệ.
Với tấm lòng mến mộ tài năng, nhân cách của nhà thơ và vì những lý do trên
ơ tình của Xu
mà khi thực hiện đề tài: Ng
Ngôôn từ ngh
nghệệ thu
thuậật trong một số bài th
thơ
Xuâân
Qu
Quỳỳnh, chúng tôi không chỉ mong muốn những trang viết của mình sẽ làm phong phú
thêm những cảm nhận và phát hiện mới mẻ bên cạnh những công trình nghiên cứu
mang tầm vĩ mô khác mà quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu sâu những đặc trưng trong
ngôn ngữ thơ trong một số bài thơ tiêu biểu viết về tình yêu của Xuân Quỳnh. Đồng
thời chúng tôi hy vọng công chúng yêu chuộng văn chương cũng sẽ có được một cái
nhìn tổng thể, khái quát hơn về những đóng góp tích cực của tác giả đối với nền văn
học nước nhà nói chung và văn học hiện đại nói riêng.
II.
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1
Về ng
ôn ng
ữ th
ơ
ngô
ngữ
thơ
Đã từ lâu, ngôn ngữ hiển nhiên được xem là chất liệu cơ bản, là phương tiện
biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà tác giả sử
dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, ngôn ngữ cũng chính
là yếu tố đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Vì vậy, M. Gorki
khẳng định: “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Hơn thế nữa, ngôn ngữ là một
trong những yếu tố góp phần tạo nên phong cách tác giả.
Do đó, song song với sự hình thành và phát triển của nền văn học nước nhà thì
cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hướng tiếp cận ngôn ngữ thơ từ nhiều góc độ.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
3
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Đầu tiên phải nói đến, đó là khuynh hướng phê bình văn học truyền thống với
lối phê điểm chủ nghĩa. Không tiếp cận tác phẩm văn chương như là một sản phẩm
ngôn từ nghệ thuật hoàn chỉnh, thống nhất. Theo khuynh hướng này, người nghiên cứu
lẩy ra những hình ảnh, từ ngữ nào đó mà mình cho là “đắt địa”, từ đó làm sáng tỏ cái
hay, cái đẹp của nó. Cũng chính vì thế mà đã kéo theo một số nhược điểm: họ thường
không đưa ra cái nhìn toàn diện, hệ thống và có cơ sở về ngôn từ nghệ thuật, do đó
khuynh hướng này dễ rơi vào suy tán, diễn giải sáo rỗng, thiếu chính xác hoặc một hạn
chế khác là xem ngôn từ chỉ là phương tiện hình thức thuần túy, được dùng để biểu đạt
nội dung. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Lê Đình
Kỵ, Lê Trí Viễn, Trần Đình Sử,…
Tiếp đến là khuynh hướng tiếp cận văn chương từ góc độ Lý luận văn học, các
nhà nghiên cứu thường đề cập đến các đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật: tính chính
xác, tính hàm súc, tính biểu cảm và tính hình tượng. Tiêu biểu là các công trình nghiên
cứu của Phương Lựu, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử,…
Từ góc độ Phong cách học, ngôn từ nghệ thuật được nhấn mạnh ở các đặc
trưng: tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể hóa và tính cụ thể hóa. Đinh Trọng
Lạc, Nguyễn Thái Hòa,… là những tác giả đi theo khuynh hướng trên.
Bên cạnh đó, một số tác giả lựa chọn khuynh hướng tiếp cận ngôn ngữ theo góc
độ Thi pháp học, như Hoàng Trinh, Nguyễn Thái Hòa,…Với khuynh hướng này, ngôn
từ nghệ thuật được xem như một phương diện quan trọng của tác phẩm văn học.
Đi sâu vào việc nghiên cứu ngôn từ thơ trữ tình, đáng chú ý là công trình Ngôn
ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh và Ngôn ngữ thơ Việt Nam của Hữu Đạt. Nhìn chung,
trong hai công trình này, các tác giả đã vận dụng quan điểm thi pháp học của R.
Jakobson về việc xem xét thơ trữ tình Việt Nam thông qua hai thao tác lựa chọn và kết
hợp, qua đó làm nổi bật lên những đặc trưng cơ bản của ngôn từ thơ trữ tình ở một số
phương diện. Tuy nhiên, việc tiếp thu, diễn giải quan điểm R. Jakobson của các nhà
nghiên cứu đã bộc lộ nhiều bất cập, sai sót.
Tiếp theo, phải kể đến công trình Nghệ thuật tiếp cận thơ ca của Bùi Công
Hùng. Công trình đề cập đến khá nhiều phương diện của nghệ thuật thơ, trong đó có
phương diện ngôn ngữ. Song dường như tác giả lại chưa chạm gì nhiều hoặc nếu có
cũng chưa làm sáng tỏ được những đặc trưng của ngôn ngữ thơ.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
4
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Sẽ thật thiếu sót nếu chúng tôi không nhắc đến công trình Ngôn ngữ văn
chương Việt Nam của tác giả Chim Văn Bé. Tiếp cận ngôn từ nghệ thuật thơ trữ tình ở
cả hai cấp độ: vi mô và vĩ mô, tác giả đã thực sự làm sáng tỏ những đặc trưng và thuộc
tính cơ bản của ngôn ngữ.
2.2
ôn từ ngh
ơ tình của Xu
Về ng
ngô
nghệệ thu
thuậật trong th
thơ
Xuâân Qu
Quỳỳnh
Đi sâu vào việc nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh, chúng ta đã có rất nhiều các bài
phê bình, bình luận về ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh ở đủ mọi khía cạnh, từ nội dung đến
nghệ thuật.
ươ
ng di
Trước tiên khi đánh giá thơ Xuân Quỳnh về ph
phươ
ương
diệện ngh
nghệệ thu
thuậật, một số
tác giả nhận định:
Trong công trình Người đàn bà yêu và làm thơ, Đoàn Thị Đặng Hương cho
rằng: “Thơ Xuân Quỳnh cháy lên cái màu sắc của một thế giới tâm linh mà vô thức
của mình, chị đã bước vào thế giới tinh thần ấy của tình yêu” [6; tr. 49].
Lại Nguyên Ân cũng nhận xét về thơ Xuân Quỳnh như sau: “Tính chất tự
truyện là nét đậm quán xuyến hàng loạt bài thơ, tập thơ và cũng là nét khác biệt rõ rệt
so với thơ của nhiều người cùng thế hệ. Gần như chị trở thành nhân vật văn học của
chính thơ chị” [5; tr. 164].
Dù chỉ trong phạm vi tập thơ Hoa cỏ may nhưng Nguyễn Quân cũng đã đánh
giá được thơ Xuân Quỳnh dưới góc độ thi pháp: “Ở thơ Xuân Quỳnh cái cổ điển, cái
lãng mạn đã biểu hiện hài hòa vào trong kết cấu kể chuyện, đổi vai của nhân vật thơ
rất sinh động, dân gian trở nên gần gũi, mộc mạc, không sáo […] đọc xong nhớ lâu,
không tầm thường” [5; tr.182].
Bàn về thơ Xuân Quỳnh, Lưu Khánh Thơ trong “Xuân Quỳnh – Cuộc đời và tác
phẩm” viết: Khi tìm hiểu thơ Xuân Quỳnh “sẽ nhận thấy chị là nhà thơ có nghệ thuật
và kỹ thuật tiêu biểu tương đối vững vàng, có bản lĩnh. Trước tiên đó là nghệ thuật
trong cấu tứ. Cấu tứ trong thơ Xuân Quỳnh thường rất tự nhiên nhưng lại chắc chắn,
gọn ghẽ, sắc sảo […] Cái lớn của Xuân Quỳnh là đem chính mình, chính cuộc đời
mình ra làm thơ, và thơ đối với chị không phải là một nghề nghiệp, cũng không phải là
tài năng mà là số phận, là tâm hồn, là điều thiêng liêng khó đạt tới nhất trên cõi đời
này” [12; tr. 590].
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
5
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Trong “Thơ, tìm hiểu và thưởng thức”, Nguyễn Xuân Nam viết: “Ngôn ngữ
của Xuân Quỳnh trở nên mềm mại, duyên dáng hẳn khi kế thừa và phát triển vẻ đẹp
của ngôn ngữ ca dao, dân ca” [11; tr.112].
ươ
ng di
Mặt khác, ph
phươ
ương
diệện nội dung của thơ Xuân Quỳnh cũng được nhiều tác giả
chú ý:
Lê Đình Kỵ trong bài viết “Tơ tằm – Chồi biếc” nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh
vốn rất bạo, nhưng cái hay là không ai nhận thấy đó là quá đáng cả. Dù sao thì Xuân
Quỳnh cũng đã dám nói tất cả những điều mình ôm ấp. Chính vì cái bạo của chị là cái
bạo rất trong”. Hay “thơ Xuân Quỳnh nhẹ nhàng, trong sáng, xinh xắn như một điệu
múa dân tộc” [6; tr. 26].
Vương Trí Nhàn cũng nhận xét về thơ Xuân Quỳnh như sau: “Một phần quan
trọng trong thơ Xuân Quỳnh là những bài thơ mang cảm hứng công dân, có tầm khái
quát rộng lớn,...nhưng bên cạnh đó, Xuân Quỳnh còn được biết đến như tác giả của
nhiều bài thơ nói lên nhiều tình cảm đơn giản song giàu ý nghĩa nhân bản.” [5; tr.6].
Đánh giá về vị trí thơ Xuân Quỳnh, Trần Thị Thìn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh
tiêu biểu cho phong cách của lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ chống Mỹ. Nó
giữ vững được những nét đẹp cổ điển của thơ ca dân tộc, đồng thời có những khám
phá sáng tạo hết sức mới lạ và độc đáo.” [5; tr. 231].
Có thể thấy rằng, ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh đã được rất nhiều nhà nghiên cứu
phê bình quan tâm từ rất sớm. Những kiến giải, đánh giá của các tác giả rất có giá trị
và cũng phần nào thể hiện được cái nhìn ưu ái của họ đối với nữ thi sĩ tài hoa nhưng
bạc mệnh. Hy vọng rằng không chỉ hôm qua, hôm nay mà cả mai sau, công chúng yêu
chuộng văn chương cũng sẽ mãi nhắc đến nữ thi sĩ ấy với tất cả lòng tiếc thương, mến
mộ và sẽ có thêm thật nhiều công trình nghiên cứu thơ Xuân Quỳnh ở cả hai phương
diện một cách toàn diện hơn nữa.
III.
CH NGHI
ÊN CỨU
MỤC ĐÍ
ĐÍCH
NGHIÊ
Để thực hiện đề tài luận văn, trước tiên chúng tôi sẽ tiếp cận các công trình
nghiên cứu ngôn ngữ thơ, trên cơ sở đó, chúng tôi vận dụng xem xét những đặc trưng
của ngôn ngữ thơ vào khảo sát một số sáng tác tiêu biểu của Xuân Quỳnh ở mảng thơ
tình. Qua đó, luận văn mong muốn làm rõ hơn những nét nổi bật đã làm nên thành
công của ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh nói chung và thơ viết về tình yêu nói riêng.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
6
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
IV.
ẠM VI NGHI
ÊN CỨU
PH
PHẠ
NGHIÊ
Trong sáng tác của mình, Xuân Quỳnh khái quát ở nhiều mảng đề tài, song ở đề
tài viết về tình yêu, tác giả đã thể hiện được những nét độc đáo không chỉ về nội dung
mà còn cả nghệ thuật. Xác định hướng đề tài là tìm hiểu Ng
Ngôôn từ ngh
nghệệ thu
thuậật trong
ơ tình của Xu
một số bài th
thơ
Xuâân Qu
Quỳỳnh, trên cơ sở các công trình của những người đi
trước, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu những bài viết có đề cập đến ngôn ngữ
thơ tình của tác giả để từ đó hệ thống lại những đặc trưng tiêu biểu.
Bắt đầu sự nghiệp văn chương với phần thơ Chồi biếc (in chung trong tập thơ
Tơ tằm – Chồi biếc với Cẩm Lai, nhà xuất bản Văn học, 1963) nhưng Hoa dọc chiến
hào (1968) mới thật sự là tập thơ đưa tên tuổi Xuân Quỳnh đi xa hơn trên thi đàn văn
học nước nhà. Đi qua cùng thời gian và nhất là khi đã trải qua những đắng cay, mất
mát của cuộc đời, thơ Xuân Quỳnh càng đậm chất suy tư, sâu lắng và triết lý hơn. Mà
tiêu biểu là những vần thơ trong tập Tự hát (1984) và Hoa cỏ may (1989).
Với hy vọng có thể phần nào nhìn nhận, đánh giá thơ Xuân Quỳnh một cách
đúng đắn và toàn diện hơn, chúng tôi xin được phép “khoanh vùng” để tập trung khảo
sát ngôn từ nghệ thuật trong thơ tình của Xuân Quỳnh trong phạm vi một số bài thơ
tiêu biểu thuộc ba tập thơ trên: Sóng (in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào, nhà xuất bản
Văn học, 1968), Thơ tình cuối mùa thu (in trong tập thơ Tự hát, nhà xuất bản Tác
phẩm mới, 1984), Tự hát (in trong tập thơ Tự hát, nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1984)
và Hoa cỏ may (in trong tập thơ Hoa cỏ may, nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1989).
V.
ƯƠ
NG PH
ÁP NGHI
ÊN CỨU
PH
PHƯƠ
ƯƠNG
PHÁ
NGHIÊ
Trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống để xác lập tính nhất quán
của Xuân Quỳnh trong việc lựa chọn từ ngữ trong các sáng tác của chính mình. Trên
cơ sở đó, chúng tôi muốn hệ thống lại những đặc điểm nổi bật, những sáng tạo mang
tính chất độc đáo của tác giả.
Kế đến, bằng phương pháp so sánh, chúng tôi so sánh tác giả với những nhà thơ
nữ cùng thời để rút ra những nét riêng, khẳng định cái đẹp, cái hay của tác giả.
Đặt tác phẩm vào những hoàn cảnh cụ thể, chúng tôi lựa chọn phương pháp lịch
sử để từng bước tiếp cận, tìm hiểu bối cảnh thời đại đã sản sinh ra nhà thơ tài hoa cũng
như khẳng định những thành công và đóng góp của thơ Xuân Quỳnh. Song song đó,
chúng tôi cũng đặt tác phẩm trong mối quan hệ mật thiết với nền thơ ca truyền thống
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
7
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
nh
và hiện đại, “đó cũng là mối quan hệ có tính chất nguyên tắc giữa “nền” và “đỉ
“đỉnh
nh””
trong nghệ thuật”.
Với phương pháp phân tích, đầu tiên chúng tôi sẽ phân chia đối tượng nghiên
cứu – tức ngôn ngữ thơ tình Xuân Quỳnh thành những yếu tố cấu thành giản đơn hơn
để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố và từ đó giúp
chúng tôi hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách toàn diện hơn.
Từ những kết quả nghiên cứu từng bộ phận, chúng tôi tổng hợp lại để có được
nhận thức đầy đủ, đúng đắn nhất, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối
tượng nghiên cứu.
Thống kê là một phương pháp phổ biến đối với hầu hết những công trình nghiên
cứu và luận văn của chúng tôi cũng không nằm ngoài khuynh hướng chung đó.
Nhìn chung các phương pháp trên đây không phải thực hiện một cách riêng lẻ,
biệt lập mà có sự kết hợp, đan xen, bổ trợ cho nhau trong suốt quá trình khảo sát, phân
tích, đánh giá vấn đề ở nội dung của luận văn.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
8
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
ẦN NỘI DUNG
PH
PHẦ
ươ
ng một
Ch
Chươ
ương
C TR
ƯNG CỦA
VẤN ĐỀ ĐẶ
ĐẶC
TRƯ
ÔN NG
Ữ TH
Ơ VI
ỆT NAM
NG
NGÔ
NGỮ
THƠ
VIỆ
Song song với lịch sử phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại đã xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu về thơ nói chung và ngôn ngữ thơ nói riêng. Trong đó,
vấn đề đặc trưng của ngôn ngữ thơ Việt Nam được tiếp cận theo nhiều khuynh hướng
khác nhau với mục đích nhằm làm nổi rõ sự khác biệt của ngôn ngữ thơ với các loại
hình ngôn ngữ khác như ngôn ngữ truyện hay ngôn ngữ giao tiếp. Đáng chú ý là các
công trình nghiên cứu: Tiếp cận nghệ thuật thơ ca của Bùi Công Hùng, Ngôn ngữ thơ
của Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ Việt Nam của Hữu Đạt và Ngôn ngữ văn
chương Việt Nam của Chim Văn Bé.
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ xin điểm qua một số kết quả nghiên
cứu trong công trình của những tác giả mà chúng tôi vừa nêu trên về những nội dung
có liên quan đến phương diện ngôn ngữ thơ.
I.
ỄN PHAN CẢNH
QUAN ĐIỂM CỦA NGUY
NGUYỄ
ữ th
ơ của Nguyễn Phan Cảnh nghiên cứu về một số nội dung liên quan
Ng
Ngôôn ng
ngữ
thơ
đến ngôn ngữ như: hai thao tác cơ bản của hoạt động ngôn ngữ, hai phương thức của
nghệ thuật ngôn từ, cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa, lắp ghép, nhạc thơ,…
Dưới đây là một số vấn đề mà Nguyễn Phan Cảnh đã đề cập trong công trình
nghiên cứu của mình.
1.
Về thao tác cơ bản của ng
ngôôn từ ngh
nghệệ thu
thuậật
Nguyễn Phan Cảnh cho rằng: lựa chọn và kết hợp là hai thao tác cơ bản của
hoạt động ngôn ngữ.
Thao tác lựa ch
chọọn được tác giả giải thích là một thao tác “dựa trên một khả
năng của ngôn ngữ là các đơn vị ngôn ngữ có thể luân phiên cho nhau nhờ vào tính
tương đồng giữa chúng” [3; tr. 11 –12].
Khi so sánh mối quan hệ giữa từ “ĂN” với từ “chén”, ‘xơi”, Nguyễn Phan
Cảnh minh họa bằng lược đồ như sau:
xơi
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
9
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
b
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Theo Nguyễn Phan Cảnh, nếu xét từ phía tác giả, hiện tượng lựa chọn diễn ra
giữa vốn ngôn ngữ và cá nhân tác giả. Công việc này giúp tác giả nói được ý mình.
Còn nếu xét về phía người đọc, hiện tượng lựa chọn diễn ra giữa vốn ngôn ngữ và cá
nhân người đọc. Công việc này giúp người đọc hiểu được ý tác giả.
Thao tác kết hợp được Nguyễn Phan Cảnh định nghĩa: “Thao tác kết hợp dựa
trên một khả năng khác của hoạt động ngôn ngữ, là các yếu tố ngôn ngữ có thể đặt
bên cạnh nhau nhờ vào mối quan hệ tương cận giữa chúng” [3; tr. 19].
Cũng theo ông, nếu xét vấn đề từ phía tác giả, hiện tượng kết hợp diễn ra giữa
tác giả và tác phẩm. Cùng một số yếu tố ngôn ngữ như nhau, người nắm vững khả
năng kết hợp sẽ nhanh chóng tìm ra được cách kết hợp tốt nhất, từ đó, làm cho lời nói
đạt hiệu quả cao nhất. Nếu xét vấn đề từ phía người đọc, hiện tượng kết hợp diễn ra
giữa tác phẩm và cá nhân người đọc. Công việc này giúp người đọc hiểu được ý tác
phẩm.
2.
Về ph
ươ
ng th
ức của ngh
phươ
ương
thứ
nghệệ thu
thuậật ng
ngôôn từ
Nguyễn Phan Cảnh cho rằng, hai phương thức cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật
là phương thức tạo hình và phương thức biểu hiện.
ươ
ng th
ức tạo hình, theo tác giả, là “trực tiếp miêu tả các
Nét đặc trưng của ph
phươ
ương
thứ
hiện tượng của hiện thực vẽ nên bức tranh về cuộc sống, mở ra trước mắt người xem
các tác phẩm giống với các đối tượng trong thực tế” [3; tr. 28]. Chính khả năng này đã
giúp ngôn ngữ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình: phản ánh hiện thực một cách trực
tiếp trong tất cả tính cụ thể và tầm rộng lớn của nó.
Bên cạnh đó, chính nhờ đặc tính này, đã nảy sinh một khả năng vô cùng quyết
định đối với nghệ thuật ngôn ngữ – đó là lắp ghép, tức là “xây dựng những kết hợp
như thế nào đấy mà trong khi vẫn tập trung sự chú ý của người nghe vào bình diện
ngữ nghĩa thứ nhất, đã đồng thời lại tạo nên một ý nghĩa mới có nội dung lớn hơn tổng
số nội dung ý nghĩa của các thành tố của kết hợp” [3; tr. 32]. Chính ngay lúc chức
năng định danh bị xóa nhòa đi thì chức năng biểu hiện được nảy sinh.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
10
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
ươ
ng th
ức bi
Tác giả cũng cho rằng, nét đặc trưng của ph
phươ
ương
thứ
biểểu hi
hiệện là “biểu hiện
cảm nghĩ nhất định của con người, thể hiện cách nhận thức và đánh giá của con người
đối với cuộc sống” [3; tr. 33].
3.
ức kép các lượ
ng ng
ữ ngh
Về cách tổ ch
chứ
ượng
ngữ
nghĩĩa
Nguyễn Phan Cảnh cho rằng: “Tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa là kỹ năng
dựa vào sức liên tưởng của người nhận, đem liên kết các tín hiệu ngôn ngữ hoặc cùng
xuất hiện trên thông báo, hoặc chỉ xuất hiện trên thông báo và tồn tại trong mã ngôn
ngữ, để kiến lập những chỉnh thể không phân lập về mặt mỹ học, tạo nên ý ngầm về
chiều dày các câu, chữ” [3; tr. 81].
Tác giả quan niệm: “Tổ chức các lượng ngữ nghĩa” là lấy nghĩa đen làm giá trị,
tức nhân tố thứ hai không được sử dụng, nghĩa trực tiếp của từ là tất nhiên và không
gây bất cứ sự chú ý nào đối với người tiếp nhận. Còn “Tổ chức kép các lượng ngữ
nghĩa” là lấy nghĩa ngầm làm giá trị, trước mắt người đọc chỉ là những câu chữ đơn sơ,
tức nhân tố thứ nhất, và khi đó nhân tố thứ hai mới là yếu tố chính. Lúc này, nhân tố
thứ nhất được nhận thức là một vế đối lập của cái ý ngầm được tri giác.
Tác giả cũng khẳng định, muốn cho một tín hiệu “gọi” một tín hiệu khác, thì
phải tổ chức ngôn ngữ thành một đơn vị không phân lập, sao cho đủ liên tưởng đến tín
hiệu muốn kêu gọi. Theo Nguyễn Phan Cảnh, cách tổ chức lượng ngữ nghĩa kép tối ưu
là phương thức ẩn dụ, bên cạnh đó còn có so sánh và điển tích.
Ẩn dụ là kiểu mã hóa cơ bản “nơi mối liên tưởng do chỗ không bị quy định bởi
tín hiệu trên thông báo cũng như bởi nội dung của tín hiệu được kêu gọi, nên đã trở
thành vô cùng linh hoạt, đa dạng, cho phép nhà thơ đi hết chiều sâu của năng lực hình
tượng của mình […] làm nên nội dung chủ yếu của một thời đại thi ca” [3; tr. 86].
So sánh là “cách tổ chức dễ thấy nhất, cho phép tín hiệu kêu gọi và tín hiệu
được kêu gọi cùng xuất hiện trên thông báo, và thông qua một tín hiệu chỉ dẫn người
đọc được báo về mối liên tưởng đó” [3; tr. 91 – 92].
Điển tích là “chỉ tín hiệu kêu gọi là xuất hiện trên thông báo, còn tín hiệu được
kêu gọi thì không những tiềm tàng trong mã mà còn chỉ có thể được liên tưởng với
điều kiện là phải có sự tích lũy văn học nhất định về phía người đọc” [3; tr. 98].
Theo Nguyễn Phan Cảnh, các phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ về
bản chất vẫn là việc khai thác khả năng thi ca trên trục lựa chọn của ngôn ngữ. Cái
được sử dụng là các đơn vị, vì thế người ta trau chuốt từ, cảm xúc mỹ học được xây
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
11
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
dựng bằng hiệu quả của bất ngờ từ pháp – nghĩa là của tổ chức kép các lượng ngữ
nghĩa, của các cấu trúc ẩn dụ tính.
4.
Về lắp gh
ghéép
Nguyễn Phan Cảnh giải thích: “Lắp ghép là kỹ năng dựa vào tình tiết và thứ tự
về sức chú ý và theo dõi của người nhận, đem nối các cảnh mô tả theo một quy luật
nhất định, để nhằm tạo nên ý ngầm giữa các khoảng cách của những cảnh đó” [3; tr.
103]
Theo tác giả, một văn bản thơ bao gồm nhiều cảnh miêu tả riêng lẻ với tư cách
là những yếu tố tạo thành của một tác phẩm. Khi nhân tố thứ hai không được sử dụng,
thì nhân tố thứ nhất cũng gần như không được tri giác, người đọc sẽ không có cảm
giác gì về khoảng cách giữa các cảnh, nghĩa trực tiếp của từ là tất nhiên và không làm
người đọc có suy nghĩ gì khác – đây là “cách phân bố từ bình diện ngữ nghĩa này đến
bình diện ngữ nghĩa khác”, nghĩa là phân bố tuyến tính, lấy trật tự làm giá trị.
Ngược lại, khi một cảnh xuất hiện mà chúng ta không thể đoán trước được thì
sẽ xuất hiện một ý ngầm giữa khoảng cách của hai cảnh miêu tả. Từ đây, Nguyễn Phan
Cảnh bàn về mối quan hệ ẩn ngầm trong ngôn ngữ thơ: “Khi mối quan hệ ẩn ngầm
được phát hiện đầy đủ, sẽ xuất hiện một “bố cục thứ hai”, trên cơ sở của bố cục thứ
hai đó, quá trình tri giác của văn bản nghệ thuật mới thực sự kết thúc” [3; tr. 109].
Cũng theo tác giả, các phương thức chuyển nghĩa có tính chất hoán dụ về bản
chất vẫn là việc khai thác khả năng thi ca trên trục kết hợp của ngôn ngữ. Cái được sử
dụng là các quan hệ, vì thế người ta trau chuốt câu, cảm xúc mỹ học được xây dựng
bằng hiệu quả bất ngờ cú pháp – nghĩa là của lắp ghép, của cấu trúc hoán dụ tính.
5.
ạc th
ơ
Về nh
nhạ
thơ
Nguyễn Phan Cảnh quan niệm: “Chính yêu cầu truyền đạt thông tin đã được xử
lý về thời gian và không gian đã làm xuất hiện nhạc thơ” [3; tr. 117].
Tác giả khẳng định, chức năng của nhạc thơ là phát các tín hiệu báo động trước
kết thúc đơn vị không phân lập để hướng đơn vị không phân lập theo sau vào thế sẵn
sàng. Với chức năng này, nhạc thơ tồn tại như một cơ chế hãm/ chặn chống lại các
hợp thành thi pháp không chương trình hóa, qua đó loại trừ mọi sai lệch khả năng,
đảm bảo độ trung thành cao cho hệ lưu giữ – truyền đạt [3; tr. 117]. Nhạc thơ đóng vai
trò quan trọng đặc biệt trong thi pháp: “thiên chức tự điều chỉnh thiêng liêng đã làm
nhạc hòa hồn thơ” [3; tr. 117].
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
12
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Nguyễn Phan Cảnh cũng nêu ra ba hệ thống nhịp điệu như sau:
“Một mặt, các thuộc tính âm thanh vừa có đối lập, nghĩa là một trong hai vế
của chúng (cao – thấp, mạnh – nhẹ, dài – ngắn) là được thực hiện trong một thông
báo.
Mặt khác, các thuộc tính âm thanh lại còn có tương phản, nghĩa là hai vế của
chúng chỉ được nhận diện hoàn toàn khi cả hai cùng hiện diện trên chiết đoạn. Một hệ
luận quan trọng đã xuất hiện từ đây: nhờ quan hệ tương cận, tính chất cực của các
thuộc tính âm thanh đã được nêu bật.
Và chính các vế có tính chất cực này, một khi được luân phiên chính xác, sẽ tạo
nên những khoảng cách tương tự về thời gian.
Từ đó đã nảy sinh ba hệ thi pháp cơ bản của ngôn ngữ: nếu đối lập quan hệ
dài – ngắn trong nguy
nguyêên âm có tính ch
chấất âm vị học, thì thi pháp của ngôn ngữ đó là
ng như thơ La tinh…, nếu đối lập mạnh – nhẹ ở âm ti
hệ câu thơ theo lượ
ượng
tiếết có tính
ch
chấất âm vị học, thì thi pháp của ngôn ngữ đó là hệ câu thơ theo tr
trọọng âm thơ Nga…,
còn nếu đối lập bằng – trắc ở âm ti
tiếết có tính ch
chấất âm vị học thì thi pháp của ngôn ngữ
này là hệ câu thơ theo thanh điệu như thơ Việt…
Hệ bằng – trắc, lấy đối lập thanh điệu làm chất liệu, chính là hệ thi pháp của
các ngôn ngữ thanh điệu chính danh, nơi sự luân phiên của các bước thơ theo trình tự
BẰNG – TRẮC – BẰNG – TRẮC… sẽ tạo nên tiết tấu thơ” [3; tr. 121].
Nguyễn Phan Cảnh cho rằng, ti
tiếết tấu là các “thuộc tính âm thanh được lưu
giữ – truyền đạt trong khi tổ chức các quá trình thi ca”. Còn “Vần” là các “đơn vị âm
thanh được lưu giữ – truyền đạt trong khi tổ chức các quá trình loại thể”. “Chính
dưới hiệu quả của tiết tấu và vần này mà đã chỉ cho phép xuất hiện các hợp thành thi
pháp chương trình hóa: mang cơ chế tự điều chỉnh trong mình, thơ ca đã đi vào quỹ
đạo của những hệ bền vững”, từ đó tạo nên một nét riêng tiêu biểu – gọi là “đặc trưng
nhạc tính” [3; tr. 119]. Mặt khác, tiết tấu được tác giả định nghĩa là sự “lặp đi lặp lại
một cách liên tục các hiện tượng tương tự có thể thay thế cho nhau trong thời gian và
không gian” [3; tr. 120].
Theo tác giả, có hai cách khai thác nhạc tính chủ yếu: giai đoạn văn học khi thơ
là chủ đạo và giai đoạn văn học khi văn xuôi là chủ đạo. Trong giai đoạn văn học khi
thơ là chủ đạo: văn bản ngôn ngữ xây dựng theo hệ lựa chọn, nhạc thơ thì xây dựng
theo hệ đối lập: mọi khai thác nhạc tính trong thơ sẽ xoay quanh vần. Điều này làm
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
13
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
cho thể loại chặt chẽ hơn. Nhạc thơ ở đây do nguyên âm và phụ âm đưa lại. Các
nguyên âm tiếng Việt nằm trong thế đối lập bao gồm trầm – bổng và khép – mở. [3; tr.
124]. Trong giai đoạn văn học khi văn xuôi là chủ đạo: văn bản ngôn ngữ xây dựng
theo hệ kết hợp, nhạc thơ xây dựng theo hệ tương phản: mọi khai thác nhạc tính trong
thơ sẽ xoay quanh tiết tấu. Điều này làm cho số lượng âm tiết trong câu thơ tự do hơn.
Nhạc thơ ở đây do thanh điệu tạo thành. Các nguyên âm tiếng Việt nằm trong thế đối
lập bao gồm cao – thấp và bằng – trắc. [3; tr. 127].
6.
ận xét, đá
nh gi
Nh
Nhậ
đánh
giáá quan điểm của tác gi
giảả
ữ th
ơ và hệ thống thành mười hai chương
Nguyễn Phan Cảnh viết Ng
Ngôôn ng
ngữ
thơ
nhưng chưa thực sự rõ ràng, khiến người đọc khó nắm bắt được những đặc điểm của
ngôn ngữ thơ. Hơn nữa, tiêu đề mỗi chương lại khá dài và khó hiểu.
Tuy có vận dụng quan điểm thi pháp học của R. Jakobson vào việc xem xét thơ
trữ tình Việt Nam, thông qua hai thao tác lựa chọn và kết hợp để qua đó, Nguyễn Phan
Cảnh cũng làm nổi bật lên một số đặc trưng của ngôn ngữ trữ tình Việt Nam ở một số
phương diện nhất định. Dù vậy, việc nghiên cứu công trình của R. Jakobson của tác
giả vẫn có một số điểm bất cập.
Khi đưa ra khái niệm Thao tác lựa ch
chọọn, Nguyễn Phan Cảnh đã minh họa cho
mối quan hệ giữa từ ĂN với chén, xơi bằng lược đồ mà chúng tôi đã nêu trong chương
một của luận văn. Tác giả giải thích rằng, từ ăn mang nghĩa chung của cả nhóm đồng
nghĩa (đưa thức ăn vào mồm), cộng với sắc thái nghĩa a (không thân mật), sắc thái
nghĩa b (không trang trọng) và sắc thái nghĩa n… [3; tr. 13 – 14]. Tuy các nét nghĩa
riêng của từ ăn chỉ bộc lộ qua mối quan hệ đối sánh với các từ đồng nghĩa như chén,
xơi,…nhưng sự đối sánh này chỉ được thực hiện ở trục lựa chọn, ứng với quan hệ đối
vị. Còn lược đồ mà tác đã đưa ra lại cho thấy tác giả đã đồng nhất thao tác lựa chọn
trên quan hệ đối vị với thao tác kết hợp trên quan hệ ngữ đoạn.
ươ
ng th
ức tạo hình như Nguyễn Phan Cảnh đã nêu
Với cách định nghĩa ph
phươ
ương
thứ
trong công trình của mình [3; tr.28], cho thấy tác giả đã đồng nhất ngôn ngữ văn
chương với ngôn ngữ giao tiếp vì cho rằng chúng đều là loại hình ngôn ngữ mang tính
hướng ngoại, song thực chất ngôn ngữ văn chương lại mang tính hướng nội. Và cũng
cần lưu ý rằng, nghệ thuật vẫn là nghệ thuật bởi thật khó để có thể tạo ra những bức
tranh hoàn toàn giống với đối tượng trong thực tế.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
14
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Cũng trong mục này, tác giả đề cập đến lắp ghép – một khả năng vô cùng quyết
định đối với nghệ thuật ngôn từ [3; tr. 32], nhưng khái niệm mà tác giả đưa ra lại
không rõ nội hàm là gì cả. Thực chất, cái mà tác giả gọi là lắp ghép chính là một tên
gọi khác của song hành cú pháp trong tu từ học.
ươ
ng V, ngay cách đặt tiêu đề: Cách tổ ch
ức kép các lượ
ng ng
ữ ngh
Ở Ch
Chươ
ương
chứ
ượng
ngữ
nghĩĩa
ươ
ng th
ức chuy
hay bản ch
chấất các ph
phươ
ương
thứ
chuyểển ngh
nghĩĩa có tính ch
chấất ẩn dụ, người đọc cũng đã
hiểu rằng Nguyễn Phan Cảnh đã đồng nhất tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa với
phương thức ẩn dụ. Mà bản thân khái niệm tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa cũng đã
là một khái niệm quá mơ hồ, không có cơ sở ngôn ngữ học mà chỉ là kết quả của lối
suy tán tư biện. Xét về mặt thao tác ngôn từ, tổ chức kép tức là nói đến mối quan hệ
ngữ đoạn với trục kết hợp. Và thực chất cái gọi là tổ chức kép không đơn giản chỉ là
kép (hai) mà còn có thể nhiều hơn hay nói chính xác hơn, đó chính là tính đa nghĩa
như tác giả Chim Văn Bé đã nêu trong công trình nghiên cứu của mình. Còn ẩn dụ là
việc chuyển nghĩa theo quan hệ đối vị với trục lựa chọn, dựa trên sự tương đồng của sự
vật. Tức A và B phải có mối quan hệ, quy định lẫn nhau chứ không phải như lời kết
luận mang tính chất suy tán của Nguyễn Phan Cảnh: ẩn dụ là kiểu mã hóa cơ bản nơi
nh bởi tín hiệu trên thông báo cũng như bởi nội
mối liên tưởng do chỗ kh
khôông bị quy đị
định
dung của tín hiệu được kêu gọi [3; tr. 86]. Và thực chất, ẩn dụ là đơn nghĩa, chỉ có giá
trị tạo hình và biểu cảm, chứ không phải là cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa như
tác giả đã ngộ nhận. Do đó, không thể đồng nhất ẩn dụ và tổ chức kép các lượng ngữ
nghĩa.
Hơn nữa, tác giả lại cho rằng: ẩn dụ là phương thức mà các tín hiệu ngôn ngữ
cùng xu
xuấất hi
hiệện trên thông báo [3; tr. 81]. Đây hoàn toàn là một kết luận thiếu tính
khoa học, bởi nếu cùng xu
xuấất hi
hiệện thì khi ấy, đó có phải là phương thức ẩn dụ không?
Ngoài ra, khi nói so sánh cho phép tín hiệu kêu gọi và tín hiệu được kêu gọi
cùng xu
xuấất hi
hiệện trên thông báo [3; tr. 91] thì lời giải thích này lại mâu thuẫn với nhận
định trước đó của ông khi cho rằng so sánh cũng là một hình thức của tổ chức kép các
lượng ngữ nghĩa. Hơn nữa, đã cùng xuất hiện thì sao có thể gọi là “kép”. So sánh thực
ra được tạo lập trên quan hệ ngữ đoạn với trục kết hợp, chứ không phải là được tạo lập
trên quan hệ đối vị của trục lựa chọn như tác giả đã nêu.
ươ
ng VI: Lắp gh
ươ
ng th
ức chuy
Ở Ch
Chươ
ương
ghéép hay bản ch
chấất các ph
phươ
ương
thứ
chuyểển ngh
nghĩĩa có tính
ch
chấất ho
hoáán dụ, tác giả cũng có những nhận định thiếu cơ sở. Xét cho cùng, lắp ghép
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
15
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
chính là việc chuyển nghĩa theo quan hệ ngữ đoạn với trục kết hợp. Còn hoán dụ là
việc tạo nghĩa theo quan hệ đối vị với trục lựa chọn, dựa trên sự gần gũi của sự vật.
Cho nên, cũng không thể đồng nhất hoán dụ và lắp ghép.
Qua hai nội dung được tác giả đề cập trong chương V và chương VI của Ngôn
ngữ thơ thì nếu tác giả có làm sáng tỏ được nội hàm ẩn dụ, hoán dụ hay so sánh thì đó
chẳng qua cũng chỉ là việc “khám phá lại” những phương thức mà tu từ học đã nghiên
cứu và thành công từ rất lâu.
ươ
ng VII: Nh
ơ, trên cơ sở xem xét các thuộc tính của âm thanh bộc
Ở Ch
Chươ
ương
Nhạạc th
thơ
lộ qua quan hệ đối vị và quan hệ ngữ đoạn, Nguyễn Phan Cảnh đã nêu ra ba hệ thống
nhịp điệu [3; tr. 121]. Cách phân loại hệ thi ph
phááp của Nguyễn Phan Cảnh rõ ràng là
không nhất quán: Các thể đối lập trong ba hệ thi pháp khi thì được xem qua nguy
nguyêên
âm có tính chất âm vị học, khi thì lại được xem xét qua âm ti
tiếết có tính chất âm vị học.
Bản thân hai khái niệm nguyên âm có tính chất âm vị học và âm tiết có tính chất âm vị
học nghe cũng chẳng rõ nội hàm gì. Điều đáng lưu ý nữa là, mặc dù có đề cập đến các
thuộc tính cao – thấp, mạnh – yếu, dài – ngắn của các nguy
nguyêên âm và âm ti
tiếết, nhưng
Nguyễn Phan Cảnh lại khẳng định rằng, thơ Việt thuộc hệ thơ thanh điệu, tức loại
hình thơ có nhịp điệu phát triển trên cơ sở thanh điệu, và bước thơ chỉ là sự luân phiên
hai âm tiết đối lập về âm điệu (bằng – trắc) của thanh điệu. Nếu như vậy thì còn gì là
thơ nữa khi mọi văn bản đều là sự rập khuôn của cách ngắt nhịp 2/2, đơn điệu và phi
nghệ thuật. Và chúng ta sẽ phải ngắt như thế nào đối với những thể thơ ngũ ngôn, thất
ngôn, song thất lục bát,… Chắc chắn câu thơ sẽ trở nên rời rạc, không rõ nghĩa và
cũng chẳng thấy thơ đâu nữa, hiếm chăng là nhịp 2/2 thường chỉ nghiệm đúng trong
thể thơ lục bát hay những câu thơ có số lượng âm tiết chẵn.
Tác giả cũng kết luận: loại hình nhịp điệu của thơ tiếng Việt thuộc loại thanh
điệu tính [3; tr. 120 – 121], song kết luận này lại mâu thuẫn với chính những gì mà ông
đã khẳng định tiếp theo khi đề cập đến nhạc tính của tiếng Việt trong hai giai đoạn văn
học: Đối với giai đoạn văn học thơ là chủ đạo, ông viết: Nói một cách kỹ thuật , nhạc
thơ ở đây chủ yếu là do NGUYÊN ÂM, PHỤ ÂM đưa lại [3; tr. 124]. Đối với giai đoạn
văn học văn xuôi là chủ đạo, ông khẳng định: Nói một cách kỹ thuật, nhạc thơ ở đây
chủ yếu lại do các THANH ĐIỆU tạo thành [3; tr. 127].
Thực chất, nhịp điệu thơ tiếng Việt thuộc loại nhịp điệu tr
trọọng âm – âm ti
tiếết tính.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
16
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Mặt khác, sự hòa phối về thanh điệu, vần, nhịp điệu và tiết tấu chỉ tạo nên tính
nhạc cho ngôn ngữ thơ ca, chứ không tạo ra nhạc thơ, tức âm nhạc của thơ như cách
diễn đạt và luận giải của Nguyễn Phan Cảnh. Bởi vì trong âm nhạc, cao độ, trường độ
của các nốt nhạc cũng như nhịp, tiết tấu và quãng lặng là xác định. Còn tính nhạc của
ngôn từ thơ ca, dù là hiện tượng khách quan nhưng có phần mơ hồ, không rõ ràng, xác
định. Rõ ràng, Nguyễn Phan Cảnh không có ý thức xác lập mối quan hệ giữa các yếu
tố biểu hiện tính nhạc của ngôn ngữ thơ với các thành tố âm nhạc. Hơn nữa, Nguyễn
Phan Cảnh cũng không chỉ ra được nhạc của một câu thơ, một dòng thơ nào.
ủ yếu, khi xây dựng những bảng
Trong phần Hai cách khai th
tháác nh
nhạạc tính ch
chủ
biểu về trầm – bổng, khép – mở của nguyên âm tiếng Việt, Nguyễn Phan Cảnh đã
nhầm lẫn giữa thanh và chữ cái. [3; tr. 124]
II.
T
QUAN ĐIỂM CỦA HỮU ĐẠ
ĐẠT
ữ th
ơ Vi
Công trình Ng
Ngôôn ng
ngữ
thơ
Việệt Nam của Hữu Đạt đề cập đến khá nhiều nội
dung như: Đặc điểm về loại hình ngôn ngữ và phong cách thơ ca Việt Nam, hai
phương thức cơ bản của ngôn ngữ thơ, tổ chức ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng thơ,
một số tính chất và đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ, chơi chữ, vài nhận xét về
sự phát triển của ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại.
Sau đây, chúng tôi chỉ xin điểm qua một số nội dung của phương diện ngôn ngữ:
hai phương thức cơ bản của ngôn ngữ thơ, tổ chức ngôn ngữ và cấu trúc hình tượng
thơ và một số tính chất và đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ mà Hữu Đạt đã đề
cập trong công trình nghiên cứu của mình.
1.
ươ
ng th
ức của ng
ữ
Về ph
phươ
ương
thứ
ngôôn ng
ngữ
Hữu Đạt cho rằng, ngôn ngữ thơ tiếng Việt có hai phương thức quan trọng:
phương thức tạo hình và phương thức biểu hiện.
1.1
ươ
ng th
ức tạo hình
Ph
Phươ
ương
thứ
ươ
ng th
ức tạo hình “miêu tả đối tượng như vốn có của
Hữu Đạt cho rằng, ph
phươ
ương
thứ
nó trong thực tế khách quan” [4; tr. 38].
Và theo tác giả, để tạo nên phương thức tạo hình, “nhà nghệ sĩ” phải sử dụng
hai thao tác cơ bản: lựa chọn và kết hợp.
Bên cạnh đó, tác giả cũng khẳng định, khi xây dựng một văn bản, người tạo lập
văn bản phải tuân theo trình tự: Từ – ngữ (cụm từ) – câu – đoạn văn – văn bản. Từ
hoạt động với tư cách là bức tranh tạo hình hoàn toàn cụ thể, có thể tri giác được bằng
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
17
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
cảm giác. Câu được xem như là một bức tranh khá hoàn chỉnh, trọn vẹn về sự vật. Còn
đoạn văn, văn bản có thể được xem như một bức tranh rộng lớn về nhiều sự vật, hiện
tượng được hòa phối với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Văn bản thơ có tính tạo
hình là văn bản có khả năng gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh về một sự vật, hiện
tượng nào đó.
Hữu Đạt cho rằng, thông qua phương thức tạo hình, tác giả muốn người đọc
thấy được nội tâm, cá tính nhân vật đang được nói đến hay là của chính nhà thơ.
Phương thức tạo hình thích hợp ở cả thơ ca anh hùng lẫn thơ ca trữ tình.
Cũng theo tác giả, phần vần và một số nguyên âm trong tiếng Việt chính là tiền
đề vật chất của phương thức tạo hình trong thơ ca Việt Nam. Khi giải thích và chứng
minh cho luận điểm này, Hữu Đạt đã nêu lên một số vần cũng như giá trị gợi hình của
nó: um là hình ảnh về sự vật có độ rỗng hoặc các âm thanh phát ra từ các sự vật có độ
rỗng đó; óp là hình ảnh về sự vật có thể tích bị thu hẹp; ép là hình ảnh về sự vật có thể
tích bị thu nhỏ, có thể tới mức tối đa; oe là hình ảnh về sự vật có kích thước mở rộng;
eo là hình ảnh về sự vật có kích thước bị thu hẹp hoặc ở tư thế không vững chãi. [4;tr.
55 – 57]. Tương tự, tác giả cũng cố gắng đi tìm những giá trị gợi hình của một số
nguyên âm: i là hình ảnh về các sự vật có kích thước, âm thanh nhỏ, bé; e là hình ảnh
về các sự vật mảnh và nhỏ, các âm thanh bé và chói. [4; tr. 59]
1.2
ươ
ng th
ức bi
Ph
Phươ
ương
thứ
biểểu hi
hiệện
ươ
ng th
ức bi
Hữu Đạt giải thích: ph
phươ
ương
thứ
biểểu hi
hiệện “chính là việc khai thác các khả
năng biểu hiện của các đơn vị ngôn ngữ thông qua thao tác lựa chọn và thao tác kết
hợp trong quá trình tổ chức văn bản”. [4; tr. 65]
Tác giả cho rằng, quá trình hiện thực hóa phương thức biểu hiện chính là quá
trình thực hiện biện pháp chuyển nghĩa. Hữu Đạt cũng cho rằng, phân tích phương
thức biểu hiện của ngôn ngữ thơ ca thực chất bao gồm hai mặt: “phân tích những kiểu
diễn đạt cơ bản trong thơ ca” và “phân tích những biện pháp chuyển nghĩa mà nhà
thơ áp dụng để biểu thị những suy nghĩ, tình cảm của mình trước đối tượng, cũng như
việc miêu tả những tính chất và phẩm cách của đối tượng” [4; tr. 76 – 77].
Hữu Đạt quan niệm, phương thức biểu hiện trong thơ ca có được là nhờ tính
tình thái. Theo ông, có hai nguyên nhân làm nảy sinh tính tình thái: “việc hình thành
các thể đối lập trong các cấp độ ngôn ngữ” và “việc hình thành ra thế bổ sung trong
các cấp độ ngôn ngữ”.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
18
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
Ngôn từ nghệ thuật trong một số bài thơ tình của Xuân Quỳnh
Về thế bổ sung, từ những từ đồng nghĩa, nhà thơ sẽ vận dụng và thể hiện mục
đích miêu tả đối tượng.
Về thế đối lập, có bốn trường hợp:
(1) Mũi / không mũi; tắc / vang
Các từ được cấu tạo bằng âm cuối là phụ âm mũi, khi đọc lên có vẻ bay bổng,
ngân vang hơn và thường biểu hiện những tình cảm dàn trải, mênh mang. Trái lại, các
từ được cấu tạo bằng âm cuối là phụ âm tắc khi đọc lên thường không có tiếng vang,
bay bổng và có nét khúc mắc, nghẹn ngào [4; tr. 90].
(2) Trước / sau trong hệ thống nguyên âm; bằng / trắc trong hệ thống thanh
điệu.
Từ mang nguyên âm dòng trước (i, e, ê) thể hiện cho những tình cảm tươi sáng,
nhí nhảnh. Từ mang nguyên âm dòng sau và dòng giữa (ư, u, o, ô) thể hiện cảm giác u
tối, trầm buồn. Thanh bằng thể hiện tâm trạng sâu lắng, nỗi buồn xót xa, xa vắng,
mênh mông. Thanh trắc thể hiện sự gan góc, khó khăn, sóng gió [4; tr. 90 – 91].
(3) Vần khép / vần mở
(4) Về ngữ nghĩa: dài / ngắn; cao / thấp; gần / xa.
2.
ức ng
ôn ng
ữ và cấu tr
úc hình tượ
ng th
ơ
Về tổ ch
chứ
ngô
ngữ
trú
ượng
thơ
ng th
ơ là “một bức tranh sinh động và tương đối hoàn
Theo Hữu Đạt, hình tượ
ượng
thơ
chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có tính
chất vần, điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ” [4; tr.
ng là “cái nghĩa tiềm năng được hình thành do quá trình
100]. Còn ngh
nghĩĩa hình tượ
ượng
nhận thức của con người cùng với sự phát triển của lịch sử lâu dài” [4; tr. 116].
3.
ữ th
ơ
Về một số tính ch
chấất, đặ
đặcc điểm quan tr
trọọng của ng
ngôôn ng
ngữ
thơ
Hữu Đạt cho rằng, ngôn ngữ thơ ca Việt Nam có ba tính chất, đặc điểm quan
trọng: tính tương xứng, tính nhạc và đặc điểm phong cách nhà thơ. Tuy nhiên, luận
văn của chúng tôi chỉ tập trung điểm qua hai đặc điểm liên quan trực tiếp đến ngôn
ngữ thơ mà tác giả đã đề cập trong công trình nghiên cứu của mình là tính tương xứng
và tính nhạc.
ng xứng trong ng
ữ th
ơ
3.1 Tính tươ
ương
ngôôn ng
ngữ
thơ
ng xứng trong ngôn ngữ thơ, tác giả cho rằng, đây là một trong
Bàn về tính tươ
ương
những đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ ca, nó đảm bảo cho thơ ca có một vẻ đẹp
đặc biệt, hài hòa.
CBHD: ThS. CHIM VĂN BÉ
19
SVTH: Lê Thị Hồng Đào
- Xem thêm -