Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thươ...

Tài liệu Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại việt namo

.PDF
204
184
76

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN XUÂN BANG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 62.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN VÂN 2. PGS.TS. BÙI XUÂN HẢI TP.HỒ CHÍ MINH, năm 2017 LỜI CẢM ƠN Với sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS.TS. Nguyễn Văn Vân và PGS.TS. Bùi Xuân Hải đã luôn tận tâm động viên, hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình đăng ký, thực hiện và hoàn thành Luận án này. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Ban Giám hiệu Trường Đại học Đà Lạt, Ban Chủ nhiệm Khoa Luật Thương Mại, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Thư viện Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Thư viện Quốc gia, Thư viện Tổng hợp TP Hồ Chí Minh và quý thầy cô đã tận tình động viên, giúp đỡ, hỗ trợ tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu của mình. Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, những người đã quan tâm, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Trân trọng cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của chính tác giả. Các số liệu, phân tích, lập luận và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. TP Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2017 Người cam đoan Nguyễn Xuân Bang DANH MỤC CÁC TỪ, NGỮ VIẾT TẮT TỪ, NGỮ NGUYÊN NGHĨA VIẾT TẮT Bộ luật dân sự BLDS Bộ luật hình sự BLHS Hệ thống kiểm soát nội bộ HTKSNB Hoạt động cấp tín dụng HĐCTD Hoạt động ngân hàng HĐNH Hội đồng quản trị HĐQT Kiểm toán nội bộ KTNB Ngân hàng NH Ngân hàng Nhà nước NHNN Ngân hàng thế giới (World Bank) WB Ngân hàng thương mại NHTM Nhà xuất bản NXB Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) IMF Thông tin tín dụng TTTD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (Organization OECD for Economic Co-operation and Development) Tổ chức tín dụng TCTD MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do lựa chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................ 3 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................. 3 5. Những điểm mới của luận án ................................................................................... 4 6. Kết cấu của luận án .................................................................................................. 5 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................................... 6 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ....................................................................... 6 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ....................................................... 10 1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng tiếp cận ở góc độ phòng ngừa rủi ro ...................................... 13 1.4. Tình hình nghiên cứu liên quan đến các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng tiếp cận ở góc độ xử lý rủi ro .................................................. 18 1.5. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu.......................................................... 21 Kết luận Chương 1 ...................................................................................................... 29 CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................................................................................................................ 30 2.1. Sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại.......................................................................................................... 30 2.1.1. Hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại và những rủi ro của nó............................................................................................................................... 30 2.1.2. Khái niệm, các tiêu chí đánh giá và nội dung của bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ................................. 46 2.2. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ............................................................ 56 2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại .................................................. 56 2.2.2. Vai trò của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại................................................................................. 58 2.3. Nội dung chủ yếu của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ............................................................ 60 2.3.1. Pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ....................................................................................................... 61 2.3.2. Pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ................................................................................................................ 67 2.4. Yêu cầu đối với việc điều chỉnh bằng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ................................ 72 2.4.1. Phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo hoạt động ngân hàng phát triển hiệu quả, bền vững .......................................................................... 73 2.4.2. Bảo đảm phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại .............................................................................................. 74 2.4.3. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của ngân hàng thương mại ....................... 75 2.4.4. Bảo đảm sự điều tiết hợp lý của nhà nước đối với ngân hàng thương mại ............................................................................................................................ 76 Kết luận Chương 2 ...................................................................................................... 77 CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.............................................................................................................. 79 3.1. Thực trạng pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 79 3.1.1. Những ưu điểm chủ yếu của pháp luật và thực hiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại .................... 79 3.1.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực hiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại .................... 89 3.2. Thực trạng pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................................ 115 3.2.1. Những ưu điểm chủ yếu của pháp luật và thực hiện pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ............................. 115 3.2.2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực hiện pháp luật về xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ............................. 121 3.3. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................ 126 3.3.1. Về mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại .................................................. 127 3.3.2. Về sự thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại .......................................... 131 Kết luận Chương 3 ...................................................................................................... 134 CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CẤP TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ....................................................................................................................... 136 4.1. Định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam ............................... 136 4.1.1. Phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam ........................................................................................................................... 136 4.1.2. Khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại.................... 139 4.1.3. Tiếp thu những kinh nghiệm, chuẩn mực và thông lệ quốc tế về bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng ................................................................................... 141 4.1.4. Dựa trên những lý thuyết về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại........................................................................ 142 4.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................ 147 4.2.1. Quy định nghĩa vụ của ngân hàng thương mại về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng ............................................................................................. 147 4.2.2. Giám sát chặt chẽ trạng thái an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại .............................................................................................. 149 4.2.3. Quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ................................. 151 4.2.4. Các giải pháp khác ......................................................................................... 151 4.3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam....................................................................................................................... 152 4.3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................................................................................... 152 4.3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về xử lý rủi ro nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam ................................................................................................ 160 Kết luận Chương 4 ...................................................................................................... 164 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 166 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Phụ lục 1. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mức độ rủi ro ngân hàng Phụ lục 2. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Phụ lục 3. Các nguyên tắc thanh tra giám sát hiệu quả theo Basel Phụ lục 4. Số liệu về thực trạng tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam theo FSIs Phụ lục 5. Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Phụ lục 6. Các công ty mua bán nợ và quản lý tài sản ở Việt Nam NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Cấp tín dụng là hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại (NHTM), là một kênh quan trọng đáp ứng các nguồn lực tài chính cho nền kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Về bản chất, cấp tín dụng là hoạt động kinh tế, do vậy nó cũng chịu sự tác động và điều tiết bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh đặc biệt, liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể, chứa đựng sự rủi ro, dễ tác động dây chuyền đến các hoạt động kinh tế khác. Chính vì vậy, bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng (HĐCTD) của các NHTM Việt Nam là nhu cầu rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay. Cho đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và HĐCTD nói riêng đã được quan tâm xây dựng và thực hiện, bởi lẽ một hệ thống tài chính - ngân hàng mạnh, ổn định, có sức “đề kháng” tốt luôn đóng vai trò cốt lõi và quyết định đến sự sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế tại bất kỳ quốc gia nào. Ngược lại, một hệ thống ngân hàng (HTNH) tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương trước các biến động của nền kinh tế xã hội; HĐCTD không hiệu quả, chất lượng tín dụng thấp, nợ xấu cao, năng lực tài chính của các NHTM yếu… là mầm mống cho sự bất ổn của nền kinh tế quốc gia. Có thể nhận thấy những văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc bảo đảm an toàn trong HĐCTD như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và những văn bản khác có liên quan đã tạo lập hành lang pháp lý cơ bản nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Tuy vậy các quy định của pháp luật còn chưa toàn diện, thống nhất và phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng (HĐNH) trong điều kiện mới. Bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM còn nhiều hạn chế, vướng mắc như công tác thanh tra giám sát ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an toàn HĐNH, công tác xét xử tại toà án chưa thực sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các NHTM, hiện tượng sở hữu chéo, lũng đoạn ngân hàng diễn ra tại một số NHTM đã ảnh hưởng xấu đến an toàn trong HĐCTD. Cùng với đó, hệ thống lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở Việt Nam còn non yếu, thiếu hệ thống, cơ sở kinh tế và pháp lý chưa thuyết phục, đồng thời thiếu những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Do đó việc nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM là nhiệm vụ rất cần thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm 2 an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam” làm luận án tiến sĩ Luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận án “Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam” có mục đích trước hết là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật này, trên cơ sở đó đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM tại Việt Nam. Để thực hiện được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là: Thứ nhất, phân tích, đánh giá có hệ thống những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, trên cơ sở đó tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã đạt được, đồng thời tiếp tục nghiên cứu phát triển những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; Thứ hai, làm sáng tỏ sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua việc phân tích rõ bản chất HĐCTD của các NHTM và những rủi ro của nó; khái niệm, tiêu chí đánh giá và nội dung của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Từ đó, làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, nội dung cũng như yêu cầu của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM Việt Nam nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM Việt Nam; Thứ tư, xác định những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật và đề xuất những giải pháp, kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống lý thuyết liên quan đến bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; những quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM là vấn đề có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi của luận án, tác giả tập trung nghiên 3 cứu khía cạnh pháp lý của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Ở góc độ cụ thể, phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm: Thứ nhất, về không gian, tác giả nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM ở Việt Nam. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đề cập đến kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm an toàn HĐNH, đặc biệt là khuyến nghị của Uỷ ban Basel về an toàn trong HĐCTD; Thứ hai, về thời gian, tác giả chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật đang có hiệu lực về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM trên cơ sở Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và các văn bản có liên quan. Thứ ba, về lĩnh vực nghiên cứu, tác giả nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam mà không nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong các hoạt động khác của NHTM (như huy động vốn, thanh toán, tham gia thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường chứng khoán…); Đồng thời, tác giả nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam thông qua hai nội dung: pháp luật về phòng ngừa rủi ro (quy định về những trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, giới hạn tín dụng; thẩm định hồ sơ tín dụng và kiểm tra sử dụng vốn; các biện pháp bảo đảm tín dụng; thông tin tín dụng; công tác thanh tra, giám sát của NHNN, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ); pháp luật về xử lý rủi ro trong HĐCTD của các NHTM (quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ; chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ; mua bán nợ, sử dụng dự phòng rủi ro và một số quy định khác có liên quan). Thứ tư, tác giả đề tài luận án chỉ nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam mà không nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các tổ chức tín dụng (TCTD) khác như TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về khoa học: Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích sự tất yếu phải bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; khái niệm, vai trò, nội dung , yêu cầu cũng như phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM sẽ đóng góp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về đảm bảo an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam nói riêng và pháp luật ngân hàng Việt Nam nói chung. 4 Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cho các nhà làm luật tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật về HTNH ở Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn để các nhà quản lý tham khảo các cách thức tổ chức, quản lý HĐNH, HTNH ở Việt Nam; Đóng góp các ý kiến để các ngân hàng, các chủ thể có liên quan nâng cao hơn nữa vấn đề an toàn trong HĐNH, tăng cường hiệu quả hoạt động của mình. 5. Những điểm mới của luận án Tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, đề tài đã nghiên cứu, phân tích và có một số điểm mới cơ bản như sau: Về lý luận: khác với những công trình nghiên cứu có liên quan ở trong và ngoài nước, đề tài tiếp cận và phân tích cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại dựa trên cơ cấu và trình tự phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đó là cơ sở quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật, đề xuất định hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Về thực tiễn: đề tài đã làm nổi bật hai vấn đề cơ bản của thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại là: (i) Pháp luật thực định về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại tuy đã có những ưu điểm nhất định, song các quy định đó còn chưa toàn diện, thống nhất và phù hợp với yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. (ii) Trên cơ sở phân tích các vụ án điển hình trong lĩnh vực ngân hàng như vụ án Nguyễn Đức Kiên, vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, vụ án tại Công ty thủy sản Phương Nam, vụ án tại Ngân hàng Xây dựng (VNCB)..., đề tài đã làm sáng tỏ việc thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại còn chưa nghiêm: nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ lãnh đạo và nhân viên ngân hàng cũng như khách hàng vay vốn trong việc nâng khống giá trị tài sản bảo đảm tín dụng, không thẩm định hồ sơ tín dụng, thực hiện sai nghĩa vụ kiểm tra sử dụng vốn vay...gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng cho các ngân hàng. Hệ quả tất yếu là hệ thống ngân hàng phải hứng chịu gánh nặng nợ xấu hàng trăm nghìn tỷ đồng... Từ đó cho thấy, thực trạng pháp luật vẫn chưa thực sự bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Về giải pháp: từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên và dựa vào các lý thuyết nghiên cứu chính là lý thuyết về sự can thiệp của Nhà nước trong đời sống kinh tế xã hội, lý thuyết về hiệu quả của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng như cách tiếp cận kinh tế học pháp luật, đề tài đã phân tích định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM 5 bao gồm: phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; tiếp thu những kinh nghiệm, chuẩn mực và thông lệ quốc tế về bảo đảm an toàn HĐNH. Đặc biệt, định hướng cốt lõi là cần bảo đảm hài hòa hóa lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng; bảo đảm sự phù hợp và bền vững trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM; chấm dứt sự lũng đoạn ngân hàng cũng như kiểm soát tốt HĐNH. Từ đó, đề tài phân tích ba giải pháp chủ yếu là quy định nghĩa vụ của NHTM về bảo đảm an toàn trong HĐCTD; giám sát chặt chẽ trạng thái an toàn trong HĐCTD của NHTM và quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Trên cơ sở đó, đề tài kiến nghị sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành tập trung vào Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng như kiến nghị bảo đảm cơ chế thực hiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. 6. Kết cấu của luận án Ngoài lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 04 chương như sau: Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu; Chương 2. Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại; Chương 3. Thực trạng pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam; Chương 4. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 6 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM là vấn đề rộng và phức tạp, hiện nay còn có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Với mục đích và trong phạm vi của đề tài luận án, bảo đảm an toàn trong HĐCTD là hoạt động của những chủ thể nhất định nhằm giữ (hay duy trì) được sự an toàn, bảo vệ cho HĐCTD không bị những thiệt hại do các tác nhân bên trong và bên ngoài NH tác động vào, đồng thời duy trì được một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM thông qua hai nội dung chủ yếu là phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro. Từ đó trước hết tác giả khảo sát các công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, tiếp đến là khảo sát các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM, sau đó khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng tiếp cận ở góc độ phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro. 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại Bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM thu hút sự quan tâm không chỉ của các cơ quan quản lý nhà nước, của các ngân hàng (NH), mà còn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trước hết, một số tác giả cố gắng giải mã thuật ngữ “an toàn” trong HĐNH trong mối liên hệ với an ninh tài chính nói chung. Cụ thể, tiến sĩ Vũ Đình Ánh, trong bài viết “An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng”1, cho rằng an ninh tài chính là khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh. “An toàn” được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm từ phía các tác động bên trong và bên ngoài. Cách tiếp cận khác, tiến sĩ Lê Thị Thuỳ Vân trong bài viết “Bảo đảm an toàn tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2012-2013 và thách thức chính sách trong những năm tiếp theo”2 cho rằng “an toàn” được hiểu là việc duy trì được sự ổn định (tiếng Anh: stability) và lành mạnh (tiếng Anh: soundness) trên cơ sở đó sẽ giảm thiểu và hạn chế được rủi ro. Khác với các quan điểm trên, tác giả Nguyễn Văn Hưng, trong luận án tiến sĩ Kinh tế: “Giải pháp hoàn thiện quy chế bảo đảm an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam”3, rút ra quan niệm về an toàn trong hoạt động cho vay là việc NH thu hồi được đầy đủ và đúng hạn số tiền đã cho vay (cả gốc và lãi). Cùng với đó, an toàn 1 Vũ Đình Ánh, “An ninh tài chính trong hoạt động ngân hàng”, Tạp chí Tài chính tháng 9 năm 2001. Lê Thị Thuỳ Vân, “Bảo đảm an toàn tài chính trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2012-2013 và thách thức chính sách trong những năm tiếp theo”, Tạp chí Ngân hàng, số 1,2 tháng 01 năm 2014. 3 Nguyễn Văn Hưng (2003), Giải pháp hoàn thiện quy chế bảo đảm an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, luận án tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. 2 7 trong cho vay còn bao hàm cả việc bảo đảm cho sự phát triển ổn định của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Như vậy, hai tác giả Nguyễn Văn Hưng và Lê Thị Thuỳ Vân đều khẳng định khía cạnh quan trọng của an toàn là sự ổn định. Tuy nhiên tác giả Nguyễn Văn Hưng có đề cập trực tiếp đến an toàn trong cho vay thông qua việc NH thu hồi được số tiền gốc và lãi cho vay. Theo quan điểm của tác giả luận án, “an ninh” và “an toàn” là những thuật ngữ có liên quan mật thiết với nhau, nhiều lúc có thể được sử dụng tương đồng với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau, bởi lẽ cả hai thuật ngữ trên đều chỉ một “trạng thái” của một chủ thể (hay một hoạt động) nhất định mà không bị nguy hiểm từ các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động vào. Tuy nhiên thuật ngữ an ninh (tiếng Anh là security) khác với an toàn (tiếng Anh là safety) ở chỗ nó chỉ những mức độ chống lại hoặc bảo vệ từ các tác nhân nguy hại và được sử dụng khá rộng trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, trong khi đó an toàn lại được hiểu ở góc độ được bảo vệ trước những nguy hiểm trong phạm vi rủi ro có thể chấp nhận được. Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Hưng đã phân tích rất cụ thể về tiêu chí an toàn trong cho vay thông qua việc NH thu hồi gốc và lãi cho vay. Song đây lại là cách tiếp cận khá hẹp về an toàn, vì nếu NH chỉ thu hồi gốc và lãi số tiền đã cho vay thì đó mới chỉ là mục tiêu phòng tránh được rủi ro tín dụng vốn dĩ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn gốc và lãi cấp tín dụng. Trong khi đó rủi ro trong HĐCTD bao hàm cả rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro vận hành và các rủi ro khác. Chính vì vậy, vẫn cần phải có một cách tiếp cận khoa học hơn về an toàn trong HĐCTD của NHTM. Bên cạnh những công trình nêu trên, một số nhà khoa học nghiên cứu bản chất của bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Tác giả Phạm Thanh Chung, trong luận văn thạc sĩ “Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”4, cho rằng: bảo đảm an toàn trong HĐCTD là việc các TCTD thực hiện các biện pháp nhất định theo quy định của pháp luật và yêu cầu của hoạt động tín dụng sao cho bảo đảm cho HĐCTD an toàn và hiệu quả. Khác với cách tiếp cận nêu trên, trong luận văn thạc sĩ “Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện”5, tác giả Tạ Chương Lâm không nêu định nghĩa về bảo đảm an toàn trong HĐNH, mà tiếp cận bảo đảm an toàn dưới góc độ quản trị rủi ro trong HĐNH. Một cách tiếp cận khác đáng chú ý về bảo đảm an toàn trong HĐNH là nghiên cứu của tác giả Lê Văn Luyện trong luận án tiến sĩ Kinh tế: “Những giải pháp đảm bảo an 4 Phạm Thanh Chung (2005), Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 5 Tạ Chương Lâm (2009), Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng thương mại tại Việt Nam – thực trạng và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. 8 toàn cho hoạt động ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế”6. Theo tác giả Lê Văn Luyện, đảm bảo an toàn cho HĐNH trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế là việc đảm bảo các điều kiện cần thiết và trợ giúp cho HTNH nâng cao sức cạnh tranh, duy trì được sự phát triển bền vững, hiệu quả trong quá trình hội nhập quốc tế. Cách tiếp cận này phân tích bảo đảm an toàn trong HĐNH gắn với yêu cầu của quá trình hội nhập NH, thông qua đó nhấn mạnh các yếu tố cạnh tranh, phát triển bền vững và hiệu quả trong HĐNH. Tác giả Kim Thị Huyền, trong luận văn thạc sĩ Luật học “Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng gắn với quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng,7 cho rằng bảo đảm an toàn trong HĐNH là những quy phạm pháp luật mà Nhà nước đặt ra nhằm quản lý, xác lập và tăng cường sự an toàn, hiệu quả trong các hoạt động huy động vốn, cấp tín dụng, kinh doanh ngoại tệ và cung cấp các dịch vụ thanh toán của các TCTD. Theo tác giả luận án, nếu coi an toàn trong HĐCTD là trạng thái không bị nguy hiểm từ các tác nhân bên trong và bên ngoài theo một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được, thì bảo đảm an toàn trong HĐCTD là hoạt động của những chủ thể nhất định nhằm giữ (hay duy trì) được sự an toàn, bảo vệ cho HĐCTD không bị những thiệt hại do các tác nhân bên trong và bên ngoài NH tác động vào, đồng thời duy trì được một mức độ rủi ro có thể chấp nhận được. Một vấn đề được đặt ra là những chủ thể nào có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD? Tác giả Phạm Thanh Chung khẳng định chỉ NHTM là có trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Ngược lại, tác giả Nguyễn Văn Hưng (trong luận án mà đã được đề cập ở phần trên) cho rằng trách nhiệm bảo đảm an toàn trong HĐNH không chỉ thuộc về từng NH, mà còn là trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ và Ngân hàng trung ương. Đây là một vấn đề khá quan trọng nên cần được làm sáng tỏ dưới góc độ lý luận. Đồng thời, không thể coi bảo đảm an toàn trong HĐCTD chỉ là việc quản trị rủi ro như tác giả Tạ Chương Lâm phân tích, bởi lẽ quản trị rủi ro là hoạt động cụ thể của NH nhằm nhận diện, đo lường, kiểm soát và hạn chế rủi ro – vốn dĩ hẹp hơn so với khái niệm bảo đảm an toàn trong HĐCTD. Không những vậy, vấn đề cạnh tranh, phát triển bền vững và hiệu quả HĐNH luôn gắn liền với an toàn trong HĐCTD của NHTM, song nếu tiếp cận sự an toàn trong HĐCTD dưới các góc độ nêu trên của tác giả Lê Văn Luyện thì sẽ cần được tiếp tục nghiên cứu rõ hơn. Quan điểm về an toàn trong HĐNH của tác giả Kim Thị Huyền cũng cần được làm rõ thêm, vì không thể đồng nhất bảo đảm 6 Lê Văn Luyện (2003), Những giải pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập với hệ thống tài chính, tiền tệ quốc tế, luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng. 7 Kim Thị Huyền (2008), Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng gắn với quyền tự do kinh doanh của các tổ chức tín dụng, luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 9 an toàn HĐNH là những quy định pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu vấn đề bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM một cách khoa học, chính xác hơn. Một vấn đề cũng cần được làm sáng tỏ là đề tài luận án tiến sĩ mà tác giả đang nghiên cứu có điểm khác như thế nào so với hai luận văn thạc sĩ Luật của tác giả Phạm Thanh Chung và tác giả Tạ Chương Lâm như vừa được đề cập ở trên? Tuy tên đề tài có những nét tương đồng nhất định liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH, nhưng sự khác biệt trước hết về đối tượng được nghiên cứu: tác giả Phạm Thanh Chung xác định đối tượng nghiên cứu là pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các tổ chức tín dụng bao gồm các NH, tổ chức tín dụng phi NH và các loại hình TCTD khác; tác giả Tạ Chương Lâm xác định đối tượng nghiên cứu là pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH của các NHTM. HĐNH bao gồm ba hoạt động cơ bản nhất là huy động vốn, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Như vậy đối tượng nghiên cứu trong hai luận văn của các tác giả trên là rộng hơn so với đề tài luận án tác giả nghiên cứu. Vì vậy, tác giả đề tài luận án có cơ hội nghiên cứu sâu hơn về pháp luật bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Bên cạnh đó, nghiên cứu của hai tác giả nêu trên từ khá lâu (tác giả Phạm Thanh Chung bảo vệ năm 2005 và tác giả Tạ Chương Lâm bảo vệ năm 2009) trong bối cảnh Luật Ngân hàng nhà nước năm 1997 và Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 đang có hiệu lực. Nhưng đến nay, hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi so với thời điểm trước với sự ra đời của Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 và hàng loạt các văn bản mới có hiệu lực thì cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH có nhiều thay đổi so với trước. Vì vậy đề tài luận án mà tác giả nghiên cứu có nhiều điểm mới hơn so với các đề tài tương tự trước đó. Tóm lại, có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến khía cạnh bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Nội dung các nghiên cứu nêu trên tập trung vào các vấn đề như: quan niệm về an toàn trong HĐNH cũng như bảo đảm an toàn trong HĐNH. Tuy vậy, những quan niệm về an toàn và bảo đảm an toàn trong HĐNH cần tiếp tục phải nghiên cứu chi tiết hơn; một số công trình tiếp cận bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở các khía cạnh cụ thể như hội nhập quốc tế, an toàn và an ninh tài chính; một số công trình phân tích các khía cạnh bảo đảm an toàn trong HĐNH từ khá lâu, không bảo đảm tính cập nhật... Mặc dù vậy, các nghiên cứu nêu trên là những tài liệu quý báu cho tác giả luận án trong việc tiếp thu, chọn lọc và phát triển nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam. 10 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại Các nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu đến cơ sở lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM cũng như nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về pháp luật bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM. Cụ thể, tác giả Nguyễn Ngọc Lương, trong luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”8, đã làm sáng tỏ những vấn đề chung về cấp tín dụng và pháp luật về HĐCTD của NHTM; thực trạng pháp luật về HĐCTD của NHTM ở Việt Nam; từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh HĐCTD của NHTM ở Việt Nam. Trong luận án này, tác giả Nguyễn Ngọc Lương đã làm rõ một số vấn đề làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM như: khái niệm, đặc điểm, bản chất và nguyên tắc của HĐCTD của các NHTM; vai trò của HĐCTD của các NHTM trong nền kinh tế thị trường; những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật điều chỉnh HĐCTD của NHTM. Đặc biệt, tác giả có phân tích pháp luật quy định về giới hạn an toàn trong HĐCTD của NHTM. Đây là nội dung có liên quan chặt chẽ đến pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Lương tập trung vào các quy định của pháp luật điều chỉnh HĐCTD của các NHTM, vì vậy việc phân tích, đánh giá các quy định về an toàn trong HĐCTD của các NHTM mới chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH thông qua việc phân tích vai trò, tác động cũng như mức độ điều chỉnh bằng pháp luật đối với sự an toàn trong HĐNH, hai giáo sư Jeroen Klomp và Jacob De Haan, trong tác phẩm: “Banking risk and regulation: does one size fit all?”9 (tạm dịch: rủi ro NH và sự điều chỉnh của pháp luật: liệu sự điều chỉnh có phù hợp với tất cả ngân hàng?), đã sử dụng dữ liệu từ hơn 200 ngân hàng từ 21 quốc gia trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (tiếng Anh: Organization of Economic Co-operation and Development - OECD), trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2008, nhằm xem xét ảnh hưởng của các quy định pháp luật và giám sát NH đối với các rủi ro NH. Tác giả kết luận các quy định pháp luật và giám sát NH có sự ảnh hưởng nhiều đến những NH có rủi ro cao. Ngược lại, các quy định pháp luật và giám sát NH lại không có ảnh hưởng lớn đến những NH có rủi ro thấp. 8 Nguyễn Ngọc Lương (2017), Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 9 Jeroen Klomp, Jacob De Haan, “Banking risk and regulation: does one size fit all?” DNB Working Paper, 11/2011. Jeroen Klomp hiện đang công tác tại Trường Đại học Groningen, Hà Lan; Jacob De Haan là nhà nghiên cứu về kinh tế ở Munich, Đức. Xem bài viết của các tác giả tại trang web: http://www.dnb.nl/binaries/Working%20Paper%20323_tcm46-261983.pdf. 11 Cùng với hướng nghiên cứu này, các giáo sư Abdelkader Boudriga, Neila Boulila Taktak và Sana Jellouli có bài viết “Banking supervision and nonperforming loan: a cross – country analysis”10 (tạm dịch: giám sát NH và nợ xấu: phân tích tại các quốc gia). Các tác giả của bài viết cho rằng: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cao và chính sách dự phòng rủi ro tốt sẽ làm giảm nợ xấu; cách thức hiệu quả nhất nhằm giảm nợ xấu đó là tăng cường hiệu quả của hệ thống pháp luật, tăng cường minh bạch thông tin và dân chủ, tăng cường sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trong HTNH, tăng cường sự lành mạnh của hệ thống tài chính NH ở mỗi quốc gia. Hai tiến sĩ Tung-Hao Lee và Shu-Hwa Chih (Trường Đại học Quốc gia Chengchi, Đài Loan), trong bài viết “Does financial regulation affect the profit efficiency and risk of banks? Evidence from China’commercial banks”11 (tạm dịch: quy định về tài chính có ảnh hưởng đến hiệu quả lợi nhuận và rủi ro của NH?, minh chứng từ các NHTM Trung Quốc), đã xem xét những quy định mới về tiêu chuẩn an toàn của Ủy ban Giám sát NH Trung Quốc (tiếng Anh: China Banking Regulatory Commission - CBRC), đã phân tích ảnh hưởng của những quy định đó đối với hiệu quả và rủi ro của NH Trung Quốc. Hai tác giả trên đã kết luận: tỷ lệ dự phòng rủi ro và tỷ lệ chi phí trên thu nhập chỉ phù hợp với các NH lớn, trong khi tỷ lệ cho vay so với tiền gửi, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ thanh khoản phù hợp với NH nhỏ. Cũng theo Tung-Hao Lee, tỷ lệ thanh khoản hiện thời không ảnh hưởng đến rủi ro và có thể dẫn đến những kết quả khác nhau về tính hiệu quả giữa NH lớn và NH nhỏ. Cách tiếp cận khác, tiến sĩ George Hanc, trong bài viết “The future of banking in America, summary and conclusion”12 (tạm dịch: khái quát và những kết luận về tương lai HĐNH tại Hoa Kỳ), đã quan tâm nghiên cứu đến những thách thức của pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của những NH lớn, bởi lẽ các NH lớn thường có cơ cấu tổ chức phức tạp, hoạt động với phạm vi rộng bằng nhiều nghiệp vụ khác nhau, vì vậy rủi ro cũng cao hơn so với các NH nhỏ. Nhìn chung, nội dung các công trình nghiên cứu nêu trên đều khẳng định vai trò không thể thiếu của pháp luật là một trong những phương tiện quan trọng nhất nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. 10 Abdelkader Boudriga, Neila Boulila Taktak and Sana Jellouli, “Banking supervision and nonperforming loan: a cross – country analysis”, Journal of Financial Economic Policy, 4/2009. Abdelkader Boudriga là giáo sư ngành tài chính học tại Trường Đại học Cathage và giáo sư thỉnh giảng Trường Đại học Orleans, Pháp; Neila Boulila Taktak là giáo sư công tác tại Trường Đại học Tunis, Tunisia; còn Sana Jellouli đang giảng dạy tại Trường Electronic Commerce, Tunis, Tunisia. 11 Tung-Hao Lee and Shu-Hwa Chih, “Does financial regulation affect the profit efficiency and risk of banks? Evidence from China’commercial banks” North American Journal of Economics and Finance, 2013. 12 George Hanc, “The future of banking in America, summary and conclusion”, FDIC Banking Review, 16, 2004. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Cơ quan Bảo hiểm và Nghiên cứu, Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Hoa Kỳ. 12 Một trong những vấn đề quan trọng khi nghiên cứu pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐNH là mức độ điều chỉnh của pháp luật đến sự an toàn HĐNH. Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuyến, trong bài viết “Xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”13, đã cho rằng, Nhà nước chỉ can thiệp đến bảo đảm an toàn trong hoạt động của các NHTM ở tầm vĩ mô, nghĩa là thông qua việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và phù hợp, tạo cơ sở pháp lý an toàn và hiệu quả cho việc xây dựng và thực hiện hoạt động bảo đảm an toàn trong HĐCTD của NHTM. Đây là cách tiếp cận rất phù hợp trong giai đoạn hiện nay vì Nhà nước không cần can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và NH nói riêng. Điều quan trọng nhất là thông qua pháp luật, Nhà nước tạo lập hành lang pháp lý cho vận hành nền kinh tế nói chung, cho HĐNH cũng như bảo đảm an toàn HĐNH nói riêng. Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung của pháp luật điều chỉnh HĐNH nói chung và bảo đảm an toàn trong HĐCTD nói riêng, giáo sư Roland Benediker, trong bài viết “European answers to the Financial Crisis: Social Banking and Social Finance”14 (tạm dịch: câu trả lời của Châu Âu về khủng hoảng tài chính: ngân hàng xã hội và tài chính xã hội), đã làm rõ bản chất của “ngân hàng xã hội” với 3 đặc trưng cơ bản: trách nhiệm với cộng đồng, sự minh bạch và sự bền vững. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra những “ngân hàng xã hội” ở châu Âu và đưa ra những ý tưởng cho việc tìm kiếm những HĐNH hiệu quả, an toàn trong thời gian tới. Trên thực tế, khi nền kinh tế có những biến động bất lợi hoặc khủng hoảng, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội nói chung và HĐNH nói riêng, các quốc gia cần phải tìm những giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bất lợi do khủng hoảng mang lại. Theo Roland Benediker, việc xây dựng mô hình HĐNH dựa trên các tiêu chí như trách nhiệm với cộng đồng, minh bạch và sự bền vững là cách tiếp cận nhằm bảo đảm an toàn trong HĐNH mà các quốc gia có thể áp dụng. Đây là cách tiếp cận khá mới mẻ và thú vị, có thể được nghiên cứu khi xây dựng pháp luật về bảo đảm an toàn trong HĐCTD của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Ở góc độ rộng hơn, tác giả Ngô Quốc Kỳ, trong luận án tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”15, đã phân tích ba nhân tố cơ bản 13 Nguyễn Văn Tuyến, “Xác định giới hạn can thiệp của Nhà nước đối với giao dịch thương mại của ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 năm 2003. 14 Roland Benediker là một nhà nghiên cứu về chính trị và xã hội tại Trung tâm Nghiên cứu quốc tế tại Trường Đại học California tại Santa Barbara. Từ năm 2009-2013 là Giáo sư thỉnh giảng tại Trung tâm châu Âu của Đại học Stanford. Đến nay, ông cộng tác, nghiên cứu và giảng dạy tại European University, Đức. Xem bài viết của ông tại trang web: http://spice.stanford.edu/docs/european_answers_to_the_financial_crisis_social_banking_and_social_finance/ 15 Ngô Quốc Kỳ (2003), Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan