Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn the...

Tài liệu Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật hôn nhân gia đình việt nam năm 2000

.PDF
119
865
72

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CÁC CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU TRANG NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CÁC CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chương 1: 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN 8 LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 1.1. Khái quát chung về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật 8 1.1.1. Khái niệm về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật 8 1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hôn 11 1.1.3. Ý nghĩa của việc ghi nhận vấn đề bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật 15 1.1.4. Pháp luật quốc tế với vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em 17 1.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con khi vợ chồng ly hôn dưới góc độ xã hội và góc độ pháp lý 22 1.2.1. Về góc độ xã hội 22 1.2.2. Về góc độ pháp lý 26 Chương 2: 30 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CÁC CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 2.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về quyền nhân thân của vợ và 4 32 các con khi vợ chồng ly hôn 2.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ theo nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn 35 2.2.1. Đối với tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng 35 2.2.1.1. Nguyên tắc xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 35 2.2.1.2. Giải quyết tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn 38 2.2.2. Đối với tài sản chung của vợ chồng 42 2.2.2.1. Nguyên tắc xác định tài sản chung của vợ chồng 42 2.2.2.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 46 2.2.3. Đối với vấn đề cấp dưỡng của một bên khi vợ, chồng ly hôn 50 2.2.4. Đối với quyền thừa kế của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn 53 2.3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của con khi cha mẹ ly hôn 54 2.3.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con chưa thành niên khi cha mẹ ly hôn 54 2.3.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình khi cha mẹ ly hôn 58 2.3.3. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các con khi cha mẹ ly hôn thông qua quyết định về cấp dưỡng 61 2.4. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em khi nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà ly hôn 69 2.4.1. Quy định của pháp luật về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn 69 2.4.2. Bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của phụ nữ và trẻ em trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn mà yêu cầu giải quyết về tài sản và con 74 2.4.2.1. Đối với phụ nữ 74 5 2.4.2.2. Đối với trẻ em Chương 3: 79 THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA 81 ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CÁC CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 3.1. Bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn trong thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 81 3.1.1. Những thành tựu trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn 81 3.1.2. Một số hạn chế trong việc áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn 88 3.1.2.1. Hạn chế trong việc giải quyết về tài sản của vợ chồng 88 3.1.2.2. Hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của con khi vợ chồng ly hôn 90 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 về việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn 95 3.2.1. Về vấn đề hoàn thiện pháp luật 95 3.2.2. Về công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật 104 KẾT LUẬN 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLHS : Bộ luật Hình sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Đặc điểm của vợ, chồng, con trong vụ ỏn ly hụn 55 2.2 Tổng số ỏn xin "ly hụn" mà Tũa ỏn khụng cụng nhận là vợ chồng 75 3.1 Tổng số ỏn ly hụn được giải quyết qua cỏc năm từ năm 2006 đến năm 2010 83 3.2 Tổng số án ly hôn có tranh chấp về tài sản 83 3.3 Tổng số ỏn ly hụn cú tranh chấp về cấp dưỡng 84 3.4 Tổng số ỏn ly hụn cú tranh chấp về quyền nuụi con 84 3.5 Tổng số trường hợp kết hôn trong nước và có yếu tố nước ngoài qua các năm từ năm 2006 đến năm 2010 96 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình còn là nơi những thành viên cùng chia sẻ tình thương, kinh nghiệm, những giá trị truyền thống đạo đức, trách nhiệm, sự gắn bó và niềm tự hào về gia đình. Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tổ ấm mang lại giá trị hạnh phúc, sự bình yên trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên trong xã hội. Sự an bình của mỗi gia đình là tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn tới hoàn thiện, góp sức mình vào việc xây dựng xã hội phồn vinh, tiến bộ. Quan hệ gia đình là tổng hòa các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản, các quan hệ này có sự ràng buộc lệ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại một cách hài hòa. Trong một gia đình thực sự bền vững và hạnh phúc thì mỗi thành viên trong gia đình đều tìm thấy sự thỏa mãn nhu cầu về vật chất, tình cảm của mình. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng lại bắt nguồn từ quan hệ nhân thân giữa hai con người với đặc trưng là sự phát sinh quyền, nghĩa vụ khi họ kết hôn. Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) cũng bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước hàng năm số lượng các vụ án về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và tranh chấp tài sản. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước" (1884) Ph.Ănghen đã chỉ ra rằng: Trong ba hình thức bất bình 9 đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại (bất bình đẳng chủng tộc, giai cấp, giới), thì quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ là nguồn gốc đích thực về mặt lịch sử, xã hội của những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong quan hệ vợ chồng. Từ đó, Ông đã xây dựng lên quan điểm về giải phóng phụ nữ. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng phụ nữ, Đảng và Nhà nước ta luôn dành cho phụ nữ một sự quan tâm đặc biệt. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946), Nhà nước đã ghi nhận quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới. Quyền bình đẳng đó còn được thể hiện và được bảo vệ cả trong trường hợp đặc biệt đó là khi vợ chồng ly hôn. Bên cạnh đó không chỉ có phụ nữ mà cả trẻ em trong trường hợp đặc biệt trên cũng được bảo vệ, trở thành một vấn đề đáng lưu ý và được quan tâm. Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã khẳng định: "Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Cũng như cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng" [18]. Khi cha, mẹ ly hôn, trẻ em khó có thể được chăm sóc, bảo vệ quyền lợi một cách tốt nhất. Tới nay Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ án ly hôn. Điều này được thể hiện ở các quy định pháp luật HN&GĐ, các công ước quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền lợi của người vợ và con trong các vụ án ly hôn liên quan đến vấn đề tài sản còn nhiều vướng mắc và bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em, trong đó bao gồm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em về tài sản là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 10 Nhận thức được điều đó và mong muốn đưa ra những giải pháp, đề xuất thực tế nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000" làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ phụ nữ và trẻ em là một mảng đề tài lớn được khá nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm. Trong khoa học luật nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em được nghiên cứu như một cơ sở pháp lý quan trọng tạo khung sườn cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt mọi chính sách về phụ nữ và trẻ em. Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan tới vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, con như sau: Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như: "Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004; "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học Luật Hà Nội; "Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Luận văn Thạc sĩ luật học, của Phạm Thị Ngọc Lan, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2008... Những luận án, luận văn trên các tác giả đã đi vào nghiên cứu về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và ly hôn, đề cập tới vấn đề bảo vệ quyền lợi phụ nữ song chưa đề cập tới bảo vệ quyền lợi tài sản của con. 11 "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Lê Thu Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008; "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; "Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn", Khóa luận tốt nghiệp, của Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007… Các tác giả đã đi vào nghiên cứu những quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em nói chung hoặc quyền lợi của trẻ em khi vợ chồng ly hôn mà chưa đề cập tới quyền lợi chính đáng về tài sản của cả phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hôn. Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luật khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số án dân sự và Hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. Ngoài ra còn một số giáo trình và bình luận khoa học Luật HN&GĐ. Hầu hết các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về quan hệ tài sản nói chung giữa vợ, chồng, chưa đề cập hoặc ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên. Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật: Các bài nghiên cứu thuộc nhóm này chủ yếu được đề cập trên các tạp chí như Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Luật học... Trong đó phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Văn Cừ đăng trên tạp chí Luật học (6) năm 2002 với nhan đề "Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000"; "Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài 12 sản thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5; "Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ", bài viết của TS. Trần Thị Huệ, Đặc san Luật học, số 03/2004… Phần lớn các bài viết này chỉ đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan hệ tài sản vợ chồng mà chưa đề cập được sâu sắc vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, con khi vợ chồng ly hôn. Tóm lại, cho đến nay dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ HN&GĐ nhưng các công trình đó hoặc chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của quan hệ này hoặc nghiên cứu dưới góc độ tranh chấp về tài sản vợ chồng với ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Chưa có một công trình nào đề cập tới vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 một cách đầy đủ và toàn diện. Chính vì những lý do đã nêu, tôi đã chọn đề tài trên để làm công trình nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài Mục đích: - Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn là một vấn đề rất cần thiết đặc biệt là về tài sản. Đây không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp các quy định của pháp luật về quyền phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm để xem xét diễn biến của quá trình giải phóng phụ nữ và chăm sóc, bảo vệ trẻ em qua từng giai đoạn lịch sử nước ta, qua đó cũng thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề này. - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000. - Chỉ ra được vai trò của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 đối với việc bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, con khi vợ chồng ly hôn, qua đó tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000. 13 - Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trên thực tiễn áp dụng các quy phạm Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 vào việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, con khi vợ chồng ly hôn. Phạm vi: - Đề tài tương đối phức tạp, nội dung phong phú và có liên quan đến nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta nhưng trong phạm vi luận văn tôi xin đề cập tới những vấn đề sau: Những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 đặc biệt là vấn đề bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, con về tài sản khi vợ chồng ly hôn. - Thực tiễn áp dụng các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 về bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn. - Kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 về bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ và con, nâng cao hiệu quả áp dụng của Luật HN&GĐ vào việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. 4. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài. Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và con khi vợ chồng ly hôn đặc biệt là vấn đề tài sản trong các vụ án ly hôn với thực tiễn đời sống xã hội. 14 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn. Chương 2: Những nội dung cơ bản về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Chương 3: Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 về bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn. 15 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA VỢ VÀ CON KHI VỢ CHỒNG LY HÔN 1.1. Khái quát chung về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật 1.1.1. Khái niệm về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật Quyền con người là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia, chưa có một định nghĩa chính thức về quyền con người mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các quyền con người. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu luật học khi xem xét vấn đề này có nhiều cách tiếp cận khác nhau để đưa ra định nghĩa về quyền con người. Trên cơ sở tìm hiểu những ý kiến của các nhà khoa học. "Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với Nhà nước và với những cá nhân con người khác" [52, tr. 16]. Nội dung quyền con người: Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung quyền con người. Do vậy, việc phân loại nội dung quyền con người cũng khác nhau. Theo phương pháp tiếp cận của khoa học pháp lý, quyền con người được chia thành những nhóm chính: + Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử và ứng cử; quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do tín ngưỡng; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền tự do thông tin; quyền được hội họp…. 16 + Các quyền dân sự (quyền tự do con người) bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được an toàn; bí mật về thư tín; điện thoại; quyền khiếu nại; tố cáo… + Các quyền kinh tế - xã hội bao gồm: Quyền lao động; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế; quyền học tập; quyền nghiên cứu; phát minh; sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được bảo hộ hôn nhân và gia đình… Trên cơ sở khái niệm quyền con người, khái niệm quyền phụ nữ cần phải được nghiên cứu trong mối liên hệ khăng khít với quyền con người. Bởi vì, phụ nữ cũng như nam giới họ phải được hưởng tất cả những quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền phụ nữ và trẻ em là một khái niệm dùng để chỉ các quyền con người của phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em bằng pháp luật là việc Nhà nước ghi nhận quyền phụ nữ và trẻ em đồng thời ban hành những quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện các quyền phụ nữ và trẻ em trên thực tế. Phụ nữ là một nhóm xã hội đặc biệt, dễ bị tổn thương. Do đó, việc xác định và ghi nhận các quyền con người cho họ, đặc biệt bảo đảm trên cơ sở của tiêu chí bình đẳng là cần thiết. Đây cũng chính là cơ sở để tiến hành bảo vệ quyền con người của phụ nữ. Khi tiếp cận khái niệm quyền phụ nữ, quyền con người được hiểu theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những quyền bức xúc nhất của con người được đặt ra trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, đòi hỏi sự phối hợp trách nhiệm của cả cộng đồng quốc tế trong việc phấn đấu vì quyền bình đẳng nam nữ trên khắp thế giới. Chính vì vậy, mặc dù đã có rất nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người nhưng chúng ta vẫn xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ quyền phụ nữ trong các văn bản pháp luật riêng. Có như vậy, người phụ nữ mới thực sự được bảo đảm khỏi sự phân biệt đối 17 xử. Nói một cách khác, sự phân biệt đối xử chính là nguyên nhân làm cho người phụ nữ không được hưởng những quyền con người giống như nam giới. Cùng với việc bảo vệ quyền của người phụ nữ thì bảo vệ quyền lợi trẻ em là điều rất cần thiết xuất phát từ tinh thần trách nhiệm, từ tình thương yêu các em, nhằm xây dựng cho các em những cơ sở ban đầu vững chắc để trở thành người công dân tốt, Nhà nước ta luôn đặt vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em lên hàng đầu. Dưới góc độ pháp luật bảo vệ quyền lợi của trẻ em là việc Nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi của trẻ em và chống lại mọi sự xâm phạm đến quyền lợi của trẻ em. Khi hôn nhân của cha mẹ tan vỡ, trẻ em không còn được sống trong một môi trường tốt nhất để hoàn thiện nhân cách, không còn được chăm sóc, bao bọc của cả cha lẫn mẹ, thậm chí sẽ không được đáp ứng đầy đủ về cả mặt vật chất khi thiếu cha hoặc mẹ. Cuộc sống của những đứa trẻ này sẽ gặp nhiều khó khăn và bất hạnh hơn những đứa trẻ được sống trong môi trường hạnh phúc, đầm ấm. Chúng sẽ ra sao nếu thiếu sự quan tâm chăm sóc của những người thương yêu. Dựa trên tinh thần Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam và nước Cộng hòa Pháp khẳng định: "Để phát triển đầy đủ và hài hòa về nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Cũng như cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần thiết để đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của cộng đồng" [3]. Một số văn bản đã quy định vấn đề bảo vệ quyền lợi của trẻ em là Công ước quốc tế về quyền trẻ em; Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 và một số văn bản pháp luật khác như Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009… Điều 1 và Điều 2 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: "Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, 18 không phân biệt nam nữ; con trong giá thú; con ngoài giá thú; con đẻ; con nuôi; con riêng; con chung; không phân biệt dân tộc; tôn giáo; thành phần địa vị xã hội; tàn tật hay khỏe mạnh" [30]. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em khẳng định: "Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn" [18]. Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 chưa đề cập đến khái niệm trẻ em nhưng từ các quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 ta có thể hiểu rằng: Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia đình, với xã hội, với quốc gia và thế giới. Vì vậy, việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em khi cha mẹ ly hôn phải được đặc biệt quan tâm. 1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em khi vợ chồng ly hôn Trong xã hội xưa và nay, người phụ nữ góp một vai trò vô cùng quan trọng, vai trò đó thể hiện ngay trong gia đình, họ vừa là người vợ, người mẹ, người con dâu trong gia đình. Hơn thế người phụ nữ còn là người của xã hội, họ còn có vai trò to lớn với xã hội đó là người lao động trong một xã hội. Chính vì vậy người phụ nữ không chỉ có vai trò rất quan trọng trong gia đình mà còn đối với cả xã hội. Nền kinh tế ra đời tạo điều kiện cho người phụ nữ khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế gia đình cũng như nền kinh tế xã hội. Phụ nữ trở thành lực lượng sản xuất hùng hậu của xã hội và sự lệ thuộc của họ vào người chồng về mặt kinh tế cũng mất dần đi. Họ có thể tự nuôi bản thân, thậm chí có khả năng để trở thành người lao động chính trong gia đình, không thua kém gì người chồng. Hơn thế, nhìn nhận người phụ nữ dưới cuộc sống hiện đại ngày nay thì phụ nữ là người sắp xếp, tổ chức cuộc sống gia đình theo suy nghĩ, nhận thức và tính năng động của mình. 19 Người phụ nữ giữ vai trò trọng yếu trong việc điều hòa các mối quan hệ gia đình. Nam giới sau một ngày công tác bận rộn, mệt nhọc có lúc vui nhưng cũng có những lúc thật sự căng thẳng. Khi về nhà, họ cần được nghỉ ngơi, cần được hưởng không khí ấm cúng của gia đình, cần nhìn thấy những đứa con sạch sẽ, ngoan ngoãn, họ cũng cần có những bữa cơm ngon, cần thấy nhà cửa ngăn nắp, gọn sạch và nhất là người vợ dịu dàng, ân cần chăm sóc cho cha mẹ chồng cũng như xử sự tế nhị với gia đình bên chồng sẽ làm cho tan biến đi những lo toan, vất vả. Rõ ràng, tất cả những công việc trên phụ thuộc vào tính cách của người phụ nữ. Để điều hòa được các mối quan hệ gia đình, nó đòi hỏi những đức tính đảm đang, dịu dàng, biết thông cảm, chịu khó và sự tinh tế ở người phụ nữ. Người phụ nữ góp phần hỗ trợ chồng thành đạt trong cuộc sống. Trong công việc, có những lúc người chồng thất bại, giảm sút ý chí và tinh thần, thì người vợ ngoài việc chu tất công việc gia đình, phải thật sự thông cảm, khéo léo động viên chồng và tạo mọi điều kiện để người chồng lấy lại niềm tin, thêm nghị lực mà vượt qua sóng gió không lúc nào không tồn tại trong cuộc sống. Đó là những biểu hiện của sự khôn ngoan, chín chắn, có bản lĩnh và có văn hóa ở người phụ nữ. Người phụ nữ có vai trò trong các hoạt động xã hội. Các mối quan hệ xã hội tốt đẹp (xóm giềng, thân tộc, bạn bè, cơ quan, đoàn thể...) sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ gia đình thêm gắn bó, chan hòa vì có sự mến mộ của những người khác dành cho gia đình. Bên cạnh đó, khi tạo dựng nên con người, tạo hóa ban cho người nam và người nữ những đặc điểm, những cá tính, những khả năng khác nhau để giao cho họ những trọng trách khác nhau. Tạo hóa đã ban cho phụ nữ một cơ thể đặc biệt để mang thai và sinh con. Điều đó đồng nghĩa với việc ban cho họ một thiên chức vô cùng quan trọng và cao quý ấy là làm mẹ, làm vợ. Thiên chức làm mẹ là thiên chức chỉ dành riêng cho người phụ nữ, dù ở bất kỳ chế độ xã hộ nào cũng không thể thay đổi vì đây là quy luật tự nhiên 20 mà tạo hóa ban tặng cho người phụ nữ, C.Mác đã nói rằng: "Sự khác biệt đầu tiên giữa người đàn ông và người đàn bà là việc sinh đẻ con cái" [19]. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau. Những đứa trẻ có cha mẹ ly hôn phải chịu thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa chúng còn chưa thể tự lo cho mình được, vì vậy cần có sự quan tâm đặc biệt tới đối tượng này. Mặt khác, chúng đang trong quá trình phát triển về nhân cách và nhận thức, rất cần được dạy dỗ, chỉ bảo, định hướng của những người đi trước. Thế nhưng trong khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI thì khắp mọi nơi trên trái đất phụ nữ vẫn phải chịu những bất công, bị ngược đãi, bị đánh đập vẫn tồn tại và phổ biến. Sự thiên lệch về giới tính không còn đơn thuần là vấn đề thái độ, nó được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi vợ chồng ly hôn, ngoài việc tình nghĩa mặn nồng vợ chồng bao năm vun đắp không còn thì ngay cả vấn đề tài sản, sự thiệt thòi vẫn nghiêng về người phụ nữ. Có rất nhiều lý do dẫn đến sự thiệt thòi đó như quá tin tưởng chồng, hạn chế về hiểu biết pháp luật, trình độ văn hóa thấp…. Bên cạnh đó, theo các báo cáo hàng năm "Tình trạng trẻ em trên thế giới", trẻ em thường phải mang những gánh nặng và chịu sự đối xử không bình đẳng. Hầu hết ở các quốc gia trên thế giới đều đã có những văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền trẻ em thì hàng ngày hàng giờ những quyền ấy vẫn tiếp tục bị xâm phạm. Đơn cử như trong công nghiệp chế tạo vòng trang sức bằng thủy tinh ở Fiorazabad- Ấn Độ có ¼ nhân công (khoảng 50.000) là trẻ em dưới 14 tuổi. Trong ngành sản xuất gạch ở Côlômbia và Pê ru người ta có thể sử dụng cả trẻ em mới có 8 tuổi. Ở Braxin, trong các đồn điển trồng mía, trẻ em chặt mía bằng dao rựa, thường xuyên có nguy cơ bị thương tổn. Tiền công của các em thấp hơn nhiều so với tiền công lao động tối thiểu hợp pháp, chỉ 0,06 USD/ngày. Trong các đồn điền trồng thuốc lá thời gian làm của các 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan