Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Ngữ âm tiếng lộc hà hà tĩnh tt...

Tài liệu Ngữ âm tiếng lộc hà hà tĩnh tt

.PDF
26
374
82

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------------------- NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG NGỮ ÂM TIẾNG LỘC HÀ - HÀ TĨNH Ngành: Mã số: Ngôn ngữ học 9.22.90.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2018 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc Phản biện 1: GS.TS. Mai Ngọc Chừ Phản biện 2: GS.TS. Lê Quang Thiêm Phản biện 3: PGS.TS. Đặng Thị Hảo Tâm Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Học viện Khoa học xã hội 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu, song, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về tiếng địa phương Lộc Hà, đặc điểm ngữ âm tiếng Lộc Hà. 1.2. Do những đặc điểm riêng về lãnh thổ, địa lí, lịch sử, dân cư, tiếng Lộc Hà được đánh giá là có đặc trưng giọng nói cao hơn hẳn so với nhiều tiếng địa phương lân cận khác ở Hà Tĩnh cũng như trong cả khu vực Nghệ Tĩnh. 1.3. Nghiên cứu đề tài “Ngữ âm của tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh” để tìm hiểu những tương đồng và đặc biệt là những nét khác biệt giữa giọng nói ở Lộc Hà với hệ thống ngữ âm của phương ngữ Nghệ Tĩnh nói riêng và hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân nói chung. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Các nghiên cứu của học giả nước ngoài Đối với các học giả nước ngoài, chúng tôi thấy trong các công trình nghiên cứu của họ nổi lên có ba mục tiêu tiếp cận (khuynh hướng) chủ yếu sau: a) hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề phân chia các vùng phương ngữ của tiếng Việt; b) hướng nghiên cứu PN gắn với việc tìm hiểu lịch sử và tiến trình phát triển của tiếng Việt, và c) hướng nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu đặc điểm ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp của các PN, thổ ngữ tiếng Việt ở những vùng, miền khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với phương ngữ Trung, các nghiên cứu cũng tập trung chủ yếu vào các vấn đề ngữ âm ở khu vực từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế, tiêu biểu L. Cadière (1902), các công trình của M.B. Emeneau (1951), M. 2 Harvey & Taylo (1962), M. Ferlus, M. Alves & Nguyen Duy Huong (1998), Andre Hoa Phạm (2005), Honda Koichi (2006, 2008) v.v… 2.2. Các nghiên cứu trong nước So với các tác giả nước ngoài, mục tiêu (khuynh hướng) nghiên cứu PNTV của các học giả trong nước có phần được mở rộng hơn; nhiều nội dung nghiên cứu, tìm hiểu liên quan đến PNTV được các tác giả gắn với nhu cầu thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt là “công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, …v.v. Các nghiên cứu PN trong nước đã tập trung và hướng chú ý tới những vấn đề sau: Tiêu chuẩn và nguyên tắc phân vùng phương ngữ; nghiên cứu phương ngữ gắn với việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt; nghiên cứu phương ngữ gắn với yêu cầu chuẩn hóa tiếng Việt; nghiên cứu phương ngữ gắn với các vấn đề của đời sống; nghiên cứu phương ngữ trong sự vấn động và phát triển của xã hội; nghiên cứ đặc điểm các phương ngữ, thổ ngữ cụ thể. Đối với phương ngữ Trung: Các tác giả tiêu biểu: Phạm Văn Hảo (1991); Võ Xuân Quế (1993); Võ Xuân Trang (1997); Hoàng Trọng Canh (2001); Nguyễn Văn Lợi (2002); Nguyễn Văn Nguyên (2003); Trần Trí Dõi (2007), v.v.…Các nghiên cứu theo hướng này đã chứng minh và cho thấy: phương ngữ Trung được xem là phương ngữ còn bảo lưu nhiều dấu vết cổ của có liên quan đến lịch sử Tiếng Việt; đồng thời đã cung cấp một bức tranh khái quát về đặc điểm ngữ âm, từ vựng của các phương ngữ Trung từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế; phương pháp nghiên cứu đã có sự kết hợp đồng đại/lịch đại; cảm thụ thính giác/ thực nghiệm… khá tin cậy… v.v. Tóm lại, những vấn đề về phương ngữ học từ lâu đã được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, tuy nhiên, vùng đất Lộc Hà chưa có công trình nào nghiên cứu sâu. Do đó, với đề tài này, chúng tôi hy vọng 3 sẽ góp phần bổ sung vào bức tranh phương ngữ tiếng Việt ngày càng thêm hoàn thiện. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh ở ba phần: Hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh ở một số thổ ngữ tiêu biểu trên địa bàn huyện Lộc Hà, cụ thể ở đây là các xã: An Lộc, Thịnh Lộc, Thạch Châu, Thạch Kim. Sở dĩ chúng tôi chọn các điểm điều tra nghiên cứu như vậy dựa trên cảm nhận thính giác của người dân địa phương, của người nghiên cứu cũng như dựa trên các tư liệu nghiên cứu từ trước về phương ngữ Nghệ Tĩnh. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận án hướng đến mục tiêu: - Miêu tả những đặc điểm ngữ âm – âm vị học của tiếng Lộc Hà bao gồm hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần, và hệ thống thanh điệu. - Chỉ ra những đặc điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm giữa tiếng Lộc Hà với hệ thống ngữ am của ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ Hà Tĩnh. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tiến hành điều tra điền dã thu thập tư liệu ngữ âm một số thổ ngữ tiêu biểu trên địa bàn huyện Lộc Hà. - Xây dựng cơ sở dữ liệu ngữ âm các thổ ngữ Lộc Hà. 4 - Phân tích tư liệu ngữ âm tiếng Lộc Hà: a) Phân tích bằng cảm thụ thính giác các đặc điểm ngữ âm - âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà; b) Phân tích bằng các phần mềm máy tính đặc điểm ngữ âm - âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà; - Miêu tả hệ thống ngữ âm phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu các đặc điểm ngữ âm - âm vị học của các thổ ngữ Lộc Hà. - Xác định các đặc điểm giống và khác nhau giữa hệ thống phụ âm đầu, vần các thổ ngữ Lộc Hà trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân và PNNT. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như: phương pháp điền dã, phương pháp phân tích các đơn vị âm thanh bằng các chương trình bằng máy tính, phương pháp miêu tả ngữ âm - âm vị học, phương pháp so sánh và so sánh lịch sử. 6. Đóng góp của luận án Luận án có một số đóng góp sau đây: Thứ nhất, miêu tả các đặc điểm ngữ âm - âm vị học hệ thống phụ âm đầu, vần và thanh điệu các thổ ngữ tiếng Lộc Hà dựa trên cảm thụ thính giác và kết quả phân tích bằng các chương trình máy tính. Trong luận án này, lần đầu tiên những miêu tả ngữ âm – âm vị học của tiếng Lộc Hà được miêu tả một cách chính xác nhờ được phân tích theo các thông số âm học bằng các chương trình phân tích tiếng nói. Thứ hai, luận án chỉ ra những đồng nhất và khác biệt trong hệ thống phụ âm đầu, vần, thanh điệu của các thổ ngữ Lộc Hà trong mối quan hệ với hệ thống ngữ âm – âm vị học của ngôn ngữ toàn dân và PNNT. 5 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt và cơ sở lí thuyết của luận án; Chương 2. Đặc điểm phụ âm đầu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh; Chương 3. Đặc điểm vần tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh; Chương 4. Đặc điểm thanh điệu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh Chương 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Phương ngữ và các khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm phương ngữ Phương ngữ (dialect), là một khái niệm mang tính phổ quát. Ngôn ngữ nào cũng tồn tại các phương ngữ trong cơ tầng của nó. Nói như F. de Saussure, “có bao nhiêu địa phương thì có bấy nhiêu phương ngữ”. Trong tiếng Việt, phương ngữ (dialect) còn có những tên gọi khác: phương ngôn hay tiếng địa phương. 1.1.2. Ngôn ngữ toàn dân, thổ ngữ và biến thể ngôn ngữ a. Ngôn ngữ toàn dân Ngôn ngữ toàn dân (NNTD) còn được gọi là ngôn ngữ quốc gia hay ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ toàn dân là ngôn ngữ hành chức trong phạm vi một xã hội được xác định như một dân tộc, quốc gia. b. Khái niệm thổ ngữ (idiom, patois) Thổ ngữ (TN) là khái niệm dùng để chỉ “tiếng địa phương ở một khu vực, phạm vi nhỏ hơn như huyện, xã, thôn” [16; 30]. Sự tồn tại của TN cũng là một thực tế đối với nhiều ngôn ngữ. Từ góc nhìn ngôn ngữ học địa lý, khác với PN, thổ ngữ là ngôn ngữ được sử dụng trong một vùng lãnh thổ hẹp hơn. Nói một cách khác, TN là biến thể của phương ngữ ở những vùng lãnh thổ nhỏ, hẹp. 6 c. Biến thể và biến thể ngôn ngữ Theo Từ điển Ngôn ngữ học và Ngữ âm học (A Dictionary of Languistics and Phonetics), biến thể được định nghĩa là “một thuật ngữ dùng để chỉ một hình thức ngôn ngữ được lựa chọn dung trong một bối cảnh cụ thể. Đó là loại ngôn ngữ “đặc biệt” được dùng trong phương ngữ”. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn Như Ý, giải thích rằng: “biến thể là sự thể hiện cụ thể ở các vị trí khác nhau trong chuỗi lời nói nhưng về bản chất cùng thuộc về một đơn vị ngôn ngữ”. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, định nghĩa về biến thể: “thể đã biến đổi ít nhiều so với thể gốc”. 1.2. Các hướng tiếp cận nghiên cứu phương ngữ hiện nay 1.2.1. Ở chiều thứ nhất, theo thời gian, phương ngữ học được tiếp cận với mục tiêu chủ yếu là cung cấp cứ liệu (minh chứng) về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp hiện còn được lưu giữ trong các phương ngữ, thổ ngữ cho ngôn ngữ học lịch sử. 1.2.2. Ở chiều thứ hai, còn gọi là ngôn ngữ học địa lý (hay PN học địa lý). Phương ngữ học có nhiệm vụ khảo sát cách biểu hiện của ngôn ngữ (trên các địa hạt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp toàn dân dưới hình thức các biến thể địa phương của chúng. 1.2.3. Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ ba (mặt xã hội) là đối tượng của ngôn ngữ học xã hội (hay phương ngữ học xã hội). 1.2.4. Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ tư là hướng tiếp cận phương ngữ từ khu vực học. 1.3. Cơ sở nhận diện, miêu tả phương ngữ, thổ ngữ 1.3.1. Ngữ âm học (phonetics) Ngữ âm học là khoa học nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ; cơ chế tạo ra âm thanh và bản chất (hay đặc trưng) tiếng nói của con người. 7 Miêu tả âm thanh của ngôn ngữ nói chung, các phương ngữ, thổ ngữ của một ngôn ngữ nói riêng (ở đây là trường hợp tiếng Việt), người ta miêu tả các yếu tố ngữ âm về mặt vật lý (tức âm học), mặt sinh lý (tức cấu âm) và cả mặt xã hội (bình diện chức năng). “Mặt thứ nhất nhằm giải thích những sự khác biệt của ngữ âm đối với sự cảm thụ. Mặt thứ hai nhằm thuyết minh những sự khu biệt xét về nguồn gốc cấu tạo. Với sự trợ lực của máy móc ngày nay, người ta có thể miêu tả các yếu tố ngữ âm khá chính xác về cả hai mặt” 1.3.2. Âm vị học (phonology) Âm vị học là một ngành khoa học nghiên cứu về mặt xã hội của ngữ âm; tìm hiểu vai trò của các đơn vị ngữ âm trong hoạt động của ngôn ngữ với chức năng như một công cụ giao tiếp của con người. Nói cách khác, âm vị học nghiên cứu và tìm hiểu mặt chức năng của âm thanh ngôn ngữ. Đơn vị của âm vị học là âm vị (phoneme). 1.3.3. Âm tiết và các thành tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt Tiếng Việt là ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, dĩ nhiên, âm tiết (ÂT) có tính đơn lập nhưng mức độ cao. Trong chuỗi âm thanh của tiếng Việt, ÂT là đơn vị ngữ âm có khả năng đứng riêng rẽ, độc lập. Mỗi ÂT chiếm giữ một khúc đoạn riêng biệt, tách bạch. Ranh giới giữa các ÂT luôn luôn được xác định một cách dứt khoát, rõ ràng, nghĩa là có tính cố định. Trong tiếng Việt, ÂT có ranh giới trùng với hình vị (hình tiết). Đây là một thể thống nhất có cấu trúc chặt chẽ với sự hợp thành của các yếu tố có mối quan hệ với nhau. Có nhiều quan niệm về cấu trúc âm tiết tiếng Việt nhưng trong luận án này, chúng tôi lựa chọn mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt của Đoàn Thiện Thuật và coi đó như một khung lý thuyết cho việc mô tả các đơn vị 8 ngữ âm “dưới âm tiết mà Việt ngữ học quen gọi là âm vị” của ngữ âm Lộc Hà. Theo đó, các đơn vị ngữ âm ở đây sẽ được mô tả theo cách chúng thể hiện trong âm tiết, bao gồm: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. 1.4. Vài nét về vùng đất Lộc Hà 1.4.1. Đặc điểm lịch sử - xã hội vùng đất Lộc Hà Huyện Lộc, tỉnh Hà Tĩnh được thành lập vào ngày 17/02/2007 được tách ra từ 2 huyện Can Lộc và Thạch Hà. Tên của huyện Lộc Hà, vốn được tạo thành từ việc ghép chữ “Lộc” lấy từ tên của huyện Can Lộc và chữ “Hà” lấy từ tên của huyện Thạch Hà. Lộc Hà hiện nay là một trong mười ba huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Hà Tĩnh. 1.4.2. Tiếng Lộc Hà Tiếng Lộc Hà – Hà Tĩnh thuộc phương ngữ Nghệ Tĩnh. So với tiếng của các địa phương trong vùng, với phương ngữ Nghệ Tĩnh và các phương ngữ khác của tiếng Việt, tiếng Lộc Hà được xem là có nhiều "điểm khác lạ" so với các phương ngữ khác của tiếng Việt nói chung. Những điểm khác lạ này chủ yếu được thể hiện ở bình diện ngữ âm và một phần trong hệ thống từ vựng. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM PHỤ ÂM ĐẦU TIẾNG LỘC HÀ 2.1. Dẫn nhập Âm đầu, hay phụ âm đầu (PÂĐ) là một thành phần chính của âm tiết. So với các thành phần khác trong cấu trúc ÂT tiếng Việt, âm đầu tương đối độc lập. Trong các phương ngữ, thổ ngữ (TN) của tiếng Việt hiện nay “có sự khác nhau trong hệ thống phụ âm đầu ở các phương ngữ cả về mặt số lượng âm vị lẫn về chất lượng của âm vị”. 9 2.1.1. Đặc điểm ngữ âm chung của các PÂĐ là tính phụ âm. Nói khác đi, các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng là các phụ âm. 2.1.2. Về số lượng các phụ âm đầu tiếng Việt, hiện trong giới nghiên cứu Việt ngữ học vẫn tồn tại các ý kiến chưa được thống nhất. Trong luận án này chúng tôi chấp nhận quan niệm xem /w/ là yếu tố thuộc phần vần và thừa nhận hệ thống gồm 22 phụ âm đầu tiếng Việt toàn dân như cách miêu tả của Đoàn Thiện Thuật. Bởi lẽ, đây không chỉ là hệ thống phản ánh đầy đủ các phụ âm đầu cả về số lượng lẫn đặc trưng khu biệt được chữ quốc ngữ hiện mà còn là một hệ thống đã được nhiều nhà Việt ngữ học thừa nhận. 2.2. Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Lộc Hà 2.2.1 Về số lượng, gồm 23 âm vị phụ âm, chỉ có ở nhóm thổ ngữ Thịnh Lộc, An Lộc có thêm phụ âm /dɦ/. Hiện nay, ở trên địa bàn huyện Lộc Hà, vẫn còn tồn tại một vài phụ âm đầu trong tiếng Việt cổ, tuy nhiên sự xuất hiện đó chỉ tồn tại ở một số thổ ngữ chứ không phải xuất hiện đồng loạt trên địa bàn toàn huyện. 2.2.2. Miêu tả các phụ âm đầu tiếng Lộc Hà Các phụ âm đầu trong tiếng Lộc Hà về cơ bản được thể hiện giống hệ thống phụ âm đầu trong phương ngữ Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên, có một số phụ âm đầu trong tiếng Việt cổ được xem là những nét khác biệt trong phụ âm đầu của tiếng Lộc Hà được thể hiện dưới đây: - Phụ âm /ph/ /ph/ là phụ âm [tắc; môi môi; bật hơi; vô thanh]. Khi phát âm / ph / hai môi tiếp xúc với nhau chặt tạo chướng ngại. Luồng hơi từ phổi đi lên 10 dồn lại trong khoang miệng tạo ra áp suất quá lớn thì hai môi bật mở, khiến luồng hơi bị nén bật mạnh ra ngoài tạo một tiếng nổ mạnh. - Phụ âm /ɓ/ /ɓ/ là một phụ âm [môi – môi; tắc; hữu thanh]. Khi phát âm /b/, hai môi tiếp xúc với nhau tạo chướng ngại. Khi luồng hơi dồn đầy khoang miệng, hai môi bật mở, luồng hơi thoát ra ngoài tạo nên tiếng nổ nhẹ, được kí hiệu [b] theo hệ thống phiên âm quốc tế IPA. Tuy nhiên, theo những nghiên cứu mới gần đây lại cho thấy âm [b] trong tiếng Việt hiện nay cũng như âm [b] ở Lộc Hà thực chất là một phụ âm tắc, hữu thanh, hút vào /ɓ/. /ɓ/ được cấu âm bắt đầu bằng động tác thanh môn khép chặt, luồng hơi từ phổi được giữ lại dưới thanh môn. Thanh môn dịch chuyển xuống dưới giống như động tác hút không khí từ bên ngoài vào trong khoang cộng hưởng. - Phụ âm /ɗ/ Phụ âm /ɗ/ theo cách mô tả trước đây là một phụ âm [tắc;hữu thanh, đầu lưỡi] giống như [d]. Khi phát âm phụ âm /d/, đầu lưỡi tiếp ngạc cứng tại đầu hàm ếch phía trên tạo thành chướng ngại. Luồng hơi đi ra từ phổi phá vỡ chướng ngại thoát ra ngoài. Tuy nhiên, ở Lộc Hà, dựa vào tư liệu khảo sát, sự cảm nhận bằng thính giác cũng như kết quả phân tích thực nghiệm, chúng tôi thấy [d] thực chất là một âm tắc, hữu thanh, hút vào, thuộc cơ chế luồng hơi thanh hầu; cách phát âm hút vào với động tác khép thanh môn, luồng không khí ở phổi được giữ lại dưới thanh môn còn không khí trong các khoang cộng hưởng bị chặn phía trước. Thanh môn cũng dịch chuyển xuống dưới như tạo động tác hút không khí vào trong khoang cộng hưởng. - Nhóm phụ âm thanh hầu /ʔ/ và /h/ 11 Cả 2 phụ âm này có vị trí cấu âm là yết hầu (glottal), trong đó, /ʔ/ là một phụ âm [tắc nổ, vô thanh], còn /h/ là một phụ âm [xát giữa; vô thanh]. Âm đầu /ʔ/ xuất hiện khi phát âm những từ, âm tiết như ‘ăn’, ‘yêu’, ‘ai’, ‘em’, ‘anh’, ‘ít’, …v.v. Khi phát âm /h/, theo quan sát của chúng tôi, không có một chướng ngại rõ ràng nào được hình thành trong bộ máy cấu âm như các phụ âm khác trong hệ thống mà chỉ cảm nhận được tiếng luồng hơi cọ xát vào thành vách họng. Phụ âm /h/, cơ bản được phát âm tương tự như /h/ trong TVTD. - Phụ âm /s, z/ Cả hai phụ âm /s; z/ đều là các phụ âm [xát giữa; đầu lưỡi – lợi], trong đó, /s/ là [xát giữa; vô thanh], còn phụ âm /z/ là [xát giữa; hữu thanh]. Khi phát âm /s/ và /z/, đầu lưỡi nâng lên cao tiếp giáp vị trí giữa lợi và ngạc cứng tạo thành một khe hở hẹp. Luồng hơi từ phổi thoát ra ngoài phải lách qua khe hở hẹp này tạo thành tiếng rít. Về vị trí cấu âm, /z/ sau hơn /s/ một chút do khi cấu âm cuống lưỡi hơi nhích lên khiến lưỡi rụt vào trong. Những đặc điểm của phụ âm /z/ như được mô tả trên có ở hầu hết các ĐĐT. Nhưng riêng ở 2 ĐĐT An Lộc và Thịnh Lộc, /z/ được phát âm như một phụ âm /dɦ/ với đặc trưng [răng, xát, hữu thanh]. Khi phát âm phụ âm /dɦ/, toàn bộ đầu lưỡi đặt giữa răng cửa hàm trên và hàm dưới. Luồng hơi từ phổi thoát ra ngoài lách qua kẽ hở này, và trong quá trình này có sự hoạt động của hai dây thanh. Chương 3 ĐẶC ĐIỂM VẦN TIẾNG LỘC HÀ 3.1. Dẫn nhập 12 Trong âm tiết tiếng Việt, bộ phận chiết đoạn tiếp sau phụ âm đầu (hay phần cuối âm tiết) thường được gọi bằng những tên gọi hay thuật ngữ khác nhau, như vần, phần vần, vần cái, vận mẫu…, ở đây chúng tôi gọi là vần. Trong giới nghiên cứu Việt Ngữ học hiện nay, khái niệm vần về cơ bản đã được thống nhất. Tuy nhiên, về mặt cấu tạo, vần gồm những thành tố nào, thì vẫn tồn tại một số ý kiến khác nhau. Trên đại thể, có 3 quan niệm: i) vần chỉ gồm âm chính và âm cuối; ii) vần bao gồm âm đệm, âm chính và âm cuối và iii) vần gồm cả âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu. Cả 3 quan niệm chưa thống nhất này, trên thực tế chỉ xoay quanh vị thế của: i) thành phần âm đệm và ii) thành phần thanh điệu. Trong luận án này, chúng tôi dựa vào quan điểm này và lấy đó làm cơ sở để miêu tả hệ thống vần tiếng Lộc Hà. Do đó, một khuôn vần đầy đủ sẽ gồm ba thành tố: âm đệm, âm chính và âm cuối. 3.2. Mô tả đặc điểm ngữ âm vần Lộc Hà 3.2.1. Đặc điểm các loại vần không có âm đệm 3.2.1.1. Các vần mở không âm đệm Như đã trình bày, nhìn chung các vần mở không âm đệm (cả vần đơn lẫn vần phức) của tiếng Lộc Hà, về cơ bản cũng mang những đặc điểm ngữ âm tương tự các vần mở tương ứng trong PN Nghệ Tĩnh nói chung. Về bản chất ngữ âm, cả 2 nhóm vần mở này đều mang đặc trưng “nguyên âm tính” bởi các nguyên âm này vừa đóng vai trò tạo đỉnh vừa đảm nhận chức năng kết thúc âm tiết. Trong các vần mở đơn ở Lộc Hà có hai biến thể cần lưu ý. Một là, vần mở đơn có kết vần là nguyên âm [ɛ] và nguyên âm [ɔ] được phát âm thành những vần chuyển sắc tương ứng [iɛ] và [uɔ]: 13 - Biến thể ngữ âm [iɛ]: là nguyên âm dòng trước, có đặc điểm cấu âm lướt từ vị trí cấu âm của yếu tố nguyên âm tính [i] đến vị trí cấu âm của yếu tố nguyên âm tính [ɛ]. Ở giai đoạn giữ, lưỡi hạ thấp, độ mở miệng rộng hơn và kéo dài nên âm sắc của [ɛ] được thể hiện rõ hơn [i]. Đặc biệt là trong bối cảnh những âm tiết mang thanh điệu thấp, đặc trưng này càng nổi rõ hơn. Ví dụ: [6 “mẹ”; [hiɛ6] “hẹ”; [ciɛ2] “chè”. Trường hợp [uɔ] cũng vậy, đây là nguyên âm có cấu âm lướt từ một yếu tố có độ mở hẹp đến độ mở rộng cùng dòng sau, tròn môi. Ở giai đoạn cấu âm đầu, lưỡi hạ thấp, độ mở miệng hẹp; sang giai đoạn giữa, lưỡi nâng lên về vị trí cấu âm [ɔ], miệng mở rộng hơn, có hình dáng tròn. Ví dụ: [huɔ6] “họ”; [luɔ6] “lọ nghẹ” (nhọ nồi); [kuɔ2]; [luɔ5] “ló” (lúa),… Biến thể [iɛ] xuất hiện đều đặn ở 4 ĐĐT (xã Thịnh Lộc, xã An Lộc, Xã Thạch Châu, xã Thạch Kim);. Còn biến thể [uɔ] chỉ xuất hiện ở 2 ĐĐT là xã Thịnh Lộc và xã An Lộc. 3.2.1.2. Các vần nửa mở không có âm đệm - Số lượng vần nửa mở của tiếng Lộc Hà và trong PN Nghệ Tĩnh cũng như của TVTD về cơ bản là tương đương. Đặc điểm ngữ âm nổi trội của các vần nửa mở là mang tính chuyển sắc hay “lướt”. Quá trình cấu âm lướt xảy ra từ đỉnh vần đến kết vần theo hai hướng. Một là, từ các yếu tố nguyên âm tính hàng trước [i,e,ɛ, ie], hàng giữa [ɯ, ɯə, a, ă, ] đến hàng sau [u] và hai là, từ các yếu tố nguyên âm tính hàng sau [u, uo, o, ɔ], hàng giữa [ɯ, ɯə, a, ă, ] đến hàng trước [j]. Hai bán nguyên âm [-u; -j] với chức năng kết vần, do đó đã mặc nhiên gán đặc trưng ngữ âm của mình cho cả hai nhóm. Ở Lộc Hà nói riêng và PN Nghệ Tĩnh nói chung, nếu so với hệ thống vần nửa mở trong TVTD và các PN khác, chúng tôi thấy, ở giai đoạn kết quá trình cấu 14 âm của nhóm vần nửa mở có kết âm [-j], lưỡi được hạ thấp dưới mức trung bình, khai độ của miệng ở nhóm đỉnh vần chứa các nguyên âm hàng giữa rộng hơn nhiều so với các nguyên âm hàng sau, nhất là hai vần [aj; j]; trái lại nét tròn môi của đỉnh vần là các nguyên âm hàng sau lại rõ rệt hơn. Còn với nhóm vần nửa mở với kết âm [-u], sự chuyển sắc từ nét không tròn môi đến nét tròn môi được thể hiện khá rõ, lưỡi hạ thấp tới mức tối đa, nhất là với những vần mang thanh điệu có âm vực “thấp”. Do đó, âm sắc chung của kiểu vần nửa mở ở Lộc Hà mang đặc điểm trầm và tối. 3.2.1.3. Vần nửa khép không âm đệm Ở Lộc Hà, cũng như trong PN Nghệ Tĩnh, có tất cả 33 vần có đỉnh vần thuần sắc hay đơn sắc, chỉ có 9 vần có đỉnh chuyển sắc hay “lướt”, đó là [iem], [ien], [ie], [m], [n], [], [um], [un], [u]. Có 13 vần có kết vần là phụ âm môi - môi, mũi, hữu thanh [-m]; tương tự, cũng có 13 vần có kết vần là phụ âm lợi, mũi, hữu thanh [-n]. Có 11 vần có kết vần là phụ âm mạc hay ngạc mềm, mũi, hữu thanh [-]. Hai nhóm vần còn lại, nhóm có kết vần là phụ âm ngạc cứng, mũi, hữu thanh [-ɲ] gồm 3 vần và và nhóm có kết vần là phụ âm mạc hay ngạc mềm, mũi, hữu thanh, ngậm cuối [m], 2 đơn vị. Như vậy, tổng số vần nửa khép của tiếng Lộc Hà, có tất cả 42 vần. Một đặc điểm khác của vần nửa khép ở Lộc Hà là song song tồn tại trong phát âm địa phương các vần [o]/ [om], []/ [m]. Chúng đắp đổi cho nhau tương đối đồng đều. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã có một số giải pháp cho hai trường hợp này, song cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. 15 Theo tư liệu của chúng tôi, trong cách phát âm của người Lộc Hà hiện nay có hiện tượng phát âm “chuyển sắc” với hai trường hợp [im] và [un] mặc dù hiện tượng này là rất mờ nhạt, nhất là hiện tượng [un] chỉ xuất hiện ở các xã Thịnh Lộc và An Lộc. 3.2.1.4. Các vần khép không âm đệm Một đặc điểm đáng chú ý trong hệ thống các vần khép không âm đệm của tiếng Lộc Hà đó là thức tiếp hợp giữa đỉnh vần và kết vần. Các yếu tố đỉnh vần là các nguyên âm dòng trước [i], [e], [] khi kết hợp với các kết vần là phụ âm ngạc, tắc, vô thanh [c] thì có hai khả năng xảy ra. Khả năng thứ nhất là đỉnh vần và kết vần tiếp hợp lỏng. Đây là cách phát âm bản địa, đặc sệt phương ngữ Trung. Khả năng thứ hai là tiếp hợp chặt giữa đỉnh vần và kết vần. Đây vốn là một đặc điểm ngữ âm của TVTD. Điều đặc biệt ở đây là cả hai khả năng này không loại trừ nhau mà đều cùng tồn tại trong phát âm của tiếng Lộc Hà hiện nay. Đặc điểm đáng chú ý thứ hai là những vần có yếu tố đỉnh là các nguyên âm dòng trước [i], [e], [] và các đỉnh là những nguyên âm dòng sau [u], [o], [] còn kết vần là phụ âm mạc hay ngạc cứng, tắc nổ, vô thanh [k]. Ở đây chúng tôi nói đến hai nhóm vần [ik], [ek], [k] và [uk], [ok], [k]. Theo phát âm tiếng Lộc Hà hiện nay, mỗi một nhóm trong hai nhóm vần này đều có hai biến thể. Nhóm 1 có hai biến thể lần lượt là: [ik]/ [ic], [ek]/ [ec], [k]/ [c] trong đó biến thể đầu của mỗi cặp này có đặc điểm là đỉnh vần dài và kết vần không ngậm, còn biến thể sau thì có đặc điểm đỉnh vần ngắn và kết vần ngậm. Ở đây xảy ra một quá trình đồng hóa ngược hay dị hóa, trong đó, kết vần [k] bị nhích về phía trước nhiều hơn. Đây là đặc điểm phát âm rất điển hình của TVTD. Và hiện 16 tượng này cũng đang khá phổ biến trên toàn địa bàn huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tương tự, nhóm vần [uk], [ok], [k] cũng có hai biến thể cùng tồn tại, đó là: [uk] /[ukp], [ok]/[okp], [k]/[kp]. Các biến thể [uk], [ok], [k] có đặc điểm chung là đỉnh vần dài, còn kết vần thì không ngậm. Trái lại, các biến thể [ukp], [okp], [kp] có đỉnh vần ngắn, kết vần ngậm (miệng ngậm khi kết thúc phát âm). Nhóm các vần có đỉnh vần dài, kết vần không ngậm là đặc điểm bản địa của PN Trung, còn nhóm các vần có đỉnh vần ngắn, kết vần ngậm vốn là đặc điểm của PN Bắc và cũng là của TVTD. Cả hai cách phát âm này đều không có giá trị khu biệt nghĩa của từ trong tiếng Lộc Hà. 3.2.2. Đặc điểm các loại vần có âm đệm 3.2.2.1. Các vần mở có âm đệm - Trong tiếng Lộc Hà, cũng như PN Nghệ Tĩnh và TVTD không tồn tại các vần có âm đệm mà đỉnh vần là các nguyên âm dòng sau [u, o, ]. Vì vậy, số lượng các vần mở có âm đệm ít hơn hẳn số lượng các vần mở không có âm đệm. Đặc điểm ngữ âm chung, dễ nhận diện đối với các vần mở có âm đệm ở Lộc Hà là nét “tròn môi”. Nói một cách khác, là nét ‘tròn môi” cộng với “nguyên âm tính”. Trong cấu âm, cả 6 vần mở có âm đệm đều mang đặc điểm lướt từ một yếu tố tròn môi sang một yếu tố không tròn môi khác dòng (dòng trước hoặc dòng giữa). Các yếu tố không tròn môi có khai độ của miệng từ hẹp [i] (uy); hơi hẹp [ie] (uya) đến hơi rộng [e] (ue); [ə] (uơ) và rộng [] (oe, ue); [a] (oa). Ở giai đoạn giữ, lưỡi đưa ra phía trước đối với các vần chứa [i,e, ie, ] hoặc dịch ra giữa với các vần chứa [ə, a], hai môi mất hình dáng tròn và kết thúc ở vị trí cấu âm của các đỉnh vần. 17 Đối với vần mở có âm đệm, ở Lộc Hà xuất hiện biến thể của vần [wi]. Vần [wi] (uya) được phát âm thành [wia] (ia) ở xã Thịnh Lộc, xã An Lộc. Xã Thạch Châu và Thạch Kim phát âm [wi]. Hai biến thể này khác nhau về khai độ của miệng và độ nâng của lưỡi. Biến thể [wia] có độ mở hẹp, lưỡi nâng cao, mất hoàn toàn yếu tố tròn môi ở giai đoạn đầu cấu âm; trong khi biến thể [wi], lưỡi hạ thấp, có độ mở hơi hẹp. 3.2.2.2. Các vần nửa mở có âm đệm Đối với các vần nửa mở có âm đệm, nhìn chung theo cảm thụ thính giác, chúng tôi thấy: - Âm đệm [w] và các đỉnh vần nằm trong thế phân bố bổ sung nhau. Âm đệm xuất hiện trước tất cả các nguyên âm trước [i], [e], [] làm đỉnh vần để làm thành các vần thực. Âm đệm không xuất hiện trước các đỉnh vần là nguyên âm sau [u], [o], []. Đối với các vần có đỉnh là các nguyên âm giữa [ɯ], [], [a]/ [a], [ɯ], [u] thì âm đệm [w] chỉ kết hợp với đỉnh vần là [aj]/ [aj], [aw], [aw]. Về cơ bản, tình hình phát âm các vần nửa mở có âm đệm ở 4 ĐĐT trên địa bàn huyện Lộc Hà cơ bản là thống nhất, không có gì đặc biệt. 3.2.2.3. Các vần nửa khép có âm đệm Ở tiếng Lộc Hà, có tất cả 15 vần nửa khép có âm đệm. Trong đó, vần có kết vần là phụ âm lợi, mũi, hữu thanh [n] chiếm số lượng nhiều nhất 7 đơn vị, tiếp đến là các vần có kết vần là [ɲ] và [] lần lượt mỗi nhóm là 3 đơn vị, cuối cùng là vần có kết vần là âm hai môi, mũi, hữu thanh [m] 2 đơn vị. Vần [win], theo tư liệu của chúng tôi, chỉ xuất hiện ở từ vay mượn tiếng nước ngoài, ví dụ, từ [twin1] “(màn) tuyn”. 18 Nhìn chung, đặc điểm phát âm các vần nửa khép có âm đệm trong tiếng Lộc Hà, về cơ bản là tương tự với PN Nghệ Tĩnh và TVTD. 3.2.2.4. Các vần khép có âm đệm Số lượng các vần khép có âm đệm chiếm số lượng không nhiều (12 vần). Nhìn chung, khi phát âm các kiểu vần (từ vần mở cho đến nửa mở, nửa khép và khép) có âm đệm, tiếng Lộc Hà nói riêng và PN Nghệ Tĩnh nói chung đều thể hiện nét “tròn môi” một cách rõ ràng, khai độ miệng mở rộng theo chiều ngang, nhất là trong các âm tiết mang thanh điệu thấp, như “quạc, xoạc, loạc choạc, …” Chương 4 ĐẶC ĐIỂM THANH ĐIỆU TIẾNG LỘC HÀ 4.1. Dẫn nhập Tiếng Việt hiện nay được xem là một ngôn ngữ Nam Á có thanh điệu. Thanh điệu là những đặc trưng về cao độ và chất giọng phát âm của âm tiết, có giá trị khu biệt nghĩa. Về ngữ âm học, thanh điệu là thuộc tính ngôn điệu của toàn bộ âm tiết. Về mặt âm vị học, phần mang giá trị khu biệt âm vị học của thanh điệu nằm trên phần vần, do đó, thanh điệu thường được gọi là âm vị siêu đoạn tính. Trong tiếng Việt thanh điệu là một trong ba thành tố bắt buộc cấu tạo âm tiết tiếng Việt. Theo truyền thống hệ thống thanh điệu tiếng Việt gồm 8 thanh được miêu tả theo 2 tiêu chí: âm vực và đường nét. Trong những miêu tả của ngữ âm học hiện đại, các tác giả chỉ miêu tả hệ thống thanh điệu tiếng Việt gồm 6 thanh, các thanh nhập được xem như là các biến thể của thanh sắc và thanh nặng. 4. 2. Hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà 4.2.1. Hệ thống thanh điệu tiếng Hà Tĩnh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan