Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Người kể chuyện trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp...

Tài liệu Người kể chuyện trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp

.PDF
179
265
91

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ________________ Phạm Thị Thùy Trang NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số : 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 Lôøi caûm ôn * Ñeà taøi naøy ñöôïc thöïc hieän döôùi söï höôùng daãn, giuùp ñôõ taän tình cuûa TS. Hoaøng Thò Vaên cuøng söï goùp yù cuûa caùc Giaùo sö – Tieán só phaûn bieän vaø caùc baïn ñoàng nghieäp. Chuùng toâi xin chaân thaønh caûm ôn nhöõng söï giuùp ñôõ chaân tình vaø quyù baùu ñoù. Duø ñaõ coá gaéng heát söùc nhöng do khaû naêng vaø thôøi gian haïn cheá neân luaän vaên khoâng traùnh khoûi nhöõng thieáu soùt. Kính mong nhaän ñöôïc söï goùp yù chaân thaønh cuûa caùc Giaùo sö – Tieán só vaø caùc baïn ñoàng nghieäp. Ngöôøi thöïc hieän Phaïm Thò Thuøy Trang MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1. Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng đặc sắc và nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời kỳ văn học đổi mới giai đoạn cuối thế kỷ XX. Ngay từ những sáng tác đầu tay của mình như Tướng về hưu, Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm Tiết… phong cách nghệ thuật của nhà văn đã trở thành đề tài bàn luận, tranh luận của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu. Chỉ tính riêng trong giai đoạn từ năm 1987 đến 1989 đã có khoảng 70 bài in trên các báo, tạp chí, sách nhận định về Nguyễn Huy Thiệp. Nhà sưu tầm Phạm Xuân Nguyên trong Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp đã khẳng định: “Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là người đầu tiên trong văn học Việt Nam lập kỷ lục có được nhiều bài viết nhất về sáng tác của mình, chỉ trong một thời gian ngắn, và không có độ lùi thời gian. Phê bình tức thời theo sáng tác, liên tục, lâu dài. Không chỉ trong nước, cả ngoài nước; không chỉ người Việt, cả người ngoại quốc” [64, tr.7]. Xung quanh các sáng tác của nhà văn xuất hiện nhiều ý kiến khen chê khác nhau, nhưng sức hấp dẫn của những trang văn này đối với độc giả đã được nhiều nhà phê bình thừa nhận. Bùi Việt Thắng nhận xét: “Mỗi truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đều như một “khối thuốc nổ” làm tan vỡ mọi nếp nghĩ bình thường của độc giả”[18, tr.351]. Nguyễn Đăng Mạnh thì cho rằng: “Những truyện của Nguyễn Huy Thiệp có một sức hấp dẫn khó cưỡng lại được. Anh có nhiều ngón nghề lôi cuốn người đọc cũng “bợm” lắm” [57, tr.347]. Còn các tác giả của công trình Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp - Chân dung phát biểu: “Lịch sử văn học còn ghi: Vào giữa những năm tám mươi của thế kỷ XX, khi “ hiện tượng Nguyễn Minh Châu” bùng lên và sau đó tạm lắng thì phát lộ “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp”” [19, tr.767]. Và cho đến thời điểm hiện tại, Nguyễn Huy Thiệp cùng với các tác phẩm của ông vẫn là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà phê bình nghiên cứu khi tìm hiểu về nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới từ sau năm 1975 nói chung, cũng như khi khảo sát phong cách nghệ thuật của nhà văn nói riêng. Có thể nói, khi nhắc đến những hiện tượng văn học tiêu biểu sau chiến tranh, bất cứ một tác giả nào cũng phải đề cập ít nhiều đến Nguyễn Huy Thiệp như một biểu hiện xuất sắc và độc đáo của dòng văn học đương thời. 2. Nguyễn Huy Thiệp viết cả kịch bản văn học, phê bình văn học, tiểu thuyết, nhưng mảng sáng tác nổi bật và thu được nhiều thành tựu hơn cả là truyện ngắn. Các truyện ngắn của nhà văn từ lâu đã trở thành trung tâm của những bàn thảo, tranh luận sôi nổi mỗi khi hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp được mang ra phân tích, tìm hiểu. Còn những mảng sáng tác khác thì ít thu hút được sự quan tâm của công chúng cũng như giới phê bình hơn. Đã có rất nhiều ý kiến nhận xét về nội dung cũng như nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng nhìn chung, đa số các ý kiến đều khẳng định sự sâu sắc, táo bạo và mới lạ trong nội dung của các tác phẩm này, bên cạnh nghệ thuật tự sự sắc sảo, linh hoạt với một bút pháp biến ảo, một thứ ngôn ngữ trần thuật sắc bén, hàm súc và một giọng điệu kể chuyện đa dạng. Việc khảo sát, nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không những giúp chúng ta có thể nhìn nhận được những đặc điểm tiểu biểu trong văn phong và tư tưởng nghệ thuật của tác giả, mà còn cung cấp những dữ liệu quan trọng cho việc tìm hiểu sự vận động của văn xuôi thời kỳ đổi mới sau kháng chiến chống Mỹ với những nét thay đổi tiêu biểu cho nghệ thuật tự sự trong văn học giai đoạn này. 3. Đối với tác phẩm tự sự, người kể chuyện là một nhân tố vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức cấu trúc trần thuật của tác phẩm. Cùng một câu chuyện, nếu được kể bởi những hình tượng người kể chuyện khác nhau, rất có thể hiệu quả nghệ thuật mang lại sẽ khác nhau. Cách thức trần thuật của người kể không chỉ đơn thuần là cách kể chuyện sao cho câu chuyện trở nên đậm đà, ý vị, đó còn là cách thức để nhà văn lý giải sự vật hiện tượng một cách sâu sắc, hiệu quả và thuyết phục. Diện mạo và phong cách trần thuật của người kể chuyện được tạo nên từ sự kết hợp của các yếu tố như ngôi kể, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ kể chuyện và giọng điệu trần thuật. Chính vì vậy, khi khảo sát một hình tượng người kể chuyện, chúng ta phải đi vào phân tích từng yếu tố này để rút ra một cách nhìn nhận xác đáng và trọn vẹn về hình tượng. Xét riêng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thì sự đặc sắc của mỗi loại hình tượng người kể chuyện đều gắn liền với những đặc trưng nhất định trong nghệ thuật sử dụng các phương tiện trần thuật, ngôn từ, giọng điệu kể chuyện cũng như sự luân phiên thay đổi ngôi kể và các điểm nhìn trần thuật. Cái hay của nhà văn là ở chỗ, ông đã thể hiện được tài năng biến hóa linh hoạt trong việc vận dụng và kết hợp các yếu tố tự sự để kiến tạo nên nhiều dạng người kể chuyện khác nhau, qua đó xây dựng nên những cấu tứ tự sự độc đáo, mang tính biểu hiện cao. 4. Nhận xét về phong cách truyện ngắn mới lạ và đặc sắc của Nguyễn Huy Thiệp, các nhà phê bình, nghiên cứu từ trước tới nay thường tập trung nhiều vào việc xem xét những yếu tố khác nhau của nghệ thuật tự sự như: giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ, cách kể chuyện, vị trí của người kể, bút pháp, nghệ thuật xây dựng nhân vật… cùng những đặc điểm nội dung, tư tưởng nổi bật như: sự ưu trội của “thiên tính nữ” trong nghệ thuật xây dựng các nhân vật nữ, tính triết lý và chất thơ đặc trưng trong nội dung truyện kể, … Những yếu tố trên đây đều ít nhiều liên quan đến hình tượng người kể chuyện trong các tác phẩm. Tuy nhiên hầu như chưa có công trình nào đi sâu vào khảo sát đặc điểm cũng như nghệ thuật xây dựng loại hình tượng này trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Những sự đề cập nếu có đều mang tính nhắc gợi nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu một vấn đề nghệ thuật khác trong sáng tác của nhà văn. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức về Lý luận văn học (đặc biệt là Tự sự học) và những hiểu biết về văn học thời kỳ đổi mới mà bản thân lĩnh hội được trong quá trình tìm hiểu để sắp xếp, hệ thống các vấn đề có liên quan đến người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp với mong muốn chỉ ra được một số nét tiểu biểu trong nghệ thuật xây dựng hình tượng người kể chuyện của nhà văn, cũng như ảnh hưởng của hình tượng này đối với cấu tứ tự sự của truyện kể, góp phần vào việc nghiên cứu tác phẩm của ông một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Hy vọng rằng, luận văn có thể góp một phần nhỏ trong quá trình nghiên cứu chung về Nguyễn Huy Thiệp để thấy được đóng góp của nhà văn đối với văn học dân tộc trong quá trình đổi mới truyện ngắn cũng như góp phần nhìn nhận vị trí của nhà văn trong nền văn học đương đại. 2. Giới hạn đề tài Để tiến hành khảo sát và phân tích các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi căn cứ vào các tác phẩm được in trong tổng tập Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất bản năm 2005, do tác giả Đỗ Hồng Hạnh sưu tầm và tuyển chọn [27]. Công trình này bao gồm 42 tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp từ ngày đầu sáng tác đến nay. Đây cũng là tổng tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mới nhất được xuất bản trong thời gian gần đây và đã được sự đồng ý, chỉnh duyệt của chính nhà văn. Trong luận văn này, chúng tôi chọn đi sâu vào khảo sát những hình thức thể hiện tiêu biểu của hình tượng người kể chuyện được khắc họa trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. 3. Lịch sử vấn đề Cách đây hơn hai mươi năm, sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp đã gây một chấn động lớn trong giới văn chương và người đọc, và càng ngày nhà văn càng chinh phục trái tim mọi người. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khuấy động trái tim độc giả về nhiều phương diện, đời sống, suy tư, văn học nghệ thuật, triết lý, thân phận con người. Từ một thế giới văn chương ổn định, mang nhiều tính chất hồn nhiên, lạc quan, chúng ta bước vào một thế giới bất ổn của đời sống thật, hằng ngày, đau khổ và của những day dứt bất tận. Nguyễn Huy Thiệp cũng đã có lần trần tình về quan niệm lựa chọn đề tài của mình: “Không khí dung tục suy đồi “đương thời” cũng chính là không khí sống, không khí sáng tác – mặc nhiên là thế - bởi vậy nếu từ chối đối thoại nghĩa là anh tự làm cho mình khó thở, tự giam cầm mình” [75, tr.246] và “Thực tế ngày càng trở nên khắc nghiệt. Đừng tưởng rằng ở đấy không có trả giá, không có đau đớn, không có gì để viết. Nó là cả một bi hài kịch cuộc đời, có khi là cả một bi hài kịch một thời” [75, tr.247]. Tuy viết nhiều về những sự thật trái ngang, tàn khốc của hiện thực, nhưng những trang viết của nhà văn vẫn thấm đẫm chất nhân văn và lòng yêu thương con người. “Nhịp mạnh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là tình yêu. Tình yêu con người, tình yêu loài người là tinh thần bao trùm các tác phẩm của anh” (Đỗ Đức Hiểu) [64, tr.479]. Cho đến nay, “gia tài” truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp chỉ khoảng hơn 40 truyện, nhưng chỉ cần đọc bấy nhiêu truyện ngắn của ông, người đọc cũng đã rất ngạc nhiên trước sự phong phú của vốn sống, sự lịch lãm của bản lĩnh, sự sắc sảo của óc quan sát, sự sâu sắc của trí tuệ, sự đằm thắm của tình người, sự đa dạng trong bút pháp của nhà văn. Chỉ bấy nhiêu truyện ngắn, anh đã mang đến cho văn học đương thời một diện mạo mới: từ cách chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện, lối hành văn… đều mới, để cuối cùng diễn đạt được những chủ đề mới của cuộc sống hôm nay. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gắn liền với quá trình đổi mới truyện ngắn của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, nó đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẻ về một phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tùy vào cảm hứng tiếp cận, mục đích và phạm vi khai thác vấn đề, các nhà nghiên cứu đã đề cập tới một số khía cạnh nổi bật về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của ông với mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau. Một trong những nét nổi trội trong lối tự sự của Nguyễn Huy Thiệp được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập tới là lối hành văn mới lạ, sắc sảo, hàm súc của ông và sự cách tân, tìm tòi cái mới trong cách thức trần thuật. Trong từng tác phẩm khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau rằng Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn luôn có sự đổi mới trong nghệ thuật tự sự, luôn biết cách làm mới tác phẩm của mình. Nhà văn không bao giờ bằng lòng đi vào những khuôn khổ sói mòn của văn chương, như chính ông đã khẳng định: “Yếu tố mới lạ của ngôn ngữ được đưa vào tác phẩm hiện đại theo tôi phải là số một cho việc định giá một tác phẩm văn học giá trị” [75, tr.252]. Ở mỗi truyện ngắn của nhà văn, người đọc đều nhận ra những phương diện mới lạ, đặc sắc trong văn phong và cách nhìn nhận hiện thực, nhân sinh của ông. Đánh giá về những nét mới lạ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, các nhà nghiên cứu đã chú ý đến nhiều phương diện khác nhau của nghệ thuật tự sự, từ phương diện đề tài đến cách tổ chức tác phẩm, sử dụng ngôn ngữ, khai thác giọng điệu…, trong đó, họ đã ít nhiều đề cập đến những đặc điểm tiêu biểu về người kể chuyện trong các tác phẩm này. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào khi nhận xét về người kể chuyện trong truyện ngắn Tướng về hưu đã viết: “Cái nhìn dân chủ hóa của người kể chuyện, ở đây chính là chỗ: tin rằng mình không phải mách nước cho ai, lên lớp cho ai, thậm chí, ở nhiều chỗ, đứng thấp hơn nhân vật và bạn đọc” [14, tr.87]. Như vậy, có thể thấy, ngay từ tác phẩm đầu tay của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã có ý thức xây dựng một hình tượng người kể chuyện bình đẳng với các nhân vật khác trong tác phẩm và cả với người đọc. Còn tác giả Đào Duy Hiệp khi đọc tác phẩm Một thoáng Xuân Hương đã rút ra một số đặc điểm về điểm nhìn trần thuật của người kể chuyện trong chùm truyện ngắn này. Ở truyện thứ nhất, “người kể chuyện tuy ở ngôi thứ ba, nhưng do từ vựng của nhân vật nên tuy xưng “tôi” mà người đọc như lại thấy chính Tổng Cóc đang kể ra những suy nghĩ, những độc thoại, cách ứng xử… của ông ta. Người kể chuyện do đó mất đi vai trò của “ông biết tuốt”. Lời người kể chuyện đã ít (chủ yếu là tả các hành động của Tổng Cóc đứng lên, ngồi xuống, quát hỏi Lý Cờ…), lại rất khó tách bạch cho ra giọng riêng” [64, tr.77]. Ở truyện thứ hai, “điểm nhìn chủ yếu trong truyện này là từ Ấm Huy. Vẫn là người thuật truyện ở ngôi thứ ba, nhưng thường xuyên di chuyển sang Ấm Huy” [64, tr.81]. Còn ở truyện thứ ba, người kể chuyện ngôi thứ ba thường xuyên dựa vào điểm nhìn của nhân vật thi sĩ đóng vai Chiêu Hổ để trần thuật. Theo Đào Duy Hiệp, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng các cách thức kể chuyện như trên để lột tả chân dung của Hồ Xuân Hương một cách đặc sắc: “Xuyên suốt cả ba truyện là những hình tượng phụ nữ - những Hồ Xuân Hương cứ bước dần ra với cuộc đời, rõ nét thêm theo hướng vị tha, bao dung cũng tượng trưng cho người Phụ nữ muôn đời, cái mà Hoàng Ngọc Hiến gọi là “tính nữ” trong văn chương của Thiệp. Ngược lại vị trí, tính cách của những người đàn ông trong truyện lại bị đảo ngược theo chiều hướng yếu dần đi” [64, tr.84]. Trong khi khảo sát bộ ba truyện ngắn lịch sử giả Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Vương Anh Tuấn cho rằng một trong những phương diện làm nên cái hay, cái độc đáo cho những thiên truyện này là cách xây dựng hình tượng người kể chuyện của nhà văn. Theo tác giả, người kể chuyện trong các tác phẩm này “là một chủ thể khách quan, trung tính, quan sát, kể chuyện với con mắt lạnh lùng, thiếu những đoạn trữ tình ngoại đề, lời bàn luận, đánh giá xen giữa các sự kiện. Nội dung anh ta kể là những điều phi chính sử, với những mặt khác biệt hoặc có khi trái ngược. Đây là cách cấu tạo tác phẩm mang tính chất mâu thuẫn nhằm tạo nên hiệu quả thẩm mỹ ở người đọc (…) Chủ thể ở các truyện không xuất hiện rõ ràng nhưng đọc truyện, người đọc lại hướng chú ý về phía anh ta” [64, tr.335336]. Tìm hiểu về chùm truyện giả cổ tích Con gái thủy thần, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã chỉ ra điểm khác biệt của kiểu người kể chuyện ở đây so với người kể chuyện trong các truyện cổ tích chính thống. “Nhân vật chính còn khác với truyện cổ tích ở một điểm nữa là anh ta xưng “tôi”. Nhân vật cổ tích được nhìn từ ngoài vào, ta chỉ thấy hành động của anh ta, và đó là điểm gần gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian (như tiểu thuyết kiểu Tam quốc chí chẳng hạn). Song ở Chương có một nghịch lý phản cổ tích. Anh đầy ắp những huyền thoại mê tín và định kiến, anh sống theo nhịp của mùa màng hội hè lễ tiết và nghi thức cổ xưa, bên những con người cổ sơ với bàn chân giao chỉ, với thế đứng “né chân chèo”, với bao dáng vẻ và lối nói đã tồn tại ngàn đời; song ở Chương quả đã xuất hiện một cái “tôi” không đơn giản do lối xưng hô của câu chuyện, nó chính là một loại “khe hở” khác, tràn ra từ những giấc mơ của anh” [14, tr.91]. Nhưng nhận xét vừa nêu của các nhà nghiên cứu xuất hiện trong giai đoạn đầu, khi Nguyễn Huy Thiệp vừa cho “trình làng” những truyện ngắn đầu tiên của mình trên văn đàn. Những ý kiến trên tuy xuất hiện rời rạc và chỉ nhằm phân tích những hình tượng người kể chuyện nhất định trong một số truyện tiêu biểu của nhà văn, song chúng cũng đã bước đầu cung cấp cho chúng ta một cách nhìn khái quát về một số đặc điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Càng về sau, các nhà nghiên cứu lại càng cố gắng đi vào những nét khái quát của loại hình tượng này theo cách nhìn hệ thống thông qua việc khảo sát hàng loạt các truyện ngắn của nhà văn. Tác giả Châu Minh Hùng trong bài viết Cuộc tìm kiếm hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại qua cấu trúc truyện của Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn nhận: “Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, người đọc phải lao vào một cuộc chơi mà ở đó tất cả đều ở trong quan hệ bình đẳng, dân chủ”, trong đó, “Nguyễn Huy Thiệp với tư cách là một nhà văn đã hoàn toàn mất thực quyền trong tác phẩm. Ông ta chỉ có quyền tổ chức tác phẩm mà không có quyền lấy phát ngôn của mình định giá cho các phát ngôn khác. Thiệp không trân trọng, cũng không nhại, không mỉa mai ai. Lời kể bao giờ cũng nghiêm túc, nghiêm túc đến dửng dưng. Lời kể trong văn ông lược bỏ mọi thứ trang hoàng của giọng điệu, giảm thiểu đến mức tối đa các trạng từ, tính từ tô điểm cho đối tượng. Câu văn dồn nén sự kiện để phơi bày sự thật” [50, tr.278]. Bên cạnh đó, “lối kể chuyện của của Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn biến hình, ông không trú ở một góc khuất nào đó như Nam Cao, cầm đèn soi rọi vào trái tìm người như Đốt, con người của ông ẩn trốn từ người này đột nhiên chạy sang người khác, xóa hẳn tiếng nói của riêng mình” [50, tr.280]. Chính sự bình đẳng của nhà văn đối với thế giới hình tượng trong tác phẩm là cơ sở cho việc xây dựng người kể chuyện, quy định diện mạo cũng như cách thức xây dựng loại hình tượng này trong từng truyện. Nhà nghiên cứu La Khắc Hòa đưa ra một cách nhìn nhận khác về đặc điểm người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, trong khi tìm hiểu những dấu hiệu của chủ nghĩa Hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Ông phát biểu: “Khó tìm thấy nhân vật chính diện trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đọc truyện ngắn, truyện dài của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp ta thường nghe thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm chí tàn nhẫn. Trong sáng tác của họ, nhân vật người kể chuyện nhiều khi xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít, tự xưng “tôi”, và có vẻ như không tiếc lời tự xỉ vả bản thân. Cấu trúc ấy, giọng điệu ấy xem ra rất phù hợp với câu chuyện mà họ mang đến cho người đọc. Nói đến sáng tác của Phạm Thị Hoài hoặc Nguyễn Huy Thiệp, bao giờ tôi cũng nghĩ tới câu chuyện về một thế giới vô nghĩa, vô hồn. “Thế giới vô hồn” là câu chuyện xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Phạm Thị Hoài. “Cuộc đời vô nghĩa” là tứ truyện chi phối mạch vận động của câu chữ, hình ảnh trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp” [36]. Còn Cao Kim Lan, tác giả của bài viết Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp Hậu hiện đại, thì nhận xét: “Có một thao tác dễ nhận diện trong truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp là các biến cố trong cuộc đời của nhân vật thường được tác giả kể bằng một giả thuyết thiếu chắc chắn nhất (…) Như vậy, tác giả đã không cho người đọc có cơ hội chìm đắm vào những diễn biến xảy ra trong truyện. Cảm giác bất khả tín buộc độc giả phải tiếp cận với văn bản một cách tỉnh táo bằng tri thức tích cực thay vì cảm xúc thụ động” [45]. Thực chất, ở đây, Cao Kim Lan đã ít nhiều đề cập tới kiểu người kể chuyện không đáng tin cậy trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, một kiểu hình tượng được xem là sáng tạo đặc sắc của nhà văn trong thời kì đổi mới văn học. Với cố gắng đúc rút những đặc điểm cơ bản nhất của nghệ thuật kể chuyện ở Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã cho rằng: “Thật ra nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp gần với lối viết sử (ngắn gọn, chính xác, nhiều thông tin có tính liệt kê) và đặc biệt sử dụng sáng tạo lối văn truyền kỳ (phối hợp cà văn xuôi - biền văn – thơ tỉ lệ thơ trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là rất đậm đặc) (…) Nguyễn Huy Thiệp thích kể từ ngôi thứ nhất và đa số truyện hay đều được kể từ ngôi này” [19, tr.777]. Và “nhân vật Tôi – người kể chuyện khá đa dạng: là một công chức có cuộc sống trưởng giả no đủ (Chảy đi sông ơi), một kĩ sư an phận, có phần nhu nhược (Tướng về hưu), hoặc là người tự do, không nghề nghiệp (Con gái thủy thần), là nhà văn (Tội ác và trừng phạt), một học sinh tốt nghiệp phổ thông (Những người thợ xẻ)… Do người kể chuyện ở ngôi thứ nhất khác nhau về nghề nghiệp, lứa tuổi, địa vị xã hội và văn hóa nên “điểm nhìn” rất rộng, bao quát được các phạm vi của đời sống từ đỉnh cho đến đáy”[19, tr.778-779]. Có thể nhận thấy, các ý kiến về hình tượng người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên đây đã đi vào khảo sát hình tượng người kể chuyện có phần sâu sắc, khái quát, hệ thống và dựa trên nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên chúng chỉ đóng vai trò là một phần nhỏ trong mỗi bài viết của các tác giả và khá ngắn gọn, khái lược. Nhìn chung, những nhận xét này cũng chỉ phần nào bổ sung thêm những cho những quan điểm trước đó về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chứ chưa thực sự mang lại một cách nhìn toàn vẹn, đầy đủ. Từ những ý kiến nghiên cứu về người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã gợi ý cho chúng tôi tìm hiểu về vấn đề này. Trên cơ sở tiếp thu những bài viết có liên quan đến sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và phát triển ý tưởng đó thành một luận văn nghiên cứu khoa học. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp hệ thống Đây là một trong những phương pháp cơ bản của thi pháp học. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi áp dụng phương pháp này vào việc tìm hiểu những yếu tố nghệ thuật làm nên diện mạo chung của người kể chuyện trong truyện kể và phân tích mối liên hệ giữa chúng với nhau. Bên cạnh đó, chúng tôi áp dụng phương pháp này trong việc nhìn nhận cách thức xây dựng người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong tương quan với nghệ thuật xây dựng hình tượng này của thời kì văn học đổi mới sau kháng chiến chống Mỹ nói chung và trên tiến trình phát triển của thể loại văn xuôi tự sự trong nền văn học dân tộc. 4.2 Phương pháp phân tích Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng một số dẫn chứng trích ra từ các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp để minh họa cho những nhận xét, lập luận của mình. Do đó, trong suốt quá trình thực hiện, chúng tôi luôn vận dụng phương pháp phân tích để làm rõ các vấn đề được nêu ra ở các chương. 4.3 Phương pháp thống kê Khi khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi áp dụng phương pháp thống kê để phân loại các hình thức ngôi kể và điểm nhìn làm cơ sở cho việc phân tích các đặc điểm của người kể chuyện ở các tác phẩm. 5. Đóng góp của luận văn Người kể chuyện là một phương diện nghệ thuật quan trọng, không thể bỏ qua khi tìm hiểu tác phẩm văn xuôi. Hơn nữa, việc khám phá những đặc điểm của người kể chuyện sẽ giúp chúng ta nhận diện được nhiều phương diện liên quan khác trong nghệ thuật tự sự của truyện kể. Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra được tất cả những đặc điểm của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, mà chỉ hy vọng mang đến một cái nhìn toàn vẹn, chi tiết hơn về loại hình tượng này trong các truyện kể của nhà văn. Qua đó, thấy được vai trò quan trọng của nhân tố này trong việc định hướng cách thức tổ chức trần thuật trong tác phẩm cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu ở từng loại hình người kể chuyện. Bên cạnh đó có thể góp phần khẳng định sự thành công nhất định của nhà văn trong quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật miệt mài, nhìn nhận được diện mạo riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong tiến trình sáng tác nói chung và trong quá trình đổi mới nói riêng của văn học Việt Nam. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn gồm ba chương: - Chương 1: Những vấn đề chung về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. - Chương 2: Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Huy Thiệp. - Chương 3: Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Huy Thiệp. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ 1.1 Người kể chuyện trong tác phẩm tự sự 1.1.1 Vai trò của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự Suốt một thời gian dài, khi nghiên cứu tác phẩm tự sự, các lý thuyết văn học chỉ chú trọng đến việc khảo sát thế giới nghệ thuật được nhà văn xây dựng bên trong đó. Các phương diện khác có liên quan đến “cuộc sống” của tác phẩm văn học như tác giả, người đọc thì ít được chú ý và xem trọng. Đến khoảng thế kỷ thứ XIX – đầu thế kỷ XX, các nhà lý luận phương Tây đã chú ý nhiều hơn đến việc khảo sát hai nhân tố người đọc và tác giả trong đời sống văn học. Điều này đã làm thay đổi nhận thức trong việc cảm thụ văn học. Từ đây, tiếp nhận văn học là một quá trình tương tác giữa ba thành tố cơ bản là tác giả - tác phẩm – người đọc. Song đến lúc đó, vai trò của người kể chuyện vẫn chưa được nhìn nhận một cách thỏa đáng trong quá trình vận động của đời sống tác phẩm văn học. Dù nhân tố này có mối liên hệ mật thiết đối với tác giả thực tế, tức là nhà văn, người trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm văn học. Phải đến khi ngành nghiên cứ tự sự học ra đời, phương diện người kể chuyện mới được chú ý đến một cách hệ thống và toàn diện. Tự sự học là một nhánh phát triển từ thi pháp học hiện đại, đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của nghệ thuật tự sự để tìm ra một cách đọc. Trong số các yếu tố trong cấu trúc văn bản tự sự, người kể chuyện là yếu tố giữ vai trò trung tâm. Mọi nghiên cứu về nghệ thuật tự sự đều ít nhiều phải động chạm đến phương diện này. Thêm vào đó, các khái niệm cơ bản nhất của tự sự học như: điểm nhìn, tiêu điểm, người tiêu điểm hóa, lời văn nghệ thuật, tình tiết tự sự….đều được phản ánh thông qua người kể chuyện trong tác phẩm. Tương đương với thuật ngữ người kể chuyện, người đứng ra kể trong tác phẩm tự sự còn được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác như: người trần thuật, người thuật chuyện, kẻ mang thông điệp, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện…Trong luận văn, chúng tôi thống nhất chọn dùng tên gọi người kể chuyện. Theo các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, thì “người trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…) nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [25, tr.211-212]. Như vậy, người kể chuyện là một hình tượng do nhà văn sáng tạo ra trong tác phẩm của mình và văn bản tự sự chính là sản phẩm ngôn từ do hoạt động ngôn ngữ nhân vật này xây dựng nên. Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Tự Lập thì người kể chuyện có vai trò như một “kẻ mang thông điệp” chuyển tải những thông điệp từ người phát ngôn đến người nhận: “Các thông điệp của một văn bản bao giờ cũng được chuyển đi, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ một hay một vài phát ngôn viên (speaker, hoặc narrator), mà tôi gọi là kẻ mang thông điệp: một người sĩ quan ra mệnh lệnh, người kể chuyện trong tiểu thuyết, hay các đối tác ký vào hợp đồng hợp tác kinh doanh…Những kẻ mang thông điệp có thể có thật hoặc hư cấu” [48, tr.178]. Với một quan điểm rộng dựa trên nền của lý thuyết hội thoại, tác giả của Văn chương như là quá trình dụng điển đã xác định được vai trò quan trọng của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: cầu nối trung gian giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. Thêm vào đó ông còn nhấn mạnh “chính đặc điểm và mối quan hệ giữa thông điệp và kẻ mang thông điệp là cái quyết định tính chất của văn bản”[48, tr.178] và “trong truyện, thông điệp mang tính chất khái quát, và kẻ mang thông điệp là những nhân vật hư cấu” [48, tr.180]. Quan điểm này thống nhất với các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học ở trên. Tác giả Lại Nguyên Ân lại đưa ra một định nghĩa khá sâu sắc về người kể chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra” [3, tr.360].Trong định nghĩa này, nhà lý luận một lần nữa khẳng định vai trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự, đồng thời nhấn mạnh vai trò chứng kiến và giải thích của hình tượng này. Đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện người kể chuyện trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay. Tác giả Lê Ngọc Trà đưa ra một quan niệm ngắn gọn hơn về người kể chuyện, dựa trên mối quan hệ giữa chủ thể kể chuyện và lời kể trong tác phẩm tự sự: “Người kể chuyện là chủ thể của lời kể chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [86,tr.89]. Ở đây, định nghĩa đã nêu bật được vai trò đặc trưng mang tính chức năng của người kể chuyện. Với cách nhìn nhận đặt trong tương quan giữa người kể chuyện và kết cấu tác phẩm, nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương khẳng định: “Khái niệm hình tượng tác giả (người kể chuyện – NV) nói lên bản chất của tác phẩm nghệ thuật và là nơi tập trung sự thống nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Đó là phạm trù thi pháp cao nhất quyết định đặc điểm và nội dung của cấu trúc tác phẩm, quyết định cả tính khuynh hướng và sự triển khai tác phẩm đó” [26, tr.215]. Có nghĩa là, người kể chuyện giữ vai trò định hướng và quyết định đối với việc tổ chức các yếu tố trong cấu trúc của một văn bản tự sự. Mỗi định nghĩa khai thác khái niệm người kể chuyện ở một phương diện khác nhau, nhưng tựu trung lại, chúng ta có thể khái quát được những đặc điểm cơ bản sau về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự: + Người kể chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo nên, là người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự. + Trong phạm vi tác phẩm, người kể chuyện là chủ thể của lời kể, là người đứng ra kể chuyện và là nhân tố trung tâm chi phối việc tổ chức, kết cấu cấu trúc của văn bản tự sự. + Người kể chuyện giữ vai trò trung giới giữa tác giả, tác phẩm và người đọc. Tác phẩm tự sự nào cũng có hình tượng người kể chuyện của nó. Không phải lúc nào người đọc cũng được thông báo về số phận riêng tư, diện mạo hoặc mối quan hệ qua lại của người kể chuyện với các nhân vật, hoặc vì đâu, trong tình huống nào mà tiến hành kể chuyện. Nhiều khi người kể chuyện tỏ ra khách quan không để lộ mối thiện cảm, ác cảm hay thái độ suy nghĩ của mình. Nhưng bao giờ người đọc cũng cảm thấy được linh hồn của người kể chuyện một cách rõ rệt, gần gũi. Người đọc nhận ra hình tượng người kể chuyện qua cái nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí tuệ và chất tình cảm của anh ta. Người kể chuyện không phải là một phương diện thuần túy thuộc về hình thức văn học mà là hiện thân của một hình tượng đặc biệt, gắn liền với tư tưởng, thái độ của tác giả về hiện thực, về thế giới và con người.Tuy nhiên, tác giả và hình tượng người kể chuyện là hai thực thể độc lập. Một bên là chủ thể sáng tạo, một bên là hình tượng nghệ thuật. Người kể chuyện mang trong mình nó cả nhân vật và người kể. Người kể chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả trong tác phẩm. Song quan điểm tác giả chỉ có thể được thể hiện qua điểm nhìn, tầm nhận thức của người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều tồn tại độc lập. Người kể chuyện cũng có thể có tính cách như nội dung của hình tượng. Khác với hình tượng nhân vật khác, tính cách của người kể chuyện bộc lộ không chỉ qua việc trực tiếp tham gia vào hành động trong tác phẩm, hay qua những lời giãi bày tâm sự của chính mình, mà chủ yếu qua thái độ đối với thế giới câu chuyện được kể lại thông qua một điểm nhìn được xác định. Phần nào có thể nói đây là một loại “hình tượng thái độ”. Tuy nhiên, không nên đồng nhất tác giả với người kể chuyện. Tác giả không bao giờ hiện diện trong truyện kể như một người kể, người phát ngôn mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả xuất hiện chỉ như người ghi chép hay nghe trộm người kể. Người kể chuyện là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và sản phẩm của hành vi trần thuật đó là văn bản tự sự. Thêm vào đó, thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện được kể lại có thể phần nào trùng với quan điểm của tác giả, nhưng không bao giờ trùng khít hoàn toàn. Thứ nhất, bởi vì quan điểm tác giả bao giờ cũng rộng hơn, nó không thể được thể hiện một cách toàn diện qua bất kỳ một chủ thể lời nói riêng biệt nào trong tác phẩm. Dù chủ thể lời nói đó có thể gần gũi với tác giả đến đâu, mà chỉ có thể được thể hiện qua toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể nghệ thuật. Thứ hai, bởi vì ngoài phần thái độ chủ quan được thừa hưởng của tác giả, người kể chuyện mang trong mình cả một phần nội dung khách quan của thế giới được phản ánh vào tác phẩm; phần nội dung khách quan đó thường thể hiện một loại hình thái độ phản ứng với thực tại điển hình cho thời đại của nhà văn được nhà văn tái hiện và miêu tả lại trong tác phẩm của mình. Bất kỳ người kể chuyện nào về nguyên tắc là một “cái tôi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan