BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG XUÂN HÒA
PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI - TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ
ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù
hợp với thực tiễn./.
Tác giả luận văn
Hoàng Xuân Hòa
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành cảm ơn PGS. TS Huỳnh
Văn Thới đã chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời
gian thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phân viện Hành chính Tây Nguyên - Học viện
Hành chính quốc gia, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Lắk đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các thành viên trong đại gia đình đã động viên,
ủng hộ, chia sẻ và là chỗ dựa tinh thần giúp tôi tập trung nghiên cứu và hoàn
thành bản luận văn của mình./.
Tác giả luận văn
Hoàng Xuân Hòa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
TRỢ XÃ HỘI................................................................................................... 7
1.1. Tổng quan về bảo trợ xã hội và pháp luật về bảo trợ xã hội ...................... 7
1.2. Khái quát về thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội ................................. 18
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội ....................................... 35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI TỈNH
ĐẮK LẮK ...................................................................................................... 56
2.1. Đặc điểm địa lý - tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk tác động đến
thực hiện pháp luật bảo trợ xã hội ................................................................... 56
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk ................ 59
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI .................................................................... 97
3.1. Phương hướng pháp luật về bảo trợ xã hội .............................................. 97
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk ............ 101
KẾT LUẬN .................................................................................................. 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTXH: Bảo trợ xã hội
LĐTBXH: Lao động Thương binh và Xã hội
NCT: Người cao tuổi
NKT: Người khuyết tật
TEMC: Trẻ em mồ côi
NĐT: Người đơn thân
ASXH: An sinh xã hội
QLNN: Quản lý Nhà nước
UBND: Ủy ban Nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Tổng số đối tượng BTXH hưởng thường xuyên từ năm 2011 - 2015
61
2.2
Tổng hợp đối tượng NCT hưởng BTXH ở tỉnh Đắk Lắk
62
2.3
Tổng số NKT được trợ cấp hàng tháng qua các năm 2011-2015
62
2.4
Tổng số trẻ em được trợ cấp hàng tháng qua các năm 2011-2015
64
2.5
Số người đơn thân được trợ cấp qua các năm 2011-2015
64
2.6
Tổng hợp số liệu cơ sở BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
69
2.7
Số liệu đối tượng tại các cơ sở BTXH ở tỉnh Đắk Lắk
70
2.8
Kinh phí trợ cấp thường xuyên tỉnh Đắk Lắk năm 2011-2015
83
2.9
Tổng hợp hỗ trợ đột xuất của tỉnh Đắk Lắk năm 2011-2015
84
2.10
Tổng hợp cứu đói qua các năm từ năm 2011-2015
84
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một xã hội văn minh, hiện đại sự phát triển của một quốc gia không
chỉ đơn thuần được đánh giá bởi nền kinh tế phát triển, mà còn dựa trên cách
thức mà quốc gia đó quan tâm, chăm lo cho công dân nước mình. Nhà nước
và nhân dân ta hiện đang chăm lo đời sống cho thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sỹ, người và gia đình có công với cách mạng, người về hưu, mất sức
lao động, tai nạn lao động gây ra thương tật, người già cả cô đơn, người tàn
tật vì rủi ro và bẩm sinh không có khả năng tự lao động nuôi sống mình hoàn
toàn, trẻ mồ côi, nhân dân bị khó khăn do thiên tai và dịch họa....số lượng này
chiếm khoảng 10% dân số cả nước, đây là những nhóm xã hội khác những
người bình thường.
Bảo trợ xã hội (BTXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thể
hiện tính nhân văn sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, “lá lành
đùm lá rách” vốn là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Là một bộ phận
của hệ thống chính sách an sinh xã hội, BTXH là sự chăm lo về vật chất, y tế,
giáo dục, đào tạo, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho các đối tượng yếu thế
cụ thể: người già neo đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,
người nhiễm HIV/AIDS, người mắc bệnh tâm thần hoặc người gặp rủi ro do
thiên tai,…nhằm giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập
cộng đồng. Thời gian qua, chính sách BTXH đã và đang phát huy tác dụng là
tấm lưới an toàn cho các đối tượng bảo trợ xã hội, góp phần thực hiện mục
tiêu “Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thúc đẩy tiến bộ xã hội và công bằng
ở mỗi giai đoạn và trong suốt quá trình phát triển” [23].
