Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh bình...

Tài liệu Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh bình dương

.PDF
72
308
117

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH HÒA NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH HÒA NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Hòa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI .........................................7 1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm ..................................................................7 1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người ...........................................................................................................................8 1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người11 1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người .........................................................................................16 Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2014 - 2018........................................................................................21 2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...21 2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo các đặc điểm nhân thân .............................................................................................23 2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...............................................26 Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI ...........................................................................................................40 3.1. Quan điểm phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bản tỉnh Bình Dương ...........................................................................................41 3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ góc độ nhân thân người phạm tội ....................................................43 KẾT LUẬN ..............................................................................................................50 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng TAND : Tòa án nhân dân TTATXH : Trật tự an toàn xã hội UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XPNP : Xâm phạm nhân phẩm DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.3. Tỷ trọng giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.4. Cơ cấu của tinh hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 xét theo đơn vị hành chính Cấp huyện xác định trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích Hình 2.5. Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.6. Tỷ trọng của diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo tội danh Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo độ tuổi, giới tính Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo trình độ học vấn Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo nghề nghiệp Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo hoàn cảnh gia đình Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo nơi cư trú, hộ thường trú Phiếu 2.13. : Phiếu điều tra xã hội học “Đánh giá vai trò của giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè trong việc giáo dục người chưa thành niên” Bảng 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (300 phiếu điều tra) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tỉnh Bình Dương thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ. Bình Dương được tái lập từ ngày 01/01/1997 từ việc tách tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước Từ giữa những năm 90, với chính sách “Trải chiếu mời gọi đầu tư, trải thảm đỏ thu hút nhân tài”, Bình Dương đã trỗi dậy với chủ trương đổi mới, được cụ thể hóa bằng những chính sách thông thoáng, mở đường cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương. Kinh tế - xã hội của Bình Dương bước đầu đạt những thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ nông nghiệp, bộ mặt đô thị hóa đã được hình thành rõ nét, đã biến vùng đất thuần nông, khô cằn, kém hiệu quả trở thành những khu, cụm công nghiệp trọng điểm của cả nước. Đến nay, toàn tỉnh có 32 khu công nghiệp và 14 cụm công nghiệp, với tổng diện tích hơn 14.800 ha. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng hàng loạt các vấn đề phát sinh như: Tình trạng nhập cư, cư trú trái phép gia tăng, diễn biến phức tạp; một bộ phận nhân dân có đời sống kinh tế còn khó khăn, không việc làm hay việc làm không ổn định; sự phân hóa giàu nghèo, sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng,… đang làm cho tình hình TTATXH hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói riêng. Thực tế cho thấy, trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tình hình tội XPNP như hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội dâm ô với người dưới 16 tuổi, tội làm nhục người khác... đang có diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội lẫn tính chất nguy hiểm. Theo báo cáo kết quả giải quyết án của TAND tỉnh Bình Dương, trong 05 năm từ 2014 – 2018 đã xét xử 9.602 vụ án với 18.813 bị cáo; trong đó đã xét xử các tội XPNP là 157 vụ với 168 bị cáo. Cụ thể, năm 2014 giải quyết 1906 vụ với 3473 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 25 vụ với 29 bị cáo; năm 2015 giải quyết 1918 vụ với 3608 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 31 vụ với 37 bị cáo; năm 2016 giải quyết 1945 vụ với 3920 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 33 vụ với 38 bị cáo; năm 2017 giải quyết 1933 vụ với 3810 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 32 vụ với 36 bị cáo; năm 2018 giải quyết 1947 vụ với 4007 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 36 vụ với 42 bị cáo. 1 Mặc dù nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta cùng với các cấp, các ngành đã có nhiều chủ trương, biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói riêng nhưng tội phạm XPNP vẫn không ngừng gia tăng và có diễn biến phức tạp thể hiện sự suy đồi về lối sống, sự xuống cấp về các giá trị đạo đức. Một hậu quả cũng phải kể đến đó là chi phí của Nhà nước cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, là những thiệt hại không thể đo đếm hết được. Do đó, đấu tranh phòng và chống loại tội phạm XPNP luôn là nhiệm vụ quan trọng, vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài, là vấn đề mang tính xã hội cao, là sự nghiệp của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do đó, để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPNP cần nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPNP nói riêng và tình hình tội phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội. Trên phương diện thực tiễn, các CQTHTT tại tỉnh Bình Dương từ lâu đã chú trọng sử dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong quá trình giải quyết các vụ án XPNP, định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, cũng như đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội XPNP. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội XPNP đòi hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP ở mức độ khái quát hơn là mức độ nhóm và mức độ tình hình tội phạm. Nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP, cũng như phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài * Về lý luận nhân thân người phạm tội có những công trình nghiên cứu sau: - Tội phạm học Việt Nam một sô vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009; 2 - Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005; - Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53; * Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những công trình tác giả nghiên cứu, phân tích có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như: - Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công (2013), Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội; * Về kinh nghiệm và giải pháp có các công trình nghiên cứu trong việc định tội và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như: - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23; - Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2005, tr. 34-36; * Đánh giá tình hình nghiên cứu: Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được các kết quả chính sau đây: - Các công trình ở những mức độ khác nhau đã làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội… - Các công trình cũng đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội, thực trạng các yếu tố tác động đến nhân thân người phạm tội nói chung hoặc phạm một tội, một nhóm tội trên một địa bàn nhất định, như cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước, tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương ... 3 - Các công trình cũng đã nêu được các biện pháp phòng ngừa gắn với một số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý, tội hiếp dâm...và trên những địa bàn cụ thể như Vĩnh Long, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, luận văn hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ để tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong giai đoạn hiện nay từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP; Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018; Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP từ góc độ nhân thân người phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả dựa trên các số liệu thống kê và kết quả nghiên cứu 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND các cấp tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 được thu thập một cách ngẫu nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học nhằm đánh giá vai trò của giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè đối với người chưa thành niên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 - Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Dương. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018. - Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPNP quy định tại chương XIVcủa BLHS, gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH; các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự; thực tiễn phòng chống các tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể: Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tình hiểu quan điểm nhận thức của người chưa thành niên đối với phương pháp, nội dung giáo dục giới tính trong gia đình và nhà trường. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, làm giàu thêm hệ thống lý luận tội phạm học nói chung và lý luận phòng, chống tội XPNP nói riêng, đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật. 5 - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội XPNP nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 -2018 Chương 3: Nhân thân người phạm tội và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI 1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm Để xây dựng định nghĩa về tội xâm phạm nhân phẩm, trước kết cần làm rõ khái niệm nhân phẩm. Khái niệm “nhân phẩm” trong các tội xâm phạm nhân phẩm chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Song qua nghiên cứu một số tài liệu về mặt ngôn ngữ thì có một số định nghĩa nhân phẩm, cụ thể như sau: Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê, nhân phẩm được định nghĩa như sau: “Nhân phẩm là phẩm chất và giá trị của con người” [9, tr.487]. Theo định nghĩa này thì nhân phẩm chính là các phẩm chất, giá trị của một con người tạo nên giá trị của con người đó. Giá trị đó được cộng đồng xã hội công nhận và tôn kính. Còn trong sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 10 của Bộ giáo dục và đào tạo có đưa ra định nghĩa nhân phẩm như sau: “Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất mà mỗi con người có được, nói cách khác nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi người” [2, tr.18]. Như vậy, định nghĩa này về cơ bản cũng tương đồng với định nghĩa nêu trên khi xác định nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất làm nên giá trị của con người. Hay trong bài giảng Môn Đạo đức người lái xe thì nhân phẩm là giá trị đạo đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên nỗ lực, cố gắng rèn luyện bản thân. Nhân phẩm (còn gọi là phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt được, là giá trị làm người của mỗi con người [16, tr.4]. Định nghĩa này cũng đề cao phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con người. Giá trị này chắc chắn phải được xã hội thừa nhận. Qua các định nghĩa về nhân phẩm nêu trên, có thể rút ra được định nghĩa nhân phẩm: Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của mỗi người làm nên giá trị của con người đó. Những phẩm chất này phù hợp với những giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận. Tội phạm theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có 7 năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Từ định nghĩa về nhân phẩm và định nghĩa về tội phạm nêu trên, có thể định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm của con người như sau: Tội xâm phạm nhân phẩm của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong chương XIV của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng các giá trị đạo đức của con người. Trong chương XIV của BLHS, nhà làm luật không liệt kê riêng các tội xâm phạm nhân phẩm mà có sự gộp chung 14 tội danh (từ Điều 141 đến Điều 156) thành nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Trong nhóm tội này, phần lớn các tội phạm đều xâm hại đồng thời nhân phẩm, danh dự của con người. Căn cứ vào quy định trong chương XIV, có thể xác định được các tội XPNP trong BLHS bao gồm các tội danh sau: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156). 1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người 1.2.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Mác viết: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu đang chảy, một người lính mà họ cần phải trở thành chiến sĩ bảo vệ đất nước…một thành viên của tập thể thực hiện các chức năng xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn tại 8 của họ là thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là công dân của nhà nước đó” [24, tr.49]. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên cứu nhân thân con người đang sống trong xã hội: Nhân thân của những người đã thực hiện hành vi phạm tội, là chủ thể của tội phạm. Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người phạm tội cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm đối với những người có phẩm chất tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo đức, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Nhân thân của những người phạm các tội hoặc các nhóm tội khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau. Ví dụ nhân thân của những người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thường có đặc điểm nhân thân nổi trội là động cơ vụ lợi, mong muốn có tiền bất chính; nhân thân của những người xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người có đặc điểm nhân thân nổi trội là sự coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, coi thường giá trị đạo đức, pháp luật; đối với những người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm của con người, đặc điểm nhân thân nổi trội nhất của những người này là sự coi thường nhân phẩm của người khác, coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều đặc điểm nhân thân khác mà luận văn sẽ làm sáng tỏ trong các nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội và các khái niệm có liên quan đã phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm như sau: Nhân thân người phạm tội XPNP là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện hành. 1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau nên góc độ tiếp cận với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân, điều kiện của nó 9 để đề ra các biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nhân thân người phạm tội được nghiên cứu một cách khá sâu sắc, toàn diện và mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Như vậy, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa như sau: Thứ nhất, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận của chính ngành Tội phạm học. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội XPNP nói riêng cùng những số liệu về người phạm tội XPNP cụ thể góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm, giải thích được những thay đổi trong thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm [39, tr.127] và dự đoán xu hướng của nó trong tương lai. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trước hết cần làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP, như khái niệm, ý nghĩa, phân loại nhân thân người phạm tội XPNP. Những lý luận này sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận của Tội phạm học về nhân thân người phạm tội. Thứ hai, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP, cụ thể đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018 sẽ cung cấp những thông tin quan trọng về các đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những thông tin, như đặc điểm trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, thói quen, sở thích … của người phạm tội sẽ là những thông tin hữu ích cho các ngành khác, như giáo dục học, đạo đức học, kinh tế học … tham khảo trong phát triển các nội dung khoa học phục vụ các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, phát triển con người … Thứ ba, Do đó, các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa trong việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPNP chẳng hạn như các tội về XPNP của con người đều được nhà làm luật xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức nên dấu hiệu định tội của nhóm tội này trong BLHS đều liên quan đến dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm hay đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy định là yếu tố định khung một số tội XPNP (điểm i khoản 2 Điều 141, điểm g khoản 2 Điều 142, điểm g khoản 2 Điều 143, điểm e khoản 2 Điều 144, điểm e khoản 2 Điều 146, điểm g khoản 2 Điều 147, điểm e khoản 3 Điều 150, điểm g khoản 3 Điều 151). 10 Thứ tư, dấu hiệu pháp lý về tội phạm và chủ thể của tội phạm XPNP được quy định thống nhất, song mỗi một vụ phạm tội luôn luôn mang tính cá biệt của hoàn cảnh và đối tượng thực hiện tội phạm. XPNP giúp cho việc sàng lọc đối tượng, phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết cũng như những biện pháp tác động tâm lý, cảm hóa đối tượng trong hỏi cung, đối chất, khám xét thu giữ vật chứng,… Thứ năm, khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người phạm tội XPNP và những phương pháp phân loại người để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển hệ thống trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại các trại giam, cơ sở giáo dục đó…Việc thi hành hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với từng loại người phạm tội sẽ không đạt hiệu quả nếu không có sự phân loại hợp lý dựa vào đặc điểm nhân thân của họ. Chẳng hạn như: Xếp phạm nhân vào trại nào, buồng nào, họ phải làm những công việc gì trong quá trình cải tạo, chế độ học tập, sinh hoạt áp dụng với từng loại người, hoặc những trường hợp cải tạo không giam giữ, quản chế, bắt buộc chữa bệnh…cần phải có cơ chế quản lý giám sát, kết hợp sự giáo dục như thế nào… 1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Các tội XPNP được chia ra làm 2 nhóm: Nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục (từ Điều 141 đến Điều 147) và nhóm người XPNP thực hiện thông qua hành vi khác (Điều 150, Điều 151, Điều 155, Điều 156). Trong đó, nhân thân người phạm tội XPNP theo từng nhóm trên thì đều có những đặc điểm, dấu hiệu chung với nhân thân người phạm tội . Ngoài ra, nó cũng còn có những đặc điểm, dấu hiệu riêng đặc thù. Từ những đặc điểm chung và riêng trên, tác giả chia làm ba nhóm phân tích như sau: - Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu học; - Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý; - Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự. 1.3.1. Nhóm dấu hiệu xã hội – nhân khẩu 11 Những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung, bao gồm: Giới tính, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã hội…Những dấu hiệu này tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội – nhân khẩu thu được qua thống kê hình sự sẽ cho chúng ta cơ sở để rút ra những kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Mặt khác, nếu kết hợp những dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội thì những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu sẽ giúp cho chúng ta hiểu trọn vẹn về nhân thân người phạm tội và có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện pháp giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm.[39, tr.144] 1.3.1.1 Giới tính Trong thực tế của cuộc đấu tranh chống tội phạm XPNP ở nước ta, đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục, thì tỷ lệ nam giới phạm tội chiếm tỷ lệ cao vì nam giới có khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi thấp hơn nữ giới nên khả năng phạm tội cao hơn. Và ngược lại đối với nhóm người XPNP thực hiện thông qua hành vi khác thì tỷ lệ nữ giới phạm tội lại chiếm tỷ lệ cao hơn và có xu hướng tăng lên, chủ yếu là trong các vụ án về tội làm nhục người khác bởi vì nữ giới có tính hay ghen tuông do đó khi xảy ra mâu thuẫn trong tình cảm thường sử dụng bạo lực để “dằn mặt” nạn nhân làm cho tình hình ANTT thêm phức tạp. 1.3.1.2. Lứa tuổi Ở mỗi độ tuổi khác nhau, con người có những suy nghĩ, nhận thức, cách hành xử các mối quan hệ khác nhau…Và ở người phạm tội XPNP cũng vậy, họ cũng có những khác biệt nhất định về nhận thức hành vi phạm tội, cách tiếp cận nạn nhân, cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách dụ dỗ nạn nhân sau khi việc phạm tội đã hoàn thành hay cách làm nhục nạn nhân, vu khống nạn nhân… Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP từ khía cạnh về độ tuổi có thể giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về tính chất, mức độ, đặc điểm của từng tội phạm. Ở đặc điểm này, có thể chia độ tuổi của những người phạm tội XPNP theo 03 nhóm với những đặc điểm khác nhau như: 12 - Nhóm dưới 18 tuổi: Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng thì sẽ không kiềm chế được cảm xúc của bản thân là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn đạo đức, hành vi phạm tội. Đặc biệt ở nhóm tuổi này có sự phát triển như “vũ bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội. - Nhóm từ 18 đến 30 tuổi: Đây là nhóm tuổi có sự ổn định hơn về mặt tâm, sinh lí so với nhóm dưới 18 tuổi. Ở nhóm tuổi này, con người có khao khát về tình yêu, nhu cầu sinh lí cũng phát triển nên thường dẫn đến những ham muốn tình dục. Vì vậy nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục đa phần nằm trong nhóm từ 18 đến 30 tuổi. Ngoài ra, những người từ 18 đến 30 tuổi đang thuộc nhóm tuổi lao động trẻ của xã hội. Tuy nhiên, nếu một người trong nhóm tuổi này mà không học tập hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định thì sẽ cảm thấy bất an, hụt hẫng, bi quan tự ti hay bất mãn. Trạng thái tâm lí này có thể dẫn người ta đến trầm uất, nghiện ngập, rơi vào các tệ nạn xã hội và nhanh chóng dẫn đến con đường phạm tội. - Nhóm từ trên 30 tuổi trở lên: Ở độ tuổi này, con người có sự chín chắn trong tư duy nhận thức của mình. Thêm vào đó, nhóm người từ 30 tuổi trở lên đa phần họ đều đã kết hôn và có công việc cho nên họ có sự ổn định cao về tâm lý, về nhận thức đời sống hay pháp luật. Do đó, nhóm tuổi từ 30 trở lên phạm vào các tội XPNP chiếm tỉ lệ thấp so với hai nhóm tuổi trên. 1.3.1.3. Trình độ học vấn Đặc điểm về trình độ học vấn có thể chia thành 04 nhóm như sau: nhóm không biết chữ; nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở; nhóm có trình độ học vấn ở mức trung học phổ thông; nhóm có trình độ học vấn trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. 1.3.1.4. Nghề nghiệp, địa vị xã hội Đối với người phạm tội XPNP cũng vậy, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau thì khả năng “nhiễm tội” cũng khác nhau. Đặc điểm nhân thân người phạm tội từ khía cạnh nghề nghiệp, có thể chia thành 03 nhóm là: người không có nghề nghiệp, người có nghề nghiệp không ổn định và người có nghề nghiệp ổn định. 13 1.3.1.5. Hoàn cảnh gia đình Gia đình là tế bào của xã hội. Hoàn cảnh gia đình có thể xét đến như: điều kiện sống về mặt tinh thần, tình trạng hôn nhân, gia đình không hoàn thiện, gia đình khuyết thiếu,… hoặc vẫn đang độc thân. Các hoàn cảnh gia đình nêu trên sẽ được nghiên cứu với mục đích đánh giá sự tác động của môi trường gia đình đến quá trình hình thành nhân cách lệch chuẩn của người phạm tội XPNP. Trong phần hoàn cảnh gia đình, có thể nghiên cứu theo 2 phương diện: một là bản thân người phạm tội (có vợ và không có vợ), hai là cha mẹ, người nuôi dưỡng (thuận lợi và không thuận lợi). 1.3.1.6. Nơi cư trú Nơi cư trú, nơi sinh sống (làng, xã, khu phố,…) được xem là một xã hội thu nhỏ, có tác động khá trực tiếp đến lối sống của công dân. Hoàn cảnh kinh tế cũng như điều kiện phát triển chung của nơi cư trú có những tác động mạnh mẽ đến ý thức và nhân cách của con người nơi đây. Có nghĩa, tại nơi cư trú, điều kiện sống (về kinh tế và tinh thần) tốt sẽ tác động tích cực đến quá trình hình thành nhân cách đúng đắn của mọi người nơi đây; ngược lại, nếu điều kiện sống không tốt, có nhiều tệ nạn xã hội, thường xuyên xảy ra bạo lực, đánh nhau hay… sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành nhân cách của con người. Với đặc điểm về nơi cư trú, người phạm tội XPNP được chi thành 2 căn cứ: Thứ nhất là có nơi cư trú ổn định và có nơi cư trú không ổn định và thứ hai là hộ khẩu trong tỉnh và ngoại tỉnh. Tổng hợp nhiều dấu hiệu xã hội - nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc về người phạm tội, từ đó có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. 1.3.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức, tâm lý Tổng hợp những thông tin về các đặc điểm xã hội – nhân khẩu đã cho chúng ta một cái nhìn khá bao quát về nhân thân người phạm tội XPNP. Tuy nhiên đó chỉ là những dấu hiệu bên ngoài, nó chưa cắt nghĩa được lý do tại sao người đó lại phạm tội XPNP. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta còn phải đi sâu nghiên cứu mặt bên trong của nhân thân người phạm tội được thể hiện ở các dấu hiệu đạo đức tâm lý. Nhóm đặc điểm này bao gồm: các dấu hiệu thuộc về tinh thần, về ý thức, quan điểm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan