ĐỀ TÀI
NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VIỆT NAM KÝ KẾT VÀ THAM GIA PHỤC
VỤ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
A. THÔNG TIN ĐỀ TÀI
Cấp đề tài:
Đề tài cấp Bộ
Chủ nhiệm đề tài: TS. Hoàng Phước Hiệp, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp
Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp
Cơ quan chủ trì:
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý
Năm bảo vệ:
2007
B. NỘI DUNG TÓM TẮT
Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại đã trở thành nhu cầu bức xúc của các nước nói chung và
của Việt Nam nói riêng. Các hiệp định thương mại tự do, liên minh, liên kết kinh tế khu
vực và song phương đã và đang thu hút sự quan tâm rất lớn của các quốc gia.
Để thúc đẩy quá trình phát triển này, các nước đã xây dựng một hệ thống những văn bản
pháp lý quan trọng làm cơ sở cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế. Công
ước Viên về luật điều ước quốc tế, thực tiễn giải thích và áp dụng các điều ước quốc tế
tại các cơ chế giải quyết tranh chấp như Tòa án quốc tế, Liên Hợp quốc, WTO ngày càng
có vai trò quan trọng trong quá trình đó. Tuy nhiên, do pháp luật của các quốc gia đa
dạng nên thực tiễn thi hành các điều ước quốc tế tại các quốc gia có khác nhau.
Đối với Việt Nam, công tác ký kết và thực hiện các đi ều ước quốc tế có một vai trò rất
quan trọng, là cơ sở pháp lý trong việc tăng cường và mở rộng các quan hệ hữu nghị và
hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó, công tác ký kết và thực hiện điều ước quốc tế cũng có
những đóng góp tích cực đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà
nước ta. Làm tốt công tác này sẽ góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển toàn diện
của đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong bối cảnh khu vực
và thế giới hiện nay.
Để phục vụ tốt hơn công tác hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc nghiên cứu pháp luật và
thực tiễn của Việt nam và các nước trong lĩnh vực điều ước quốc tế có ý nghĩa quan
trọng. Một trong những vấn đề phức tạp ở đây cần nghiên cứu là vấn đề nội luật hoá các
điều ước quốc tế trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Chính vì vậy việc chọn đề tài về nội luật hoá các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập là cần thiết, góp phần xây dựng cơ chế thực hiện có hiệu quả các điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Mục tiêu nghiên cứu của Đề tài
1. Đề tài có mục tiêu tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở khoa học pháp lý (trong
nước và quốc tế) về điều ước quốc tế và nội luật hóa các điều ước quốc tế; đánh giá thực
trạng khuôn khổ pháp luật Việt Nam và thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế của
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tê; xác định các yêu cầu đạt được trong
quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế nhằm phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Đề tài đặt ra yêu cầu nghiên cứu pháp luật và thực tiễn điều ước quốc tế và nội luật
hóa các điều ước quốc tế của Việt Nam và các nước để từ đó kiến nghị về cơ chế, mô
hình và cách thức nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
phục vụ tốt hơn cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Đề tài có phạm vi nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực hiện điều ước quốc tế và nội
luật hóa điều ước quốc tế trong giai đoạn hiện nay nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy
định liên quan việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập trong quá
trình đàm phán gia nhập WTO và các hiệp định của WTO.
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Lý luận chung về điều ước quốc tế
1.1. Khái niệm về điều ước quốc tế
Một bộ phận quan trọng của pháp luật quốc tế đó là Luật điều ước quốc tế. Luật điều ước
quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh trình tự ký kết, điều kiện
hợp pháp, có hiệu lực và chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế. Quan hệ quốc tế ngày
càng mở rộng trong mọi lĩnh vực đời sống quốc tế thì vai trò đặc biệt của luật điều ước
ngày càng lớn, bởi vì chính nó là công cụ gắn kết quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế đã pháp điển hóa và phát triển hàng loạt
các quy phạm vốn là tập quán quốc tế trong lĩnh vực điều ước quốc tế. Điều 1 của Công
ước quy định rõ: “Điều ước là từ dùng để chỉ một thoả thuận quốc tế được ký kết bằng
văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế và được pháp luật
quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay
nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Mặc dù đã được định nghĩa như vậy, nhưng cách hiểu và giải thích về nó cũng như áp
dụng trên thực tế hầu như chưa có sự thống nhất trong các quốc gia thành viên, kể cả
các quốc gia chưa phải là thành viên của Công ước. Cách hiểu của Việt Nam về khái
niệm điều ước quốc tế cũng không hoàn toàn nhất quán.
1.2. Các giai đoạn ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
a) Giai đoạn ký kết điều ước quốc tế
Quá trình ký kết điều ước quốc tế có những qui trình sau.
- Ký điều ước quốc tế: phụ thuộc vào từng điều ước cụ thể, việc ký điều ước quốc tế có
thể là kết thúc quá trình ký kết (nếu điều ước có hiệu lực từ thời điểm ký) hoặc chỉ là một
trong các giai đoạn ký kết (nếu như điều ước còn cần phải phê chuẩn hoặc phê duyệt).
- Phê chuẩn điều ước quốc tế: là việc cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước thông qua
điều ước, biểu hiện sự đồng ý của nhà nước đối với quyền và nghĩa vụ ghi trong điều
ước.
Pháp luật quốc tế không có một quy phạm cụ thể hay một văn bản pháp lý cụ thể quy
định điều ước nào thì cần phê chuẩn và điều ước nào thì không. Thực tiễn điều ước cho
thấy rằng việc phê chuẩn hay không cần phê chuẩn phụ thuộc ý muốn của các bên tham
gia điều ước, vì các bên đều có chủ quyền và đều bình đẳng, tự nguyện tham gia quan
hệ điều ước, do đó các bên tự quyết định với nhau trên cơ sở thỏa thuận.
- Phê duyệt điều ước quốc tế.
Phê duyệt điều ước là hành vi biểu hiện sự đồng ý ràng buộc của quốc gia vào điều ước
quốc tế nào đó. Khác với phê chuẩn, việc phê duyệt điều ước thường được tiến hành tại
cơ quan hành pháp tối cao của nhà nước. Phê duyệt điều ước và phê chuẩn điều ước, về
nguyên tắc đều giống nhau, đều là hành vi biểu hiện sự đồng ý ràng buộc của một nước
với một điều ước nào đó. Song cần phân biệt phê duyệt điều ước với khái niệm thông
qua văn bản điều ước. Phê duyệt điều ước có nghĩa là Chính phủ hoặc một cơ quan
hành pháp có thẩm quyền cụ thể chuẩn y điều ước đó, nếu như điều ước liên quan tới
thẩm quyền của họ và không cần trình lên cấp cao hơn như Quốc hội. Còn thông qua văn
bản điều ước có thể là hành vi cần thiết cho việc ký chính thức văn bản điều ước quốc tế.
- Gia nhập điều ước quốc tế.
Gia nhập điều ước quốc tế là việc một chủ thể của luật quốc tế thể hiện rõ ràng sự đồng ý
ràng buộc mình với các quyền và nghĩa vụ của một điều ước quốc tế nhiều bên. Gia nhập
điều ước quốc tế phải được thể hiện rõ theo các quy định cụ thể của điều ước quốc tế
nhiều bên đó.
Những quốc gia gia nhập phải chấp nhận những điều khoản của điều ước theo những
quy định và thủ tục cụ thể của điều ước đó, không có quyền thêm nội dung mới vào điều
ước đó khi gia nhập, song lại có quyền bảo lưu những điều khoản nhất định theo quy định
của điều ước đó.
b)Thực hiện điều ước quốc tế
Nguyên tắc tận tâm thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda) là một trong những
nguyên tắc cơ bản, bao trùm trong lý luận về việc thực hiện điều ước quốc tế. Nguyên tắc
này có lịch sử phát triển lâu đời nhất so với lịch sử hình thành và phát triển của các
nguyên tắc cơ bản khác của luật quốc tế hiện đại.
Nguyên tắc Pacta sunt servanda là nguyên tắc nền tảng của pháp luật quốc tế hiện đại và
nguyên tắc này bảo đảm cho việc các điều ước quốc tế thực hiện. Theo nguyên tắc này,
các quốc gia phải có nghĩa vụ tận tâm thực hiện hết khả năng các cam kết quốc tế của
mình.
Pháp luật quốc tế nói chung không quy định cụ thể quốc gia cần phải thực hiện điều ước
quốc tế bằng cách thức nào, hay nói cách khác các quốc gia toàn quyền có thể tự do lựa
chọn các cách thức để thực hiện điều ước, miễn là điều ước quốc tế được thực hiện một
cách tận tâm và đầy đủ. Ngoại lệ ở đây là khi các quốc gia thành viên điều ước có thoả
thuận cụ thể về một cách thức nào đó sẽ được sử dụng để thực hiện một điều ước cụ thể
hoặc có khuyến nghị hay đề xuất về khả năng sử dụng cách thức thực hiện nào đó.
2. Hệ thống các điều ước quốc tế của Việt Nam liên quan đến hội nhập kinh tế quốc
tế
Trong những năm gần đây, số lượng các điều ước các điều ước quốc tế mà Việt nam ký
kết và gia nhập ngày càng có xu hướng gia tăng. Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện
Pháp lệnh ký kết và thực hiện điều ước quốc tế (1998-2005), Việt Nam đã ký kết, gia
nhập hơn 700 điều ước quốc tế (chưa kể các điều ước quốc tế được ký kết với danh
nghĩa bộ, ngành). Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, số lượng điều ước quốc tế của Việt
Nam ký kết đã bằng số lượng của gần 50 năm trước đó. Trong đó, các điều ước quốc tế
liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế chiếm một phần không nhỏ.
Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế rất đa dạng
và phong phú trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, tránh đánh thuế hai lần...Có thể nói điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có quy mô và phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất là
Hiệp định về việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và các Hiệp định kèm
theo của WTO. Các hiệp định của WTO điều chỉnh các hoạt động trong 3 lĩnh vực là
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Các hiệp định này rất dài và
phức tạp gắn kết với nhiều học thuyết kinh tế, thương mại quốc tế và được làm rõ qua
các án lệ thương mại quốc tế và các phán quyết của WTO. Số lượng các Hiệp định này
đến khoảng 5 vạn trang A4 điện tử. Thực tế, các hiệp định được xây dựng dựa theo một
cấu trúc gồm sáu phần:
- Hiệp định khung (Hiệp định thành lập WTO);
- GATT 1994 và 12 Hiệp định chung điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá cụ thể;
- Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và các phụ lục;
- Hiệp định điều chỉnh lĩnh vực thương mại của sở hữu trí tuệ (TRIPS);
- Thoả thuận về giải quyết tranh chấp;
- Quy định về rà soát chính sách thương mại của Chính phủ các nước
II. LÝ LUẬN VỀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA CÁC
ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Khái niệm về nội luật hóa
a) Ở các nước, để thi hành điều ước quốc tế, người ta thường phải chuyển hóa các quy
phạm của điều ước quốc tế đó thành quy phạm pháp luật trong nước và thi hành điều
ước quốc tế trên cơ sở các quy phạm pháp luật trong nước vốn là quy phạm của điều
ước quốc tế đó. Quá trình chuyển hóa đó thường được gọi là chuyển hóa điều ước quốc
tế hoặc nội luật hóa các điều ước quốc tế.
b) Ở Việt Nam, có nhiều ý kiến khác nhau về "nội luật hóa". Có thể nêu lên hai cách hiểu
khái niệm nội luật hoá sau đây:
- Cách hiểu thứ nhất cho rằng nội luật hóa là quá trình pháp lý do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành nhằm chấp nhận hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc tế. Như
vậy, theo quan điểm này thì nội luật hóa dường như đồng nghĩa với việc quốc gia chấp
nhận hiệu lực pháp lý của điều ước. Do đó, sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước
chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế thì các quy định của điều ước có giá trị
pháp lý và được áp dụng trên lãnh thổ quốc gia.
- Cách hiểu thứ hai cho rằng nội luật hoá và quá trình chấp nhận hiệu lực pháp lý của
điều ước quốc tế là hai khái niệm pháp lý khác nhau và có mối quan hệ tương đối độc lập
với nhau: việc chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước là hành vi của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoàn tất các thủ tục pháp lý trong nước và thông qua đó thể hiện việc
quốc gia tham gia điều ước chấp nhận việc áp dụng các quy định của điều ước đó đối với
mình. Trong khi đó, nội luật hoá là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc tế thành quy
phạm của pháp luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm
pháp luật trong nước để cho nội dung của các quy định của điều ước quốc tế chiếm toàn
bộ hoặc da số phần nội dung của quy phạm pháp luật trong nước.
c) Ban chủ nhiệm Đề tài về cơ bản có quan điểm theo cách hiểu thứ hai nói trên. Theo
các tác giả thì nội luật hoá là quá trình chuyển hóa nội dung các quy phạm của điều ước
quốc tế thành các quy phạm pháp luật trong nước để thi hành. Với cách hiểu này tập thể
tác giả cũng cho rằng khái niệm "nội luật hoá" điều ước quốc tế có thể dùng tương đương
hay thay thế cho khái niệm "chuyển hoá" quy phạm điều ước quốc tế. Tức là hai khái
niệm "nội luật hoá" và "chuyển hoá" điều ước quốc tế có cùng bản chất và nội hàm, thực
ra là một tuy cách dùng từ có khác nhau.
Như vậy, khái niệm "nội luật hóa" trong khuôn khổ phạm vi Đề tài này có thể được hiểu
là: quá trình đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm
pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc
ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với
nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập.
2. Đặc điểm của nội luật hóa
a) Đặc điểm về thời gian xuất hiện
Quá trình nội luật hóa có thể diễn ra sớm hoặc muôn hơn quá trình thực hiện điều ước
quốc tế. Nó có thể được diễn ở các giai đoạn cụ thể như sau:
- Giai đoạn tạo lập thỏa thuận ý chí của các quốc gia hay các chủ thể khác của luật quốc
tế.
- Giai đoạn công nhận hiệu lực bắt buộc của các quy phạm điều ước.
- Giai đoạn thực hiện điều ước quốc tế.
b) Đặc điểm của văn bản nội luật hóa
Văn bản nội luật hóa là văn bản quy phạm pháp luật trong nước, nhưng có một số nội
dung pháp lý vốn là nội dung pháp lý của điều ước quốc tế có liên quan. Nếu xét về mặt
bản chất thì nội dung pháp lý của văn bản nội luật hóa đó có cội nguồn từ nội dung pháp
luật của các cam kết cần được thi hành của các nước liên quan.
c) Đặc điểm của hiệu lực cưỡng chế của văn bản nội luật hóa
Hiệu lực cưỡng chế của văn bản nội luật hóa điều ước quốc tế thể hiện ở chỗ văn bản đó
là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nó có hiệu lực cưỡng chế như
các văn bản quy phạm pháp luật bình thường khác. Tuy vậy, việc ban hành văn bản nội
luật hóa dưới hình thức nào (Nghị quyết hoặc Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Nghị quyết hay Nghị định của Chính phủ...) lại tuỳ thuộc vào sự
quyết định của các cơ quan trong nước, căn cứ vào mô hình nội luật hóa, vào điều kiện
lịch sử cụ thể trong nước.
d) Đặc điểm quan hệ so sánh giữa điều ước quốc tế, pháp luật trong nước và quá trình
nội luật hóa.
Đây là vấn đề thường bị nhầm lẫn, thường bị bỏ qua trong nghiên cứu quan hệ tương tác
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong lý luận pháp luật quốc tế, có các ý
kiến khác nhau về mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật này, có quan điểm quá
nghiêng về trường phái nhất nguyên luận (hệ thống này là bộ phận của hệ thống kia), có
quan điểm lại ở vào tình trạng dung hòa, nghiêng về trường phái nhị nguyên luận (hai hệ
thống đó độc lập với nhau nhưng có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau). Chính
những người có quan điểm theo nhị nguyên luận là những người quan tâm nhiều hơn về
vấn đề chuyển hóa hay nội luật hóa điều ước quốc tế để thi hành.
3. Các mô hình nội luật hóa các điều ước quốc tế ở Việt Nam
a) Các tiêu chí để xác định mô hình:
Có nhiều tiêu chí khác nhau có thể được lựa chọn để xây dựng mô hình nội luật hóa các
điều ước quốc tế. Trong phạm vi Đề tài này, có thể nêu lên các nhóm tiêu chí sau và phù
hợp với chúng là các mô hình tương ứng:
- Nhóm tiêu chí cơ bản là các nghĩa vụ cơ bản của Việt Nam theo các cam kết trong lĩnh
vực cần có nội luật hóa. Các tiêu chí này có thể phân ra thành các tiểu nhóm theo nội
dung đã có trong pháp luật Việt Nam và chưa có trong pháp luật Việt Nam. Theo tiểu
nhóm nội dung đã có trong pháp luật Việt Nam thì có những nội dung phù hợp và có
những nội dung trái, chưa phù hợp với pháp luật Việt Nam.
- Nhóm những tiêu chí bổ sung (để làm hoàn thiện mô hình) là các nghĩa vụ không cơ
bản và các quy định về quyền của Việt Nam theo các cam kết quốc tế. Đây là nhóm tiêu
chí không được quá đề cao trong quá trình nội luật hóa cho dù chúng có thể có ý nghĩa
quan trọng về mặt trong nước.
b) Các mô hình cơ bản:
Mô hình “cách mạng” đặt ra việc bãi bỏ các quy định cũ của pháp luật trong nước trái với
nội dung cam kết quốc tế, sửa đổi những quy định pháp luật trong nước chưa phù hợp;
bổ sung những quy định mà pháp luật trong nước chưa có ngay trong một thời gian ngắn
bằng cách ban hành mới, sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật hiện hành để thực
thi đầy đủ các nội dung của điều ước quốc tế.
Mô hình “cải lương” (hay còn gọi là “chuyển hóa từ từ”) đặt ra yêu cầu thay thế từng phần
(chứ không bãi bỏ ngay) các quy định trong nước có nội dung trái với cam kết quốc tế;
sửa đổi dần từng phần các quy định trong nước chưa phù hợp căn cứ vào điều kiện cụ
thể; bổ sung dần các quy định mà pháp luật trong nước chưa có khi điều kiện trong nước
cho phép.
Mô hình hỗn hợp thực chất là kết hợp cả hai mô hình nêu trên.
Sự khác nhau giữa mô hình “cách mạng” và mô hình “cải lương” (“chuyển hóa từ từ”) chủ
yếu ở chỗ, mô hình cách mạng sẽ tạo lập nhanh chóng, đồng bộ nền tảng pháp luật trong
nước để thực thi ngay, thực thi đầy đủ các cam kết quốc tế, nhanh chóng đưa điều ước
quốc tế vào cuộc sống nội bộ quốc gia. Trong khi đó, mô hình cải lương thì tạo lập từ từ,
theo từng mảng vấn đề của pháp luật trong nước, dần dần đưa điều ước quốc tế vào
thực thi trong nước. Áp dụng mô hình cách mạng có mặt không lợi là dễ dẫn đến những
hậu quả nhất định trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, nhất là những cam kết
quốc tế liên quan trực tiếp đến cuộc sống của đông đảo người dân. Trong khi đó, áp dụng
mô hình cải lương có thể không bị xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội, nhưng có thể phải
tốn nhiều thời gian, mất cơ hội trong kinh doanh quốc tế, làm giảm niềm tin của cộng
đồng thương mại quốc tế vào nước ký kết điều ước quốc tế.
c) Các cách thức nội luật hóa
Có nhiều cách thức để nội luật hóa. Có thể nêu lên một số cách thức sau :
- Thứ nhất, cách thức “một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật”. Đây là cách thức được áp
dụng theo mô hình “cách mạng” trong nội luật hóa điều ước quốc tế. Thực tiễn nhiều
nước áp dụng cách thức này trong nội luật hóa các cam kết quốc tế trong lĩnh vực hội
nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn Việt Nam ta thời gian qua cũng áp dụng một phần cách
thức này.
- Thứ hai, cách thức tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới từng văn bản quy phạm
pháp luật để thực thi điều ước quốc tế như Việt Nam ta vẫn làm. Cách thức này được áp
dụng theo mô hình cải lương, chuyển hóa từ từ điều ước quốc tế. Trong một số trường
hợp, việc nội luật hóa các điều ước quốc tế để thi hành còn có thể được thực hiện theo
cách thức ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan hành pháp, đặc
biệt là ban hành các quyết định, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan về một
số vấn đề cần làm rõ theo các quy định trong điều ước quốc tế.
- Thứ ba, phối hợp cách một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật với cách sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới từng văn bản quy phạm pháp luật để dần dần thực thi điều ước quốc tế.
Cách thức này được áp dụng theo mô hình hỗn hợp trong nội luật hóa các điều ước quốc
tế. Trong thực tiễn, việc áp dụng cách thức nội luật hóa này có thể cho phép vượt qua
được những trở ngại nhất định trong quá trình chuyển hóa nội dung pháp lý của điều ước
quốc tế thành nội dung pháp lý của pháp luật trong nước do chưa có các quy định bổ trợ
thực thi nội dung pháp lý đó trong pháp luật trong nước.
PHẦN III: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
VÀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
I. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOA KỲ VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA
CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA VÒNG URUGUAY
Hoa kỳ có thể chế pháp luật và thực tiễn thi hành các điều ước quốc tế 1 khá phức tạp về
nhiều khía cạnh, từ thẩm quyền, thủ tục đến việc phải dung hoà các quyền lợi khác nhau
của các đảng phái chính trị trong nước. Bản thân các cơ quan hành pháp Hoa Kỳ khi đàm
phán, ký và thực hiện các điều ước quốc tế có thể bị kiện ra toà án trong nước vì có vi
phạm các quy định của Hiến pháp2 hoặc luật của Quốc hội.
Có 5 thủ tục cơ bản được quy định cho việc đàm phán và thi hành các điều ước quốc tế
của Hoa kỳ3, và tương ứng với chúng là 5 loại điều ước quốc tế4:
- Thứ nhất, thủ tục đàm phán một điều ước quốc tế sau đó cần có 2/3 số phiếu của
Thượng nghị viện ủng hộ phê chuẩn điều ước này theo các quy định của Hiến pháp;
- Thứ hai, Tổng thống có thể cho phép đàm phán một điều ước quốc tế để thi hành chi
tiết một hiệp ước đã được ký kết;
- Thứ ba, Tổng thống có quyền ký kết các "hiệp định hành pháp" để thực thi quyền hạn
của mình trong quan hệ đối ngoại mà không cần có sự tham gia hay cho phép của Quốc
hội. Tuy nhiên, thủ tục này không được áp dụng đối với các hiệp định thương mại vì Hiến
pháp quy định cụ thể là Quốc hội có quyền "quy định và thu.... thuế xuất nhập khẩu và
1
Hoa kỳ chưa là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế, nhưng thừa nhận các quy định của
Công ước này là phần của pháp luật tập quán quốc tế.
Thuật ngữ "điều ước quốc tế" trong bài viết này được hiểu theo nghĩa của Công ước Viên và không phải là thuật ngữ
chính xác được nói tới trong thể chế pháp luật của Hoa kỳ vì ở đó sử dụng các thuật ngữ khác với các ý nghĩa pháp lý
khác nhau : "hiệp ước" và "hiệp định" (xin xem thêm chi tiết tại phần sau). Tuy nhiên, thuật ngữ "điều ước quốc tế" được
dùng chung tại bài viết này.
2 Vụ kiện đối với Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) chẳng hạn. Bản thân việc đàm phán các hiệp định Vòng
Uruguay cũng bị kiện ra toà án : xem vụ Public Citizen kiện Office of the U.S. Trade Representative, 970 F.2d 916 (D.C.
Cir.1992)
3 Law For Global Business, Eric L. Richards, Indiana University, 1994
4John Jackson và William Davey, Legal Problems of International Economic Relations, Second Edition
"đặt ra các quy định đối với thương mại với nước ngoài" (Điều I, khoản 8, Hiến pháp hoa
kỳ).
- Thứ tư, Tổng thống đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế với sự uỷ quyền của Quốc
hội. Điều này có thể thấy rõ qua quy định tại Điều 101 của Luật Thương mại 1974;
- Thứ năm, Tổng thống đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế với sự phê chuẩn và nội
luật hoá các điều khoản của điều ước quốc tế sau khi được ký, điều này được nói đến
trong Luật về các Hiệp định Bretton Woods.
Như vậy, để đàm phán và thực hiện các hiệp định thương mại thì Tổng thống cần có sự
hợp tác từ Quốc hội theo cách thứ tư hoặc thứ năm.
II. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA CANADA VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI
LUẬT HÓA CÁC HIỆP ĐỊNH WTO
Canađa là nhà nước liên bang với sự phân chia thẩm quyền quản lý nhà nước giữa chính
quyền liên bang và chính quyền bang theo các lĩnh vực khác nhau: các thẩm quyền được
nêu tại Điều 91 Luật Hiến pháp là thẩm quyền riêng của chính quyền liên bang và các
thẩm quyền được liệt kê tại Điều 92 Hiến pháp là thẩm quyền riêng của chính quyền
bang. Có những vấn đề thuộc thẩm quyền được chia sẻ giữa liên bang và bang. Về thi
hành các điều ước quốc tế, Canađa theo thuyết nhị nguyên thừa hưởng từ nước Anh và
không coi các điều ước quốc tế là một bộ phận của pháp luật quốc gia dù các điều ước
đó có hiệu lực đối với chính quyền liên bang. Các cơ quan hành pháp liên bang có thẩm
quyền đàm phán và ký kết các điều ước, nhưng để thi hành các điều ước này yêu cầu
phải được nội luật hoá. Vấn đề nội luật hoá các điều ước quốc tế, nhất là các điều ước
quốc tế lớn và phức tạp như các hiệp định của WTO đem lại sự tham gia của cả các cơ
quan lập pháp liên bang và bang tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của hiệp định rơi vào
Điều 91 hay 92 của Hiến pháp, hay nằm ngoài hai điều này. Mặc dù vấn đề thẩm quyền
của chính quyền liên bang và bang còn nhiều điểm chưa rõ ràng trong một số vấn đề,
nhưng Toà án tối cao Canađa có thiên hướng giải thích cho phép chính quyền liên bang
có đủ thẩm quyền được ban hành các đạo luật bảo đảm thi hành có hiệu quả các điều
ước quốc tế.
Canađa có cách tiếp cận "tối thiểu" trong nội luật hoá, tức là chỉ sửa đổi pháp luật theo
yêu cầu của các Hiệp định của WTO. Đối với các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại lớn gần đây, như Hiệp định
Thương mại tự do Canađa -Hoa kỳ; Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và các
hiệp định của WTO đều được Canađa nội luật hoá ở cấp liên bang thông qua việc ban
hành một đạo luật chung cho toàn quốc bên cạnh các văn bản luật của các cơ quan lập
pháp các bang, cũng như việc uỷ quyền cần thiết cho các cơ quan hành pháp ban hành
tiếp các quy định cần thiết.
Vấn đề thẩm quyền giải quyết các vấn đề cụ thể là một trong những vấn đề quan trọng
nhất trong quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế ở Canađa. Cấp
chính quyền nào, bang hay liên bang, có thẩm quyền về từng vấn đề liên quan. Hiến pháp
Canađa - một đạo luật được thừa hưởng từ nước Anh có lịch sử từ 1867 với tên gọi ban
đầu là Luật Bắc Mỹ thuộc Anh đã quy định về sự phân chia thẩm quyền giữa chính quyền
bang và liên bang. Canađa cũng thừa hưởng từ nước Anh học thuyết nhị nguyên và coi
các điều ước quốc tế không có hiệu lực thi hành trực tiếp tại Canađa cho tới khi được nội
luật hoá. Tuy nhiên, pháp luật tập quán quốc tế lại có thể được áp dụng trực tiếp trong
nước5.
II. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA HÀN QUỐC VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI
LUẬT HÓA CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA WTO
Hàn quốc là nước không thực sự quan tâm lắm tới Vòng đàm phán Uruguay và thậm chí
còn "miễn cưỡng tham gia vào quá trình đàm phán"6. Tuy nhiên, kết quả Vòng Uruguay
cũng được Hàn quốc chấp nhận và cho thi hành: Quốc hội thông qua ngay 16/12/1994 và
Tổng thống phê chuẩn ngày 23/12/1994 các kết quả đó.
Theo Hiến pháp Hàn quốc thì việc đàm phán, ký kết và phê chuẩn các điều ước quốc tế
thuộc thẩm quyền của Tổng thống với 2 điều kiện: Hội đồng Nội các phải thảo luận tất cả
các đề xuất ký kết điều ước quốc tế và Quốc hội phải đồng ý đối với các điều ước quốc tế
lớn (được nêu cụ thể nội dung, khi nào điều ước là lớn theo Hiến pháp) 7. Quốc hội chỉ có
quyền đồng ý hay không đồng ý với các điều ước được trình ra, nhưng không có quyền
sửa đổi. Nhìn chung Quốc hội có ít thẩm quyền về công tác điều ước quốc tế. Quyền đàm
phán các điều ước quốc tế của Tổng thống chủ yếu được thực hiện thông qua các Bộ
trưởng phụ trách về nội dung đàm phán.
Hàn quốc có quy định là trong trường hợp có xung đột pháp luật thì đạo luật ban hành
sau có giá trị hơn đạo luật ban hành trước và luật chuyên ngành được ưu tiên áp dụng.
Các điều ước quốc tế sau khi được phê chuẩn hoặc phê duyệt sẽ có giá trị như văn bản
nội luật, chúng cũng phải theo nguyên tắc này và hệ quả là chúng cũng có thể bị luật của
Quốc hội sau đó huỷ bỏ hay thay đổi. Tuy nhiên, các cơ quan hành pháp và toà án đều có
những nỗ lực để không xảy ra trường hợp này.
IV. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA CỘNG HOÀ PHÁP VÀ LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Pháp luật của Cộng hoà Pháp
Cộng hoà Pháp là quốc gia tiêu biểu cho hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Lý luận về
pháp luật quốc tế và về vấn đề nội luật hóa điều ước quốc tế ở Pháp phát triển từ lâu.
Ngay từ thế kỷ XVIII đã có nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề này và có các
trường phái khác nhau liên quan.
Về quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước, Điều 55 Hiến pháp Pháp đã
khẳng định điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng so với nội luật. Việc ưu tiên áp dụng
này phải đáp ứng với một số điều kiện nhất định:
+ Thứ nhất, đó là điều kiện về hình thức, thủ tục: điều ước quốc tế phải được phê chuẩn
hoặc phê duyệt một cách hợp lệ;
+ Thứ hai, đó là điều kiện về nội dung: bên ký kết kia cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh
điều ước quốc tế đó (nguyên tắc có đi có lại).
2. Pháp luật và thực tiễn của Liên minh Châu Âu về nội luật hóa các điều ước quốc
tế
Liên minh Châu Âu là một một tổ chức quốc tế có tính liên kết cao (có Hiến pháp chung,
có luật chung, có các thiết chế chung như Nghị viện (Hội đồng Châu Âu), Chính phủ (Uỷ
5
6
Debra Steger, bài phát biểu về kinh nghiệm thi hành các hiệp định WTO, 11/2004
Giáo sư luật Moon Soo Chung, Đại học tổng hợp Inha
7 Hiến pháp, các Điều 73, 89 và 60(1)
ban Châu Âu), Tòa án Châu Âu… Tuy vậy, nó cũng chưa phải là một Nhà nước liên bang
(mặc dù đã chuyển giao cho liên minh một phần chủ quyền quốc gia của mình nhưng mỗi
quốc gia về cơ bản vẫn là một chủ thể độc lập của luật quốc tế). Nói cách khác, toàn bộ
Liên minh là một chủ thể của luật quốc tế mà các thiết chế của Liên minh hành động vì lợi
ích chung của cộng đồng, nhưng bản thân mỗi quốc gia thành viên lại là một chủ thể độc
lập của luật quốc tế, hành động vì lợi ích của quốc gia mình trong sự thống nhất với lợi
ích chung của toàn bộ liên minh. Nhiều học giả Châu Âu cho rằng Liên minh châu Âu
đang trong quá trình vận động tiến tới hình thành một Nhà nuớc liên bang (đặc biệt với sự
kiện 25 nguyên thủ quốc gia của liên minh ký kết Hiến pháp Châu Âu vào cuối tháng
10/2004 vừa qua).
Theo Hiến pháp Châu Âu, thì Hiến pháp và các văn bản pháp luật do Liên minh Châu Âu
ban hành có giá trị pháp lý cao hơn pháp luật của các quốc gia thành viên liên minh 8.
Điều này xuất phát từ mục đích thiết lập Liên minh Châu Âu. Ngay trong Hiệp định Rôme
(1958) về thành lập Cộng đồng châu Âu, mục đích thành lập Cộng đồng đã được khẳng
định rõ là thiết lập một thị trường chung (một khối mậu dịch tự do), một liên minh kinh tế
và tiền tệ chung (Điều 2 Hiệp định Rôme). Để đạt được mục đích này, Liên minh Châu Âu
hành động với phương châm nhất thể hóa hệ thống pháp luật của các quốc gia thành
viên nhằm tạo điều kiện cho sự vận hành của một thị trường chung (Điều 3 Hiệp định).
Muốn vậy, pháp luật của Liên minh phải được áp dụng thống nhất và trực tiếp trên toàn
lãnh thổ của Liên minh nhằm phá bỏ các rào cản ảnh hưởng đến các nguyên tắc cơ bản
do Liên minh đề ra là tự do lưu thông hàng hóa và dịch vụ, tự do lựa chọn nơi làm việc, tự
do đi lại.
V. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA NHẬT BẢN VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ NỘI
LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
Nhật Bản là nước có hệ thống phát luật khá hoàn thiện so với các nước ở Châu á. Tuy
nhiên, điều này không có nghĩa khi ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế, thì hệ
thống pháp luật của Nhật Bản luôn phù hợp với các cam kết quốc tế và có thể thi hành
ngay điều ước quốc tế. Nhật Bản đã phải tiến hành nội luật hoá các quy định của điều
ước quốc tế mới thi hành được điều ước quốc tế. Do Nhật Bản là một nước có nền kinh
tế lớn trên thế giới, có quan hệ kinh tế với hầu hết các nước và tham gia nhiều diễn đàn,
tổ chức kinh tế quốc tế, nên số lượng các điều ước quốc tế mà Nhật Bản đã ký và thực
hiện là rất lớn.
Nhật Bản là một trong những thành viên sáng lập của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Theo đó, đến ngày 01/01/1995, toàn bộ các Hiệp định trong khuôn khổ WTO có
hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ của Nhật Bản. Như vậy, cũng tương tự như Hoa Kỳ,
Canada và một số nước khác, Nhật Bản chỉ có khoảng 4 để tiến hành nội luật hoá, hài
hoà hoá các quy định của WTO với pháp luật trong nước.
VI. PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA MỘT SỐ NƯỚC ASEAN VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC
TẾ VÀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
ASEAN hiện nay gồm 10 quốc gia thành viên. Các nước ASEAN có hệ thống chính trị,
pháp luật và tổ chức bộ máy Nhà nước rất khác nhau. Hệ thống pháp luật của các nước
8
Điều I-6 Hiến pháp Châu Âu: ‘‘Hiến pháp và các văn bản pháp luật do các thiết chế của liên minh châu Âu ban hành
trong khuôn khổ thực thi các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền chuyên biệt của các thiết chế này, có giá trị cao hơn pháp luật
của các nước thành viên liên minh’’.
ASEAN chủ yếu dựa trên: (i) hệ thống pháp luật common law; (ii) hệ thống pháp luật châu
âu lục địa; và (iii) hệ thống pháp luật đạo hồi. Quan niệm của các nước ASEAN về áp
dụng điều ước quốc tế cũng mang những nét riêng nhưng đa phần đều quan niệm điều
ước quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống tách rời nhau, song song với nhau (nhị
nguyên luận). Các quốc gia khi muốn áp dụng điều ước quốc tế thì phải thông qua quy
trình chuyển hoá các quy định của điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia. Việc nghiên
cứu thực tiễn của các nước ASEAN về nội luật hoá điều ước quốc tế cũng tính đến hoặc
xem xét quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, quan niệm về điều ước quốc tế
và việc áp dụng điều ước quốc tế trên thực tế.
1. Thái Lan.
Về quy trình đàm phán, ký kết điều ước quốc tế, cơ quan hành pháp có thẩm quyền đàm
phán, ký kết và gia nhập điều ước quốc tế theo quy định của pháp luật. Sau khi kết thúc
quá trình đàm phán và ký kết, điều ước quốc tế có điều khoản phê chuẩn sẽ được trình
Quốc hội xem xét, các điều ước còn lại sẽ được Chính phủ phê duyệt. Nếu Quốc hội tiến
hành phê chuẩn điều ước quốc tế thì Quốc hội phải họp phiên tổng thể (gồm cả Thượng
viện và Hạ viện) theo quy định tại Điều 159 và Điều 193 của Hiến pháp. Nhà Vua có vai
trò quan trọng trong quá trình đàm phán, ký kết điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều
224 của Hiến pháp Thái Lan, Nhà Vua có quyền đàm phán, ký kết điều ước quốc tế về
hoà bình, với người đứng đầu nhà nước của quốc gia khác hoặc tổ chức liên chính phủ.
Đối với điều ước quốc tế có liên quan đến việc thay đổi địa giới lãnh thổ hoặc quyền tài
phán quốc gia hoặc yêu cầu ban hành luật để thực thi điều ước quốc tế thì cần phải được
Quốc hội phê chuẩn.
Về việc nội luật hóa hoá điều ước quốc tế, Hiến pháp Thái Lan không quy định rõ. Tuy
vậy, điều ước quốc tế khi được Quốc hội phê chuẩn có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia
hoặc lãnh thổ của Thái lan thì có giá trị ưu tiên áp dụng so với các văn bản luật khác. Việc
nội luật hóa hoá điều ước quốc tế được tiến hành thông qua việc ban hành đạo luật để
thực hiện điều ứơc quốc tế đó. Thông thường điều ước quốc tế có ảnh hưởng, tác động
hoặc thay đổi hệ thống pháp luật của Thái Lan thì phải được trình Quốc hội phê chuẩn và
Quốc hội Thái Lan ban hành luật thực thi điều ước quốc tế đó.
2. Malaysia.
Malaysia là một nước quân chủ lập hiến. Quốc vương là nguyên thủ quốc gia và được
Hội đồng 9 tiểu vương bầu 5 năm 1 lần. Trong hệ thống pháp luật của Malaysia, Hiến
pháp là đạo luật tối cao, quy định toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, quyền lực
Liên bang, Bang, quyền tự do cá nhân, quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tín
ngưỡng, lập hội và tự do công dân. Mỗi Bang của Malaysia đều có quyền riêng của mình,
có cơ quan lập pháp, hành pháp nhưng không có cơ quan tư pháp, bởi vì cơ quan tư
pháp thuộc Liên Bang. Ở Liên Bang, Bộ máy Nhà nước của Malaysia được chia thành 3
ngành:
(i) Lập pháp (Thượng viện và Hạ viện);
(ii) Hành pháp (Nhà vua và Nội các);
(iii) Tư pháp.
Theo quy định của Điều 39 Hiến pháp Liên Bang Malaysia, thì Nhà vua (Yang di-Pertuan
Agong) là người có quyền lực tối cao và để thực hiện quyền lực của mình Nhà vua trao
quyền cho Nội các (Chính phủ) thực hiện. Nhà vua là người ký ban hành các đạo luật.
Theo quy trình xây dựng pháp luật của Malaysia thì dự luật muốn trở thành luật phải
được Hạ viện, Thượng viện thông qua và được Nhà Vua chấp thuận. Việc phân chia
quyền lực theo thuyết tam quyền phân lập cùng với chế độ quân chủ lập hiên có tác động
tới hoạt động đàm phán, ký kết và gia nhập điều ước quốc tế, trong đó cơ quan hành
pháp chủ yếu là tham gia và quá trình đàm phán, ký kết. Sau khi điều ước quốc tế được
ký kết thì thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế thuộc trách nhiệm của cơ quan lập
pháp (Quốc hội).
Hiến pháp Liên bang Malaysia không có quy định cụ thể về nội luật hóa điều ước quốc tế.
Việc áp dụng điều ước quốc tế ký với quốc gia và tổ chức quốc tế do Quốc hội quyết
định. Tính đến thời điểm hiện nay, Malaysia đã gia nhập hơn 150 điều ước quốc tế đa
biên và ký nhiều điều ước song phương với các quốc gia trên thế giới. Về việc thực hiện
điều ước quốc tế, Malaysia quan niệm điều ước quốc tế và pháp luật trong nước là 2 hệ
thống độc lập nhau (Nhị nguyên luận). Do vậy, để thực hiện cam kết quốc tế của mình
trong các điều ước quốc tế nhiều bên, Malaysia phải chuyển hoá các quy định của điều
ước quốc tế nhiều bên vào hệ thống pháp luật trong nước, thậm chí vào Hiến pháp Liên
Bang. Nhiều quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Tuyên bố chung toàn
cầu về quyền con người đã được chuyển hoá hoặc quy định trong Hiến pháp Liên Bang
để thực thi.
Việc nội luật hoá điều ước quốc tế của Malaysia được thực hiện thông qua việc sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới văn bản luật. Quy trình lập pháp ở Malaysia được tiến hành
thông qua Hạ viện là nơi chuẩn bị dự thảo luật theo quy trình 3 lần dự thảo: (i) Dự thảo
lần 1-thảo luận về tên gọi của dự luật; (ii) Dự thảo lần 2-Bộ trưởng có liên quan trình
trước Quốc hội để Quốc hội thảo luận, bổ sung các nội dung pháp lý của điều ước quốc
tế cần nội luật hóa (dự thảo lần 2 không làm cùng ngày với dự thảo lần 1 và văn bản dự
luật được gửi cho các đại biểu trước đó); và (iii) Dự thảo lần 3-Dự luật tiếp tục được sửa
đổi, bổ sung các nội dung pháp lý cần thiết để thực hiện điều ước quốc tế và đưa ra biểu
quyết. Trường hợp dự luật được thông qua, Hạ viện sẽ có văn bản gửi Thượng viện đề
nghị xem xét và chuẩn y. Trong trường hợp không đồng ý với dự luật do Hạ viện chuẩn
bị, Thượng viện gửi trở lại cho Hạ viện. Sau khi được Thượng viện chuẩn y, dự luật sẽ
được gửi đến cho Nhà Vua để phê chuẩn. Nếu không đồng ý với với một điều khoản nào
đó, Nhà Vua gửi trả lại cho Hạ viện kèm theo lý do không tán thành.
3. Phillipin.
Theo Hiến pháp của Phillipines, Tổng thống là người đứng đầu nhà nước đồng thời là
chủ tịch hành pháp nước CH Phillipines. Về mặt lập pháp, Tổng thống có quyền thông
qua dự luật và Quốc hội có thể bác bỏ ý kiến về không thông qua luật của Tổng thống với
đa số phiếu. Quốc hội của Phillipines gồm có Thượng viện và Hạ viện với tổng số là 274
thành viên. Thượng nghị viện gồm 24 thành viên. Thượng nghị sỹ được bầu trực tiếp
bằng tổng tuyển cử 6 năm một lần. Hạ nghị viện có tối đa 250 ghế với nhiệm kỳ 3 năm.
Dự luật sẽ tuần tự được Hạ viện và Thượng viện xem xét, thảo luận. Trong quá trình
thông qua, dự luật sẽ được đọc 3 lần tại mỗi Viện và phải được 2/3 số người có mặt đồng
ý. Sau khi được 2 Viện thông qua, dự luật sẽ được đệ trình Tổng thống xem xét, ký và
ban hành. Tổng thống có quyền phủ quyết dự luật nếu không đồng ý và khi đó dự luật sẽ
được trả về 2 Viện để xem xét tiếp. Nếu 2/3 thành viên của 2 Viện đều thông qua dự luật
mặc dù Tổng thống đã phủ quyết thì dự luật vẫn được thông qua và trở thành luật.
Việc đàm phán, ký kết và gia nhập điều ước quốc tế đều do cơ quan hành pháp tiến
hành. Trong đó, cơ quan (Bộ, ngành) sẽ chịu trách nhiệm về đàm phán, ký kết hoặc gia
nhập điều ước quốc tế do mình phụ trách. Giống như Malaysia và Thái Lan, quyền đàm
phán, ký kết và gia nhập điều ước quốc tế thuộc cơ quan hành pháp, còn thẩm quyền về
phê chuẩn điều ước quốc tế (điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước và Chính phủ )
thuộc cơ quan lập pháp (2 Nghị viện). Theo quy định của Điều 21 –Chương VII về Cơ
quan hành pháp thì không có điều ước quốc tế hoặc thoả thuận quốc tế nào có hiệu lực
trừ khi nó được ít nhất 2/3 số đại biểu của Thượng viện thông qua. Như vậy, quy định về
thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế của Phillipines có khác với các nước ASEAN
khác. Hiến pháp của Phillipines chỉ yêu cầu 2/3 thành viên của Thượng viện thông qua là
điều ước quốc tế có hiệu lực.
Việc thực hiện điều ước quốc tế tại Phillipines phải thông qua quá trình chuyển hoá điều
ước quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước. Như vậy, Phillipines cũng đã coi pháp luật
quốc tế là một bộ phận tách rời với hệ thống pháp luật quốc gia (thuyết Nhị nguyên luận)
và để thực hiện điều ước quốc tế thì phải nội luật hoá quy định của điều ước quốc tế.
Việc nội luật hoá các quy định điều ước quốc tế chỉ được tiến hành đối với các điều ước
quốc tế đa biên.
4. Singapore
Singapore là một quốc gia có hệ thống pháp luật án lệ (Common Law). Quốc hội của
Singapore gồm 81 nghị sỹ do dân bầu và 6 nghị sỹ được chỉ định. Quốc hội và Tổng
thống chịu trách nhiệm ban hành các đạo luật. Hội đồng Tổng thống phụ trách vấn đề dân
tộc chịu trách nhiệm rà soát, thẩm định hoặc thẩm tra các đạo luật trước khi trình Quốc
hội thông qua nhằm bảo đảm sự không phân biệt về mặt sắc tộc tại Singapore.
Việc đàm phán, ký kết điều ước quốc tế do cơ quan hành pháp (Chính phủ ) tiến hành.
Sau khi điều ước quốc tế được đàm phán và ký kết thì sẽ đệ trình phê chuẩn (đối với điều
ước quốc tế nhân danh Nhà nước hoặc điều ước có điều khoản phê chuẩn). Singapore
thực thi điều ước quốc tế thông qua việc chuyển hoá điều ước quốc tế vào pháp luật
trong nước (thuyết Nhị nguyên luận). Khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới, Singapore đã ban hành nhiều đạo luật có liên quan để thực thi nghĩa vụ thành
viên của mình. Singapore đã ban hành Luật về các biện pháp đối kháng và thuế chống
bán phá giá, trong đó nội luật hoá các quy định của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp
đối kháng và Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO. Các định nghĩa về chống bán
phán giá, phương pháp xác định thế nào là hàng hoá được bán phán giá, cách thức tính
thuế bán phá giá… đều được thể hiện trong Luật nói trên.
PHẦN IV: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VIỆT NAM VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ CÁC
VẤN ĐỀ VÊ NỘI LUẬT HÓA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
I. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Nhận xét chung
Việt Nam đã sớm có hệ thống văn bản khá hoàn chỉnh về điều ước quốc tế. Năm 1989,
Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế trong đó có định
nghĩa rõ về khái niệm điều ước quốc tế. Pháp lệnh này đã được thay đổi bởi Pháp lệnh
ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998. Kể từ khi Pháp lệnh này được ban hành,
Việt Nam đã ký kết và gia nhập hơn 700 điều ước quốc tế (chưa kể các điều ước quốc tế
được ký dưới danh nghĩa các Bộ, ngành). Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, số lượng điều
ước quốc tế được ký kết bằng số lượng điều ước của 50 năm trước đó. Kế thừa và phát
triển các quy định trước đây về điều ước quốc tế, Pháp lệnh đã tiếp thu những tinh hoa
của lý luận và thực tiễn điều ước quốc tế của thế giới, có đầy đủ các vấn đề về lý luận về
điều ước quốc tế và đã đặt ra vấn đề nội luật hóa các điều ước quốc tế khá cụ thể.
Tuy vậy, sau một thời gian thực hiện Pháp lệnh, thực tế đã phát sinh nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan đòi hỏi cần phải tiến hành sửa đổi, bổ sung tiếp tục các quy định
hiện có về điều ước quốc tế đáp ứng đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia
nhập WTO. Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (sau đây gọi tắt là Luật
điều ước quốc tế) đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14/6/2005 đã đáp ứng được
nhu cầu này và một phần nào đó đã nội luật hóa một số quy định của Công ước Viên năm
1969 về Luật điều ước quốc tế mà Việt Nam là trở thành thành viên.
Luật điều ước quốc tế được xây dựng dựa trên một số nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo
như sau:
- Thứ nhất, Luật điều ước quốc tế phải thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, mục
tiêu, chính sách của Nhà nước về đối ngoại theo phương châm Việt Nam sẵn sàng làm
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
- Thứ hai, Luật điều ước quốc tế phải cụ thể hóa một cách đầy đủ các nguyên tắc về ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được quy định tại Hiến pháp 1992 (sửa đổi)
nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực hiện
một cách thống nhất các yêu cầu trong việc đề xuất đàm phán, ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế.
- Thứ ba, Luật điều ước quốc tế cần được xây dựng trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các nội
dung vẫn cón giá trị về thực tiễn cũng như lý luận của Pháp lệnh năm 1998 và nội dung
liên quan đến điều ước quốc tế trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Trên cơ
sở đó, tiếp tục bổ sung, sửa đổi bằng những nội dung mới phù hợp với yêu cầu đặt ra.
- Thứ tư, Luật điều ước quốc tế phải có các quy định cụ thể, thống nhất, đáp ứng được
yêu cầu tiếp tục nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tham gia vào việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt
Nam, tham gia vào "luật chơi" của cộng đồng quốc tế, bảo vệ được quyền và lợi ích của
Việt Nam trong trường hợp các bên ký kết nước ngoài vi phạm điều ước quốc tế đã ký
kết với Việt Nam.
- Thứ năm. Luật điều ước quốc tế cũng phải nội luật hóa cho được các cam kết quốc tế
từ Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, bảo
đảm tính thống nhất của các quy định trong Luật với nội dung các cam kết của Công ước,
đặc biệt là nguyên tắc: điều ước quốc tế có hiệu lực ràng buộc các thành viên và phải
được các thành viên tự nguyện thi hành với thiện trí.
- Thứ sáu, phải gắn kết việc ký kết, gia nhập với việc thực hiện điều ước quốc tế. Thiết
lập cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan, xây dựng kế hoạch ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế hàng năm, dài hạn, tổ chức thực hiện, rà soát, tổng rà soát,
giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế.
2. Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về điều ước quốc tế.
Luật Điều ước quốc tế năm 2005 có những nội dung mới so với các quy định trước đây
về điều ước quốc tế
a) Về phạm vi các cơ quan có thẩm quyền ký kết điều ước quốc tế
Luật đã có thu hẹp đáng kể so với quy định trước đây, cụ thể là các Bộ, ngành, chính
quyền địa phương không phải là bên trong các điều ước quốc tế mà chỉ là bên trong Thỏa
thuận quốc tế mà thôi.
b) Về các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế
Luật không quy định rõ vấn đề này nhưng có đề cập đến điều ước quốc tế của các tổ
chức quốc tế quan trọng, trong đó có WTO. Rõ ràng là khi làm Luật này, Quốc hội đã tính
đến các Hiệp định của WTO và đặt vị trí quan trọng cho việc ký kết, gia nhập các Hiệp
định này. Lý luận và thực tiễn điều ước quốc tế Việt Nam cho thấy các điều ước quốc tế
trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế ở đây trước tiên là các hiệp định của WTO, sau đó
là các điều ước quốc tế được xây dựng dưới sự bảo trợ của các tổ chức quốc tế thuộc hệ
thống Liên Hợp quốc, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại, đầu tư khu vực,
các điều ước quốc tế song phương về thương mại, đầu tư, du lịch, ODA, các điều ước
quốc tế khác có liên quan đến chính sách và pháp luật kinh tế.
c) Vấn đề nội luật hóa trong Luật Điều ước quốc tế.
Trước khi thông qua Luật điều ước quốc tế, pháp luật Việt Nam không có quy định rõ về
vấn đề này mà chỉ có quy định liên quan đến sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản để
thi hành điều ước quốc tế.
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn Việt Nam về vấn đề điều ước quốc tế và nội luật hóa
trong thời gian hiện nay cho thấy Việt nam về cơ bản vẫn giữ quan điểm điều ước quốc tế
và nội luật hóa theo học thuyết luật quốc tế truyền thống của các nước xã hội chủ nghĩa
tuy đã có những điểm mới nhất định về mặt lý luận. Điểm mới đó trước tiên là Luật Điều
ước quốc tế cho phép áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế trong một số trường hợp cụ thể.
Vấn đề áp dụng trực tiếp này đã gây tranh luận về quan điểm nhị nguyên luận của Việt
Nam trong xử lý vấn đề quan hệ giữa pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế. Quan điểm
áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế kết hợp với nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc
tế có thể cho phép có ý kiến là Việt Nam đang nghiêng về thuyết nhất nguyên. Tuy vậy, ý
kiến đó cần tiếp tục được xem xét qua thực tiễn thi hành Luật điều ước quốc tế năm
2005.
II.THỰC TIỄN NỘI LUẬT HOÁ CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM KÝ KẾT
HOẶC GIA NHẬP NHẰM PHỤC VỤ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
TRONG THỜI GIAN QUA
1. Thực tiễn nội luật hóa các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Ky
Thông qua việc thực hiện Hiệp định BTA có thể nhận thấy là Việt Nam sử dụng nhiều
hình thức văn bản quy phạm pháp luật (chủ yếu là tuỳ theo nội dung của Hiệp định liên
quan tới văn bản ở cấp độ nào) để nội luật hoá các quy định của Hiệp định này. Nói cách
khác là hình như Việt Nam chưa có cách tiếp cận thống nhất trong sử dụng văn bản quy
phạm pháp luật để nội luật hoá các quy định của BTA. Kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới như được trình bày trong Báo cáo này thì hình thức văn bản luật của Quốc hội là
hình thức được sử dụng thống nhất trong nội luật hoá các điều ước quốc tế.
2. Thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế trong lĩnh vực đầu tư
Mặc dù trong hơn 15 năm qua, Luật Đầu tư nước ngoài đã liên tục được hoàn thiện qua 4
lần sửa đổi, bổ sung ở các mức độ khác nhau trong các năm 1990, 1992, 1996 và 2000,
nhưng có lẽ cũng chưa có cơ sở khẳng định là các lần sửa đổi, bổ sung này là để nội luật
hoá một số điều ước quốc tế cụ thể nào đó trong lĩnh vực đầu tư. Dường như gần 50
hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được thực hiện về cơ bản trên
nguyên tắc ưu tiên áp dụng các quy định của Hiệp định.
Thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế về đầu tư đang đặt ra một số vấn đề cần được giải
quyết để bảo đảm hiệu quả của công việc này:
- Việc điều chỉnh pháp luật về đầu tư không phải chỉ thuần túy nhằm thực hiện cam kết
quốc tế về đầu tư mà còn đáp ứng chủ trương chung của Nhà nước ta về cải thiện môi
trường đầu tư và chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Vì vậy, cần tiến hành nội luật hóa các cam kết quốc tế về đầu tư, có tính đến sự phát
triển của nền kinh tế, hệ thống pháp luật hiện hành cũng như lộ trình thực hiện cam kết
của Việt Nam trong khuôn khổ các điều ước quốc tế. Vấn đề là qua nội luật hóa phải duy
trì được sự ổn định của hệ thống pháp luật, không gây xáo trộn hoạt động quản lý Nhà
nước về đầu tư nước ngoài.
- Nội luật hóa các điều ước quốc tế về đầu tư có thể được thực hiện theo mô hình cách
mạng, thông qua kỹ thuật một văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung nhiều văn
bản quy phạm pháp luật ở các cấp khác nhau.
3. Thực tiễn nội luật hoá các hiệp định song phương liên quan tới thuế
Tuỳ theo qui định của pháp luật từng nước mà việc đưa Hiệp định thuế vào thực hiện
trong nước là khác nhau. Có nước thừa nhận và áp dụng trực tiếp các điều khoản của
Hiệp định, không ban hành văn bản hướng dẫn. Có nước ban hành văn bản giải thích cụ
thể với từng Hiệp định. Có nước ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Hiệp định.
Ở Việt Nam do các luật thuế được ban hành từ những năm nước ta mới bắt đầu thực
hiện cải cách toàn diện, mở cửa với các nước và về chính sách thuế tuy đã qua hai bước
cải cách nhưng đến nay các luật thuế vẫn còn chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc
tế, đặc biệt là thiếu nhiều những qui định phù hợp để điều chỉnh những quan hệ kinh tế
quốc tế ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, trình độ quản lý thuế cũng còn có những hạn
chế, do đó Hiệp định thuế với những nội dung mang tính quốc tế cao là những vấn đề rất
mới mẻ và nhiều khó khăn trong thực hiện. Điều này đòi hỏi phải có sự giải thích, hướng
dẫn thực hiện Hiệp định thật cụ thể, toàn diện. Việc nội luật hóa các điều ước quốc tế về
thuế ở Việt Nam đi theo cách thức không tương tự như nội luật hóa các điều ước quốc tế
về đầu tư hoặc nội luật hóa như BTA đã nêu. Với tư cách là "Nhà chức trách có thẩm
quyền " trong việc thực hiện hơn 40 Hiệp định trong lĩnh vực thuế, theo sự uỷ quyền của
Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã ban hành văn bản số 1664 TCT/HTQT ngày
11/10/1994 hướng dẫn thực hiện Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Sau một thời gian áp
dụng, văn bản này đã được thay thế bằng Thông tư số 95/1997/TT/BTC ngày 29/12/1997
của Bộ Tài chính hướng dẫn và giải thích nội dung các điều khoản của Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước đã ký kết và có hiệu lực thi hành ở Việt
nam. Để phù hợp với những sửa đổi, bổ sung khi ban hành Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp thay cho luật thuế lợi tức, Thông tư này cũng được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư
số 37/2000/TT/BTC ngày 5/5/2000. Các Thông tư này đã đưa ra những hướng dẫn, giải
thích cụ thể cho từng điều khoản của Hiệp định và qui định các thủ tục thực hiện Hiệp
định. Tuy nhiên, do Hiệp định thuế là Hiệp định song phương đạt được trên cơ sở thoả
nhượng phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước nên nội dung của mỗi Hiệp định có
những điểm khác nhau. Do đó, Thông tư hướng dẫn thực hiện Hiệp định thuế của Bộ Tài
chính không thể hướng dẫn chi tiết cho những điểm khác nhau này ở từng Hiệp định mà
chỉ có thể hướng dẫn những nội dung cơ bản. Vì vậy, về cơ bản khi áp dụng trên thực tế
cho từng trường hợp cụ thể vẫn phải căn cứ trực tiếp theo từng điều khoản ở từng Hiệp
định cụ thể, chứ không chỉ áp dụng theo Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
4. Thực tiễn nội luật hoá điều ước quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ là một trong lĩnh vực thể hiện rõ quá trình nội luật hoá các điều ước quốc
tế cùng với quá trình mở cửa hội nhập với thế giới của Việt Nam. Việc nội luật hoá các
điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ được thực hiện chủ yếu thông qua việc chuyển hoá
nội dung của các quy định của những điều ước quốc tế này vào pháp luật trong nước
dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, chúng ta cũng
sử dụng cách ban hành một văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện các
điều ước quốc tế cụ thể mà Việt Nam là thành viên.
Bước tiến lớn trong quá trình nội luật hoá các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, đồng
thời với quá trình pháp điển hoá pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam, đó là việc sửa
đổi Bộ luật Dân sự, trong đó tái khẳng định những nguyên tắc dân sự cơ bản của quyền
sở hữu trí tuệ (Phần VI của Bộ luật), ban hành Luật Sở hữu trí tuệ 9 để điều chỉnh tất cả
các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Một trong những nguyên tắc chỉ đạo
cho việc soạn thảo Luật Sở hữu trí tuệ là phải đảm bảo việc nội luật hoá các điều ước
quốc tế cơ bản trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, tại thời điểm này, Việt Nam đã
tham gia Công ước Berne, một công ước cơ bản trong lĩnh vực quyền tác giả, và đã trở
thành Thành viên của WTO, việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ càng thể hiện rõ hơn sự
chuyển hóa đầy đủ các yêu cầu của Công ước Berne và Hiệp định TRIPS, qua đó không
chỉ hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về lĩnh vực quyền tác giả mà còn cả hệ thống
các quy định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật Việt Nam.
5. Thực tiễn nội luật hóa trên các lĩnh vực khác
Hoạt động nội luật hóa các điều ước quốc tế trên một lĩnh vực khác cũng đã được tiến
hành. Chẳng hạn, sau khi Việt Nam gia nhập Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển
và một số công ước quốc tế khác về hàng hải quốc tế thì Quốc hội thông qua Bộ luật
Hàng hải, Luật Biên giới quốc gia và đang xem xét Luật về các vùng biển để nội luật hoá
một số các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về luật biển. Sau khi gia nhập
Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài
thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Công nhận và thi hành quyết định
trọng tài nước ngoài để nội luật hoá các quy định của Công ước New York. Sau khi Việt
Nam tham gia Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế thì Luật Ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế đã đưa vào nhiều nguyên tắc và quy định của Công ước này.
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình nội luật hóa đó ngày càng được đẩy mạnh. Việc xây
dựng và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật thường được xem xét trên cơ sở bảo
đảm tính tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Việt Nam
có thể tham gia. Điều này được thấy qua nội dung của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế quy định về thẩm định
các văn bản liên quan.
9
Với 222 Điều, Luật Sở hữu trí tuệ là một văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ nhất và chi tiết nhất trong lĩnh vực pháp
luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam từ trước đến nay.
III CÁC QUAN ĐIỂM , Ý KIẾN KHOA HỌC Ở VIỆT NAM VỀ NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU
ƯỚC QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM KÝ KẾT HOẶC GIA NHẬP NHẰM PHỤC VỤ QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Các quan điểm, ý kiến khoa học ở Việt Nam về nội luật hóa các điều ước quốc tế
qua các tọa đàm, hội thảo, tài liệu, bài viết
Vấn đề nội luật hóa ở Việt Nam từ lâu vẫn dựa trên quan điểm nhị nguyên luận như các
nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy vậy, trong những năm gần đây, vấn đề nội luật hóa hóa
điều ước quốc tế được bàn luận khá nhiều giữa những người làm công tác thực tiễn, các
nhà lập pháp, các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu. Tựu chung lại có ba loại ý kiến như
sau: (i) ý kiến phản đối việc nội luật hóa; (ii) ý kiến cho rằng cần phải nội luật hóa và (iii) ý
kiến dung hòa giữa hai quan điểm này
2. Các quan điểm, ý kiến khoa học ở Việt Nam về nội luật hóa các điều ước quốc tế
qua khảo sát ý kiến chuyên môn
2.1. Nhận xét chung
Cuộc khảo sát được tiến hành trong năm 2005. Địa điểm khảo sát là các tỉnh, thành phố
lớn có các hoạt động kinh tế, thương mại sôi động như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ
Chí Minh. Đối tượng được khảo sát là các chuyên gia pháp luật của Bộ Tư pháp, các Sở
Tư pháp các địa phương, các cán bộ giảng dạy và sinh viên năm cuối của Trường Đại
học Luật Hà Nội và Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà nội
Đề tài đã phát phiếu điều tra cho 132 người có liên quan, trong đó có 18 người là cán bộ
của Bộ Tư pháp, 13 người là giảng viên và sinh viên năm cuối của Trường Đại học Luật
Hà nội và Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà nội và 101 chuyên gia pháp lý của các
Sở Tư pháp địa phương.
Điều đáng chú ý là phần lớn trong những người được phỏng vấn đã có hiểu biết rõ và có
kinh nghiệm thực tế về điều ước quốc tế, đã từng áp dụng điều ước quốc tế vào xử lý vấn
đề phát sinh trong công tác (chiếm tỉ lệ 62,9%)
2.2. Kết quả khảo sát
Đánh giá về vị trí của Điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam, phần lớn ý
kiến của những người được hỏi cho rằng điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập được coi là một bộ phận của pháp luật Việt Nam (chiếm tỷ lệ 72,7%). Còn số lượng
người được hỏi cho rằng vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt nam là
không rõ ràng và không là một bộ phận của pháp luật Việt Nam chỉ chiểm tỉ lệ thiểu số
(chiếm tỉ lệ tương ứng là 19,7% và 6,8%).
Liên quan đến hiệu lực thứ bậc của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật trong
nước, phần lớn các ý kiến đều cho rằng Điều ước quốc tế có vị trí ngang với văn bản luật
của Quốc hội (chiếm tỉ lệ 45,5%) và có vị trí dưới Hiến pháp và trên văn bản luật của
Quốc hội (chiếm tỉ lệ 31,8%).
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, đa số các quan điểm cho rằng trên cần phải thực hiện
nội luật hóa và/hoặc áp dụng trực tiếp không cần nội luật hóa trên các lĩnh vực kinh tế,
thương mại.
Liên quan đến việc chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào pháp luật trong
nước, phần lớn các ý kiến cho rằng cách thức chuyển hóa như thế nào cần phải phụ
thuộc vào điều ước quốc tế và lĩnh vực mà điều ước quốc tế điều chỉnh (chiếm tỉ lệ
41,7%), trong đó phương án thiên về nội luật hóa để thực hiện hơn là áp dụng trực tiếp
không cần nội luật hóa (chiếm tỉ lệ 46,2% so với 9,8%).
PHẦN V: KẾT LUẬN
Báo cáo nghiên cứu này đã cho thấy một bức tranh về lý luận và thực tiễn liên quan tới
thực hiện điều ước quốc tế với trọng tâm là thông qua nội luật hoá các điều ước quốc tế.
Các phân tích và đánh giá trong Báo cáo đã đề cập không chỉ các vấn đề lý luận và thực
tiễn mà Việt Nam gặp phải và cần được xử lý mà còn cung cấp nhiều thông tin tham khảo
có giá trị về thể chế pháp luật và thực tiễn liên quan tới thực hiện điều ước quốc tế thông
qua nội luật hoá tại nhiều nước khác nhau đại diện cho các truyền thống pháp luật khác
nhau.
Về thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế ở các nước, Báo cáo cho thấy có một sự
đa dạng và phong phú của các quốc gia liên quan tới pháp luật và thực tiễn thực hiện
điều ước quốc tế trong pháp luật quốc gia. Trong bối cảnh pháp luật quốc tế không quy
định những mô hình hay cách thức "cứng" cụ thể bắt buộc các quốc gia phải thực hiện
điều ước quốc tế nói chung hay việc phải nội luật hoá điều ước quốc tế, bức tranh đa
dạng và phong phú này là có thể hiểu được vì yếu tố điều kiện đặc thù của thể chế nhà
nước và truyền thống pháp luật của từng quốc gia có tác động lớn. Đồng thời, dường như
là có một xu thế quốc tế phát triển cho thấy tính "thực dụng" của các quốc gia khi họ có
cách tiếp cận mềm dẻo, linh hoạt và dung hoà hơn đối với việc thực hiện các điều ước
quốc tế trong hệ thống phát luật quốc gia - thay vì tuân thủ một cách cứng nhắc một trong
hai thuyết nhất nguyên hay nhị nguyên truyền thống.
Về thể chế pháp luật và thực tiễn thực hiện điều ước quốc tế thông qua nội luật hoá của
Việt Nam, các kết quả nghiên cứu trong Đề tài này cho thấy bức tranh đa dạng. Nói cách
khác, các quy định pháp luật của Việt Nam về nội luật hoá điều ước quốc tế còn dừng ở
mức "khung", dành phần lớn các vấn đề cho thực tiễn thi hành 10. Tập thể tác giả Đề tài
cũng nhận thấy, mặc dù Việt Nam đã ban hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế nhưng cần có hướng dẫn thi hành các quy định của Luật, cần có nhận thức
là đạo luật này không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề. Để nội luật hoá điều ước quốc tế
thì các quy định của pháp luật trong nước liên quan tới xây dựng pháp luật, nhất là Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân, phải thiết kế để việc soạn thảo và thông qua
các văn bản quy phạm pháp luật có tính đến "nội luật hoá" các điều ước quốc tế.
Trên cơ sở các ý kiến của các chuyên gia pháp luật và ý kiến khảo sát thực tế được thu
thập trong quá trình thực hiện đề tài, Ban chủ nhiệm đềt tài
- Thứ nhất, cần nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam liên quan tới điều
ước quốc tế, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để bảo đảm thực hiện có hiệu quả,
mang lại lợi ích cho Việt Nam.
- Thứ hai, nội luật hoá đã, đang và sẽ là giai đoạn quan trọng, tạo môi trường pháp lý cho
việc thực hiện có hiệu quả các điều ước quốc tế kinh tế, thương mại.
- Thứ ba, việc nội luật hoá điều ước quốc tế có mối liên hệ chặt chẽ với việc rà soát pháp
luật phục vụ thực hiện điều ước quốc tế. Việc rà soát pháp luật đó cho phép xác định
được mức độ và phạm vi vấn đề của một điều ước quốc tế phải nội luật hóa.
10
Xem Pháp lệnh Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 và Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005: các quy định liên quan tới sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật để thực
hiện điều ước quốc tế chủ yếu mới dừng ở mức nguyên tắc chung.
- Thứ tư, về mô hình cần chọn áp dụng trong quá trình nội luật hoá các điều ước quốc tế
phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, tập thể tác giả cho rằng Việt Nam nên chọn mô hình
“cách mạng” bên cạnh mô hình “chuyển hóa từ từ” với kỹ thuật lập pháp truyền thống
hoặc đổi mới theo kiểu một văn bản sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản như nhiều nước vẫn
làm.
- Xem thêm -