Đắk Lắk là một tỉnh của khu vực Tây Nguyên, với khoảng trên 47 dân tộc
từ các địa phương cùng đến sinh sống trên địa bàn, đời sống người dân còn
1
gặp nhiều khó khăn, thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai và một số yếu
tố khác đã làm cho nhiều đối tượng bảo trợ xã hội cần được trợ giúp rất lớn.
Với sự nỗ lực thực hiện chăm lo các đối tượng yếu thế, đẩy mạnh hoạt động
thực hiện pháp luật về BTXH trên địa bàn, nên hoạt động bảo trợ xã hội đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ, việc chăm lo cho các đối tượng được
quan tâm thực hiện. Hiện nay, tỉnh đã chăm lo cho 34.972 đối tượng yếu thế
về tài chính, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe miễn phí, dạy nghề và giới
thiệu việc làm… nhờ vậy các đối tượng yếu thế trên địa bàn phần nào giảm
bớt những khó khăn trong cuộc sống, có điều kiện hòa nhập vào xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được công tác thực hiện pháp luật về
BTXH vẫn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục như: lực lượng thực hiện hoạt
động BTXH còn thiếu và yếu; công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực
hiện các văn bản pháp quy về BTXH chưa thật sự chủ động, còn trông chờ
vào hướng dẫn của cấp trên; công tác tuyên truyền phổ biến còn hình thức,
các chính sách chưa thật sự đến với người dân cũng như các đối tượng BTXH
quản lý đối tượng không thống nhất, kỹ thuật, nghiệp vụ quản lý chưa cao nên
thường xảy ra trùng lắp, thực hiện sai đối tượng; hoạt động thanh tra, kiểm tra
còn mang nặng tính hình thức, lỏng lẽo, chỉ khi có dư luận mới tiến hành
kiểm tra…Những hạn chế trong pháp luật về BTXH đã dẫn đến nhiều yếu
kém trong hoạt động như: các đối tượng chưa được chăm lo kịp thời, chính
sách tác động chưa cao đến đời sống cộng đồng của các đối tượng, chưa thể
hiện được tính ưu việc của chính sách. Chính vì lý do đó, vấn đề “Pháp luật
về bảo trợ xã hội - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” được tác giả chọn làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính. Công trình hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc phát triển, hòa nhập
đời sống cộng đồng xã hội và đảm bảo thực hiện các quyền của đối tượng bảo
trợ xã hội.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật là một trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể nói chung và pháp luật
về BTXH đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan
nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học pháp lý. Một số công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài này có thể kể đến là:
- Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam
hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Nguyễn Thị Báo, Học viện Chính trị
- Hành chính Quốc gia.
- Đề tài: Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối
tượng chính sách xã hội khác, Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Thị Liên,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2015.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk” của tác giả Nguyễn Tiến Ngọc, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công năm 2015.
- Đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn
huyện Bình Chánh - TP. Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Thanh,
Luận văn Thạc sĩ Hành chính công năm 2013.
- Đề tài “Đẩy mạnh hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi” của tác giả Trịnh Quang Nghĩa, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế năm 2011.
Các công trình nghiên cứu nói trên đều có những đóng góp nhất định về
mặt lý luận và thực tiễn hoạt động nhân đạo, hoạt động bảo trợ xã hội. Tuy
nhiên BTXH còn khá mới mẽ ở Việt Nam, ít được quan tâm nghiên cứu, cơ
sở lý luận thực sự chưa nhiều, cần phải kế thừa, vận dụng những kết quả
nghiên cứu của các công trình nêu trên. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này tác
giả chỉ tập trung các vấn đề pháp luật về BTXH và thực tiễn thực hiện pháp
luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk, mong tìm ra những nguyên nhân để từ đó đề ra
các phương hướng, giải pháp nhằm góp một phần nhỏ bé để hoàn thiện công
tác này ở địa phương.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, nghiên cứu và đánh giá chính xác thực trạng pháp luật về BTXH và thực
tiễn thực hiện pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk, trên cơ sở đó đưa ra những
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về BTXH, góp phần bảo đảm
thực hiện các quyền của đối tượng BTXH, tạo cơ hội cho đối tượng BTXH bình
đẳng và hòa nhập cộng đồng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu đặt ra, luận văn tập trung hoàn thành những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, hệ thống hóa và khái lược hóa một số nội dung cả về lý luận và
thực tiễn liên quan đến BTXH. Trên cơ sở đó, hình thành lý luận những vấn
đề của pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk, phân tích các hình thức và vai trò
pháp luật về BTXH.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về BTXH và thực tiễn
thực hiện pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk, những kết quả đạt được và hạn
chế, thiếu sót, nguyên nhân từ đó rút ra những kinh nghiệm đúc kết pháp luật
về BTXH tỉnh Đắk Lắk.
Ba là, đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về BTXH tỉnh
Đắk Lắk. Những giải pháp cần được xây dựng mang tính chất tổng thể phù
hợp với hoạt động QLNN cũng như hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về BTXH và thực tiễn thực
hiện pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ tập trung các vấn đề thực tiễn thực hiện
pháp luật về BTXH ở tỉnh Đắk Lắk.
- Về mặt thời gian: từ năm 2011 đến năm 2015.
- Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật
Nhà nước ta về bảo trợ xã hội nhằm đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn
của đề tài.
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập số liệu để phân tích, so
sánh việc thực hiện chế độ chính sách cho đối tượng bảo trợ xã hội qua các
năm. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, tổng kết
thực tiễn để tìm hiểu, đối chiếu tình hình thực tế. Khi thực hiện đề tài này, tác
giả có tham khảo các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu luật, hành
chính, kinh tế học…và một số tài liệu mang tính chất kế thừa của các luận văn
tốt nghiệp, các báo cáo về hoạt động bảo trợ xã hội của Trung ương, tỉnh và
các tổ chức khác để làm tài liệu tham khảo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống pháp luật về bảo trợ
xã hội - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk và có những đóng góp mới sau đây:
- Làm sáng tỏ lý luận những vấn đề của pháp luật về BTXH.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát thực trạng pháp luật về BTXH và thực
tiễn thực hiện pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk. Trong đó, có những đánh giá
mang tính chất chuyên sâu thực hiện pháp luật về BTXH.
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về BTXH và
5
từ đó nâng cao nhận thức cả xã hội, đề xuất việc giải quyết các chế độ chính
sách trợ giúp cho đối tượng BTXH có hiệu quả hơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các khuyến nghị khoa học của luận văn có thể được vận dụng vào thực tế
hoạt động thực hiện pháp luật về BTXH ở tỉnh Đắk Lắk. Ngoài ra, luận văn
còn là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức, cơ sở đào tạo cán bộ làm công tác xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận những vấn đề của pháp luật về bảo trợ xã hội.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo trợ xã hội và thực tiễn thực hiện pháp
luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội.
6
Chương 1
LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI
1.1. Tổng quan về bảo trợ xã hội và pháp luật về bảo trợ xã hội
1.1.1. Bảo trợ xã hội
1.1.1.1. Quan niệm về bảo trợ xã hội
Thuật ngữ “bảo trợ xã hội” còn khá mới mẻ và chỉ xuất hiện gần đây qua
những tài liệu nghiên cứu và các thảo luận chính sách trên thế giới. Phần lớn
các tài liệu này chưa lý giải một cách toàn diện và đầy đủ khái niệm BTXH
mà chỉ phân tích những khía cạnh cơ bản của khái niệm BTXH. Đặc biệt với
các nước đang phát triển thuật ngữ này mới được nhắc đến rộng rãi gần đây.
Khái niệm này vẫn còn khá mơ hồ, chủ yếu là do có nhiều cách định nghĩa và
cách giải thích khác nhau.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) “BTXH là quyền tiếp nhận lợi ích từ
chính phủ của cá nhân, hộ gia đình nhằm bảo vệ họ trước tình trạng mức sống
thấp hay đang bị suy giảm, đặc biệt khi phải hứng chịu những rủi ro, nhờ đó
đáp ứng được các nhu cầu cơ bản” [32]. Tổ chức này muốn nhấn mạnh về
khía cạnh bảo hiểm và mở rộng tạo việc làm cho những đối tượng ở khu vực
kinh tế không chính thức. Định nghĩa này có xu hướng nghiên về mức sống
và quyền con người. Cơ quan này thiên về những giả thuyết gắn với điều kiện
lao động.
Theo Quỹ nhi đồng của Liên hiệp quốc (UNICEF) định nghĩa “BTXH là
một tập hợp các hành động và chính sách nhằm giúp đỡ các cá nhân hay hộ
gia đình giảm bớt tác động của rủi ro hay các cú sốc, đặc biệt là để bảo vệ
quyền của những đối tượng dễ gặp rủi ro, dễ bị tổn thương và nghèo đói kinh
niên nhất”[32]. Cách hiểu này thể hiện hành động che chở, bảo vệ quyền của
những người nghèo đói, dễ bị tổn thương, họ cần được giúp đỡ để giảm bớt
các tác động của rủi ro.
7
Đối với Ngân hàng thế giới (WB) “BTXH là một tập hợp các biện pháp
nhằm cải thiện và bảo vệ vốn con người, bao gồm sự can thiệp vào thị trường
lao động, chương trình bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc. Sự
can thiệp của bảo vệ xã hội giúp các cá nhân, hộ gia đình, hay cộng đồng
quản lý một cách tốt hơn những rủi ro thu nhập khiến những đối tượng này bị
tổn thương” [32]. Định nghĩa này nhấn mạnh sự kiềm chế nguy cơ là cơ sở
của BTXH; BTXH vừa là mạng lưới an toàn, vừa là bàn đạp thông qua sự
phát triển nguồn vốn con người. Tính dễ bị tổn thương được nhìn nhận theo
những nguy cơ liên quan đến sự mất ổn định thu nhập và tiêu dùng.
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) “BTXH là tập hợp các chính sách và
các chương trình được thiết kế để giảm nghèo và sự tổn thương bằng cách
thúc đẩy thị trường lao động hiệu quả, giảm sự phơi nhiễm của người dân
trước các rủi ro, và nâng cao năng lực để họ có thể chống lại các mối nguy
hiểm và sự gián đoạn/mất thu nhập [22]. Định nghĩa này nhấn mạnh tính dễ
tổn thương nếu người dân không có BTXH và tác hại của thiếu BTXH đối với
người khác, tập trung vào khía cạch cải thiện thu nhập; hoàn thiện thể chế thị
trường lao động và nâng cao năng lực của người dân.
Viện nghiên cứu phát triển hải ngoại (ODI) “BTXH là những hành động
công ích, nhằm giảm thiểu tính dễ tổn thương, nguy cơ gây sốc và sự bần
cùng hóa, là những điều không thể chấp nhận được về mặt xã hội [22]. Định
nghĩa này nhấn mạnh tính dễ tổn thương và bần cùng hóa, do vậy BTXH
hướng vào người nghèo hoặc những người khó khăn nhất thuộc tầng lớp
không ai mong muốn nhất trong xã hội.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này cũng mới chỉ được dùng trong những năm gần
đây, đất nước ta vừa thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với thế giới.
Viện nghiên cứu phát triển xã hội định nghĩa BTXH là (i) sự hỗ trợ trực tiếp
8
cho các hộ gia đình nghèo và dễ tổn thương, (ii) bảo hiểm xã hội và (iii) các
hoạt động khác nhằm giảm tính dễ bị tổn thương gây ra bởi những nguy cơ
như thất nghiệp tuổi già và khuyết tật. Định nghĩa trên chú trọng vào các cá
nhân, nhóm người nghèo và bị đẩy ra ngoài lề của xã hội, ủng hộ sự định
hướng như một hình thức BTXH thích hợp và không bao gồm những nhóm
khá giả trong dân chúng; Định nghĩa này cần thiết cho việc đẩy mạnh hỗ trợ
xã hội cho các cải cách kinh tế hiện nay, mục tiêu hướng đến là đảm bảo cuộc
sống công bằng trong xã hội đối với mọi đối tượng BTXH.
Theo nghĩa hẹp, BTXH là một chính sách xã hội của nhà nước nhằm cung
cấp tài chính cho cuộc sống và sinh hoạt của những người hưu trí, mất sức lao
động, ốm đau, những người không có khả năng lao động, thất nghiệp, cơ nhỡ
và những người hoặc hộ gia đình có công đặc biệt đối với đất nước. BTXH
bao gồm bảo hiểm xã hội (hưu trí, mất sức, tai nạn lao động, thất nghiệp), trợ
cấp xã hội (thương binh, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với
cách mạng) và cứu trợ xã hội (cơ nhỡ, thiên tai, tệ nạn xã hội) trong đó bảo
hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất; Khái niệm trên chỉ nêu khía cạnh
cung cấp tài chính cho một số đối tượng, nó thiên về bảo hiểm xã hội, đóng
góp để được hưởng trợ cấp lúc khó khăn.
Nói chung, trong tất cả các định nghĩa về BTXH, cho dù theo định nghĩa
nào thì trong đó cũng thể hiện tính dễ bị tổn thương và bần cùng hóa. Tuy
nhiên tính dễ bị tổn thương lại được diễn đạt theo nhiều cách khác nhau.
Xét về một khía cạnh nào đó, BTXH tương đồng với trợ giúp xã hội hay
cứu trợ xã hội, là một bộ phận của an sinh xã hội; Một số tài liệu nghiên cứu
cũng cho rằng các thuật ngữ này tương tự nhau. Ở Việt Nam, trước đây một
số văn bản pháp luật, nghiên cứu thường sử dụng thuật ngữ “cứu trợ xã hội”,
nhưng những năm gần đây thay đổi sang thuật ngữ “bảo trợ xã hội”. Nhưng
thực chất, nếu hiểu theo cách đơn giản BTXH được ghép từ bảo hiểm xã hội
9
và trợ giúp xã hội. Song, do đề tài chỉ giới hạn ở những người yếu thế thuộc
đối tượng trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP; Nghị định 13/2010/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 27/02/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối
tượng BTXH và Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính
phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội và
các văn bản pháp luật có liên quan nên luận văn chỉ đề cập đến vấn đề trợ
giúp mà không có bảo hiểm xã hội. Đề tài nghiên cứu này sẽ nhìn ở một góc
độ tương đối hẹp là BTXH đồng nghĩa với cứu trợ xã hội, hay trợ giúp xã hội.
Qua nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm về BTXH như sau: BTXH là hệ
thống các chính sách, chế độ, những hành động chủ yếu của Nhà nước và
cộng đồng xã hội bằng các hình thức khác nhau nhằm giúp các đối tượng yếu
thế giảm nhẹ và kiềm chế nguy cơ dễ bị tổn thương, bần cùng hóa, hòa nhập
với cộng đồng, có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội, thúc đẩy công bằng
và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
1.1.1.2. Đặc điểm bảo trợ xã hội
Từ những quan niệm về BTXH có thể rút ra một số đặc điểm sau:
- Về đối tượng: Tham gia vào quan hệ BTXH bao gồm nhà nước, các đối
tượng bảo trợ và các chủ thể khác như tổ chức, cá nhân khác trong hoạt động
chung mang tính nhân đạo này. Trong đó:
+ Thứ nhất, đối tượng bảo trợ là mọi người dân trong xã hội không phân
biệt vị thế và thành phần xã hội khi gặp phải khó khăn, thiếu thốn, lâm nạn,
cơ nhỡ,…hoặc vì nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến cuộc sống thường
ngày hoặc lâu dài của họ bị đe dọa. Dưới góc độ kinh tế thì đó là những thành
viên có mức sống thấp hơn mức tối thiểu của xã hội hoặc gặp khó khăn, rủi ro
cần có sự nâng đỡ về vật chất. Dưới góc độ xã hội thì họ thuộc nhóm người
“yếu thế” trong xã hội, với những nguyên nhân khác nhau mà rơi vào vị thế
10
bất lợi, thiệt thòi, có ít cơ may trong cuộc sống như người bình thường và
không có khả năng tự lo liệu, đảm bảo cho cuộc sống của gia đình và bản
thân. Ngoài ra dưới góc độ nhân đạo, đó có thể là những đối tượng nghiện
hút, lang thang, xin ăn…
+ Thứ hai, nhà nước với tư cách là một chủ thể trong quan hệ BTXH, đã
xác định được nghĩa vụ của mình và mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan, tổ
chức, cá nhân,…trong hoạt động BTXH. Hoạt động BTXH, ngoài trách
nhiệm của Bộ LĐTBXH còn là trách nhiệm của các bộ, ban ngành khác như
Bộ y tế, Bộ giáo dục,… và toàn thể các thành viên xã hội.
- Về nội dung: Chế độ BTXH được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Nếu căn cứ vào phạm vi đối tượng sẽ có chế độ bảo trợ đối với từng nhóm cụ
thể như người già cô đơn không nơi nương tựa, người tàn tật, trẻ em mồ
côi,…Nếu căn cứ vào tính ổn định hay nhất thời của trợ cấp thì sẽ có chế độ
trợ cấp thường xuyên và chế độ trợ cấp đột xuất. Trong đó, chế độ trợ cấp
thường xuyên có tính ổn định, lâu dài hơn, còn chế độ trợ cấp đột xuất thì có
tính chất nhất thời, được thực hiện một lần với các hình thức đa dạng và linh
hoạt. Còn nếu căn cứ vào hình thức của chế độ bảo trợ sẽ có BTXH về vật
chất với các khoản tiền trợ cấp, phương tiện sinh sống,…và BTXH về tinh
thần bằng các hoạt động tư vấn sức khỏe, tâm lý, giáo dục,…
Theo quy định của pháp luật hiện hành, chế độ BTXH bao gồm hai nội
dung chính là chế độ bảo trợ thường xuyên và chế độ bảo trợ đột xuất. Việc
phân loại này chỉ có ý nghĩa đưa ra mức hưởng và hình thức bảo trợ cho phù
hợp với từng nhóm đối tượng.
- Về mục đích của BTXH không nhằm bù đắp thu nhập thường xuyên bị
giảm hoặc mất hay đảm bảo ổn định đời sống, suy tôn công trạng, đền ơn đáp
nghĩa những người có công,…mà chỉ hỗ trợ, giúp đỡ cho những người lâm
vào tình trạng thực sự khó khăn, túng quẫn, cần có sự giúp đỡ về vật chất mới
11
có thể vượt qua được hoàn cảnh hiện tại. Do đó, mức hưởng thường là thấp và
linh hoạt, phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính của Nhà nước, khả năng
huy động nguồn lực và tình trạng thực tế của đối tượng…Ngoài hai chế độ
bảo trợ thường xuyên và đột xuất, ở phạm vi rộng, hoạt động BTXH còn được
thực hiện với các chương trình xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe toàn
dân, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những người lầm lỡ
mắc tệ nạn xã hội,…
1.1.1.3. Vai trò bảo trợ xã hội
Mục tiêu hướng tới của mỗi quốc gia trên thế giới đều là đạt được sự tiến
bộ xã hội. Nghĩa là vừa phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm phát
triển xã hội. Thước đo của sự phát triển xã hội là việc giải quyết các vấn đề xã
hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Trong đó, có chăm sóc cho dân
cư khó khăn, giải quyết các vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. BTXH là một
trong những công cụ quản lý của Nhà nước và có vai trò chính sau [24]:
Thứ nhất, BTXH thực hiện chức năng bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) của
Nhà nước: Thông qua luật pháp, chính sách, các chương trình BTXH, Nhà
nước can thiệp và tác động giữ ổn định xã hội, ổn định chính trị, phân hóa
giàu nghèo và giảm phân tầng xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội giữa các nhóm
xã hội trong quá trình phát triển. Kinh tế thị trường càng phát triển thì xu
hướng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng càng gia tăng.
Để tạo ra sự phát triển bền vững, đòi hỏi Nhà nước càng phải phát triển mạnh
mẽ BTXH để điều hòa các mâu thuẫn xã hội phát sinh trong quá trình phát
triển. BTXH sẽ giúp cho việc điều tiết, hạn chế nguyên nhân nẩy sinh mâu
thuẫn xã hội, bất ổn của xã hội.
Thứ hai, BTXH thực hiện chức năng tái phân phối lại của cải xã hội, với
chức năng này BTXH sẽ điều tiết phân phối thu nhập, cân đối, điều chỉnh
nguồn lực để tăng cường cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên
12
sự phát triển hài hòa giữa các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng;
giữa các nhóm dân cư.
Thứ ba, BTXH có vai trò phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu và khắc phục rủi ro
và giải quyết một số vấn đề xã hội nẩy sinh, BTXH trực tiếp giải quyết những
vấn đề liên quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dễ bị tổn thương và khắc
phục hậu quả của rủi ro thông qua các chính sách và chương trình cụ thể
nhằm giúp cho các thành viên xã hội ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng
đồng, bảo đảm mức sống tối thiểu cho dân cư khó khăn.
Đồng thời, trong thế giới hiện đại do khai thác tài nguyên quá mức để phát
triển kinh tế, chiến tranh, bệnh dịch, tác động khách quan của các quy luật
kinh tế, ảnh hưởng chủ quan trong quá trình quyết định của các chủ thể quản
lý…đã dẫn đến nẩy sinh các vấn đề xã hội và gia tăng người nghèo, NTT,
TEMC, NCT cô đơn…Bộ phận dân cư này thường chịu nguy cơ tổn thương
cao, không tự chủ quyết định cuộc sống và phụ thuộc vào sự hỗ trợ của xã
hội, Nhà nước. Các chính sách trợ cấp xã hội, cấp thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ
giáo dục… đối với người tàn tật, người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người nghèo,
dân tộc thiểu số sẽ giúp cho bộ phận dân cư giảm bớt khó khăn, ổn định an
ninh trật tự xã hội.
Trong bối cảnh hội phập quốc tế, bên cạch “cơ hội” cũng có nhiều “thách
thức”, “rủi ro”, khi nói đến cơ hội, đến sự thuận lợi mang lại từ hội nhập quốc
tế thường là cơ hội cho phát triển kinh tế, ngược lại sự thách thức, rủi ro lại là
vấn đề xã hội như bất bình đẳng gia tăng, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã
hội, nghèo đói, bần cùng hóa và ô nhiễm môi trường. Do vậy, kinh tế thị
trường càng phát triển mạnh thì vai trò của BTXH càng lớn, có như vậy mới
bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong từng
bước đi và giai đoạn phát triển của đất nước. BTXH tốt sẽ góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; vì ngay cả các nhà đầu tư không chỉ
13
- Xem thêm -