Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Pháp luật về kế toán doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố hà nội ....

Tài liệu Pháp luật về kế toán doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố hà nội .

.PDF
80
312
90

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN KIM PHƯỢNG PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành : Luật kinh tế Mã số : 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN HÀ NỘI – 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Kim Phượng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP ................. 5 1.1. Những vấn đề lý luận về kế toán doanh nghiệp ...................................... 5 1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật kế toán doanh nghiệp .................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................... 26 2.1. Khái quát về cơ sở pháp lý của kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................................................... 26 2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................ 28 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 65 3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật kế toán doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .......................................................................................................... 65 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam ............................................................................ 68 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ BCTC Báo cáo tài chính CTKT Công tác kế toán DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nhà nước IASs Hệ thống kế toán IFRSs Chuẩn mực quốc tế về kế toán SXKD Sản xuất kinh doanh HTTK Hệ thống tài khoản HTX Hợp tác xã TNHH Trách nhiệm hữu hạn NSNN Ngân sách Nhà nước TSCĐ Tài sản cố định TSCĐHH Tài sản cố định hữu hình MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ quốc gia nào và dù là các doanh nghiệp trong hay ngoài nước, kế toán cũng đều chiếm một vị trí quan trọng và không thể thiếu trong quá trình vận hành và hoạt động của doanh nghiệp đó. Kế toán doanh nghiệp là một trong những khâu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghề kế toán đòi hỏi người làm phải năng động, sáng tạo, trung thực và cẩn thận, kế toán viên cũng sẽ được cung cấp các công cụ hỗ trợ công việc hiệu quả và đáng tin cậy. Những năm qua ở Việt Nam, cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nói chung, Nhà nước ta cũng đã chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán trong đó có kế toán doanh nghiệp. Pháp luật trong lĩnh vực này đã quy định cụ thể theo tất cả các thành phần kế toán; xác định rõ nhiệm vụ, đối tượng và các yêu cầu đối với kế toán doanh nghiệp… Chính vì vậy, pháp luật về kế toán thời gian qua đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp tổ chức tốt công tác kế toán của doanh nghiệp mình, đồng thời giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt các chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tài chính kế toán trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, pháp luật về kế toán vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập như thiếu tính đồng bộ, có nhiều vấn đề về nghiệp vụ chưa được hướng dẫn chi tiết, kịp thời. Để nghiên cứu và tìm hiểu kỹ hơn các nhận định trên, học viên quyết định chọn đề tài “Pháp luật về kế toán doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Không thể phủ nhận rằng pháp luật về kế toán doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau đề cập đến vấn đề kế toán doanh nghiệp, cả từ khía cạnh 1 kinh tế cũng như khía cạnh pháp lý, mặc dù số lượng các công trình nghiên cứu từ góc độ pháp lý về vấn đề kế toán doanh nghiệp là không nhiều. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây có đề cập đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài luận văn: - Giáo trình “Pháp luật kế toán” của Học viện ngân hàng năm 2012; - Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Thực trạng pháp luật kế toán ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện” của Vũ Quốc Việt, Viện Đại học Mở Hà Nội, năm 2015; - Bài viết: “Sửa đổi Luật kế toán cho phù hợp với yêu cầu của hội nhập” của tác giả Phúc Khang đăng trên báo Kiểm toán số 21/2013; - Bài viết: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán, nâng cao chất lượng hoạt động kế toán – kiểm toán và hội nhập quốc tế” của ThS. Phan Dũng đăng trên tạp chí Phát triển và hội nhập số 12 tháng 9, 10/2013... Về cơ bản, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định của pháp luật kế toán nói chung mà chưa đi sâu vào phân tích thực trạng pháp luật tại một vùng địa lý cụ thể. Do đó, chưa thấy được rõ thực tế thực hiện quy định pháp luật kế toán ở các đơn vị kế toán tại nơi đó như thế nào. Với cách nhìn nhận và đánh giá như vậy, tác giả luận văn cho rằng công trình nghiên cứu khoa học pháp lý ở cấp độ luận văn thạc sĩ về đề tài: “Pháp luật về kế toán doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là cần thiết và có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam. Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ một số vấn đề lí luận về kế toán doanh nghiệp và pháp luật kế toán doanh nghiệp, cấu trúc của pháp luật về kế toán doanh nghiệp, các nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hoạt động kế toán; 2 - Đánh giá thực trạng pháp luật về kế toán doanh nghiệp cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về kế toán doanh nghiệp hiện nay, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc mà các doanh nghiệp – với tư cách là đơn vị kế toán đã và đang gặp phải trong quá trình thực hiện pháp luật, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, lý thuyết về kế toán doanh nghiệp; các quy định của pháp luật kế toán doanh nghiệp và thực tiễn thực hiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam; các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp tại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các quy định của pháp luật kế toán Việt Nam hiện đang áp dụng cho các đơn vị kế toán là doanh nghiệp ở Việt Nam từ khi Luật kế toán ra đời cho đến thời điểm hiện tại. Việc nghiên cứu thực tiễn được khảo sát chủ yếu tại các đơn vị kế toán là doanh nghiệp có trụ sở chính trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận là phép duy vật biện chứng của học thuyết Mác - Lê Nin về Nhà nước và pháp luật; các lý thuyết về kế toán doanh nghiệp nói chung và pháp luật về kế toán doanh nghiệp nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông dụng trong khoa học xã hội và nhân văn như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống, khái quát hóa; phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn - xã hội học kiểm chứng; phương pháp so sánh, đối chiếu… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về ý nghĩa lý luận, luận văn hướng đến mục tiêu đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, từ đó xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật về kế toán ở Việt Nam. Về ý nghĩa thực tiễn, từ kết quả nghiên cứu, luận văn đánh giá thực 3 trạng áp dụng pháp luật về kế toán tại Việt Nam hiện nay, chỉ ra các ưu điểm bên cạnh những hạn chế, bất cập trong thực tế thi hành pháp luật về kế toán doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc đó nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp. Các kiến nghị của luận văn có thể được dùng để nghiên cứu, xem xét áp dụng khi sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về kế toán doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về kế toán doanh nghiệp và pháp luật về kế toán doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về kế toán doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số kiến nghị. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP 1.1. Những vấn đề lý luận về kế toán doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của kế toán và kế toán doanh nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm kế toán và các loại hình kế toán Trong nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, các tài liệu kế toán được xác định như một tấm gương phản chiếu toàn bộ hoạt động kinh tế nói chung, quá trình sản xuất kinh doanh nói riêng. Xét về phương diện lý thuyết, khái niệm “kế toán” có thể được tiếp cận và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một số định nghĩa tiêu biểu về “kế toán”: Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khái niệm “kế toán”được giải thích như sau: “Kế toán là công việc ghi chép, tính toán, phản ánh bằng con số một cách liên tục, toàn diện và hệ thống các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế, qua đó mà giám đốc nắm được tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước, tình hình bảo vệ tài sản XHCN” [8, tr7]. Trong pháp luật thực định trước đây, tại Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước ban hành theo NĐ số 25- HĐBT cũng có khẳng định: “Kế toán là công việc ghi chép tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước cũng như của từng tổ chức xí nghiệp”. Theo Luật kế toán Việt Nam 2015: “Kế toán là việc thu thập xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động” (Điều 3 Luật Kế toán số 88/2015/QH13). Như vậy, từ những khái niệm về kế toán nêu trên, ta có thể thấy rằng quan niệm về kế toán là tương đối khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận của người nghiên cứu. 5 Trước đây người ta thường hiểu công việc kế toán chỉ gồm các nhiệm vụ giữ sổ sách kế toán, ghi chép, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mục đích của kế toán trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nhằm cung cấp thông tin cho Nhà nước để kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Chức năng của kế toán trong nền kinh tế kế hoạch hóa là phản ánh và giám đốc tài sản XHCN và các hoạt động kinh tế. Hiện nay, công việc kế toán được hiểu rộng hơn nhiều. Kế toán là một hệ thống thông tin dùng để đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin về tài chính của một đơn vị kế toán. Thông tin này giúp người sử dụng có thể đưa ra các quyết định hợp lý cho mình. Vì vậy, người kế toán ngày nay không chỉ quan tâm đến việc giữ sổ sách mà phải quan tâm đến toàn bộ các hoạt động như: việc hoạch định chương trình và giải quyết vấn đề; hướng sự quan tâm của lãnh đạo đến những điều cần lưu tâm, đánh giá và duyệt xét các hoạt động của đơn vị kế toán, kiểm tra sổ sách… Kế toán bao gồm việc thiết kế một hệ thống thông tin đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin về kế toán ở cả trong và ngoài đơn vị kế toán. Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị kế toán đều bình đẳng, mối quan hệ kinh tế tài chính của các đơn vị kế toán được mở rộng. Mặt khác, với sự phát triển đa dạng của các nguồn tạo vốn từ bên ngoài đã làm cho đối tượng sử dụng thông tin kế toán trở nên đa dạng hơn. Mục đích của kế toán không chỉ cung cấp thông tin chủ yếu cho bản thân doanh nghiệp, cho Nhà nước, mà còn cung cấp thông tin cho các đối tượng như ngân hàng, các nhà đầu tư tương lai, nhà cung cấp, khách hàng… Tuy nhiên, cho dù có sự khác biệt trong nhận thức hay cách tiếp cận nhưng hầu hết các quan niệm về kế toán hiện nay đều thống nhất rằng bản chất của kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra về hoạt động kinh tế tài chính của một chủ thể nhất định. Do vậy, kế toán được xem là công cụ không thể thiếu trong hệ thống quản lý kinh tế, cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế quốc dân cũng như ở tầm vi mô của doanh nghiệp. Về phương diện học thuật, kế toán có thể được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Điều này giúp cho việc nhận thức đầy đủ hơn về nội dung, mục đích, phạm vi của từng loại kế toán. Một cách khái quát, có thể hình dung rằng kế toán được phân loại dựa vào 6 các tiêu chí cơ bản sau đây: Thứ nhất, nếu dựa vào bản chất của hoạt động kế toán, có thể phân chia thành các hình thức kế toán sau đây: Kế toán tài chính là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho các đối tượng sử dụng thông tin của đơn vị kế toán [8, tr.11]. Kế toán tài chính phản ánh thực trạng và các biến động về vốn, tài sản của DN dưới dạng tổng quát hay phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữu DN với môi trường kinh tế bên ngoài. Kế toán tài chính cung cấp thông tin chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, do đó để đảm bảo tính khách quan, thống nhất thì phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia. Kế toán tài chính mang tính pháp lệnh, nghĩa là nếu muốn được thừa nhận thì kế toán tài chính phải được tổ chức ở tất cả các đơn vị kế toán và hệ thống sổ ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin đều phải tuân thủ các quy định thống nhất. Thông tin của kế toán tài chính cung cấp là những thông tin thực hiện về những hoạt động đã phát sinh, đã xảy ra mang tính tổng hợp thể hiện dưới hình thái giá trị. Báo cáo của kế toán tài chính là các BCTC tổng quát về sản lượng, kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong một thời kỳ báo cáo được thực hiện theo định kỳ thường là hàng năm. Các báo cáo này ngoài việc sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được cung cấp cho các đối tượng bên ngoài khác như: các nhà đầu tư, ngân hàng, các cơ quan tài chính, cơ quan thuế… Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán [8, tr.12]. Kế toán quản trị hay kế toán quản lý đưa ra tất cả các thông tin kinh tế, đặc biệt là các thông tin về thực trạng tài chính của DN. Qua đó giúp các nhà quản lý doanh nghiệp ra quyết định điều hành một cách tối ưu nhất. Xét theo nội dung các thông tin mà kế toán quản trị cung cấp, có thể khái quát kế toán quản trị bao gồm: 7 (i) Kế toán quản trị các yếu tố sản xuất kinh doanh (mua sắm, sử dụng các đối tượng lao động, hàng tồn kho, tư liệu lao động – TSCĐ, tuyển dụng và sử dụng lao động – lao động và tiền lương…); (ii) Kế toán quản trị về chi phí và giá thành sản phẩm (nhận diện sản phẩm, phân loại chi phí, lập dự toán chi phí, tập hợp, tính toán, phân bổ chi phí, giá thành, lập báo cáo phân tích chi phí theo bộ phận, theo các tình huống quyết định..); (iii) Kế toán quản trị về doanh thu và kết quả kinh doanh (phân loại doanh thu, xác định giá bán, lập dự toán, tính toán và hạch toán chi tiết doanh thu, phân bổ chi phí chung, xác định kết quả và lập báo cáo phân tích kết quả chi tiết theo bộ phận, theo các tình huống ra quyết định..); (iv) Kế toán quản trị các khoản nợ; (v) Kế toán quản trị các hoạt động đầu tư tài chính; (vi) Kế toán quản trị các hoạt động khác của doanh nghiệp. Xét theo quá trình kế toán quản trị trong mối quan hệ với chức năng quản lý, kế toán quản trị bao gồm: (i) Chính thức hóa các mục tiêu của đơn vị thành các chỉ tiêu kinh tế; (ii) Lập dự toán chung và các dự toán chi tiết; (iii) Thu thập, cung cấp thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu; (iv) Soạn thảo báo cáo kế toán quản trị. Thông tin của kế toán quản trị không chỉ là thông tin quá khứ (thông tin thực hiện) mà còn bao gồm các thông tin về tương lai (kế hoạch, dự toán, dự tính…). Mặt khác, thông tin kế toán quản trị không chỉ là các thông tin về giá trị mà còn bao gồm các thông tin khác (hiện vật, thời gian lao động…). Thông tin của kế toán quản trị đặc biệt quan trọng trong vận hành doanh nghiệp, cụ thể như việc giúp ban lãnh đạo ra quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất như phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó như thế nào, giá bao nhiêu, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất, đồng thời phục vụ việc kiểm soát và đánh giá doanh nghiệp đó. Như vậy, giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị có những điểm giống 8 và khác nhau như sau: - Giống nhau: Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cấp đến các sự kiện kinh tế trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động, quá trình lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp. Một bên phản ảnh tổng quát, một bên phản ảnh cụ thể, chi tiết của sự tổng quát đó. Ngoài ra, kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên những ghi chép ban đầu của kế toán; kế toán quản trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý và đều là công cụ quản lý doanh nghiệp. - Khác nhau: Một là, về đối tượng sử dụng thông tin, đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là các thành viên bên trong doanh nghiệp: Ban giám đốc, chủ sở hữu, Trưởng bộ phận... Trong khi đó, đối tượng của kế toán tài chính chủ yếu là ở bên ngoài doanh nghiệp: Các cổ đông, Cơ quan thuế, Cơ quan quản lý tài chính... Hai là, về nguyên tắc trình bày và cung cấp thông tin, thông tin kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia. Trái lại, trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu phải nắm bắt nhanh các cơ cội kinh doanh đa dạng nên thông tin kế toán quản trị cần phải linh hoạt, nhanh chóng và phù hợp với từng quyết định của người quản trị, không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc hay chuẩn mực kế toán chung. Ba là, về tính pháp lý của kế toán: Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, nghĩa là hệ thống sổ sách, ghi chép, trình bày và cung cấp thông tin của kế toán tài chính đều phải tuân theo các quy định thống nhất nếu muốn được thừa nhận. Ngược lại, tổ chức công tác quản trị lại mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp phù hợp với đặc thù quản lý, yêu cầu quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng doanh nghiệp. Bốn là, về đặc điểm của thông tin: Thông tin của kế toán tài chính là thông tin thực hiện về những nghiệp vụ đã phát sinh, đã xảy ra, được thu thập từ các chứng từ ban đầu về kế toán. Trong khi đó, thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra. Năm là, về hình thức báo cáo sử dụng: Báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là các báo cáo kế toán tổng hợp (gọi là các Báo cáo tài chính) phản ánh tổng quát về sản nghiệp, kết quả hoạt động của doanh 9 nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Thuyết minh báo cáo tài chính). Trong khi đó báo cáo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ phải trả, báo cáo nhập xuất và tồn kho của hàng tồn kho...). Ngoài hai hình thức cơ bản là kế toán tài chính và kế toán quản trị, tại khoản 2 Điều 9 của Luật kế toán 2015 nhà làm luật cũng quy định: “Khi thực hiện công việc kế toán tài chính và kế toán quản trị, đơn vị kế toán phải thực hiện kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết”. Kế toán tổng hợp đòi hỏi đơn vị kế toán phải thu thập, xử lý, ghi chép và cung cấp thông tin tổng quát về hoạt động kinh tế và tài chính của đơn vị. Kế toán tổng hợp sử dụng đơn vị tiền tệ để phản ánh tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản, tình hình và kết quả hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán [8, tr.12]. Kế toán chi tiết đòi hỏi đơn vị kế toán phải thu thập, xử lý, ghi chép và cung cấp thông tin chi tiết bằng đơn vị tiền tệ, đơn vị hiện vật và đơn vị thời gian lao động theo từng đối tượng kế toán cụ thể trong đơn vị kế toán. Kế toán chi tiết minh họa cho kế toán tổng hợp. Số liệu kế toán chi tiết phải khớp đúng với số liệu kế toán tổng hợp trong một kỳ kế toán [8, tr.13]. Vậy, có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp còn kế toán quản trị là kế toán chi tiết hay không ? Để hiểu rõ về các thuật ngữ trên, ta cần tìm hiểu mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết. - Về mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác, kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và BCTC. - Về mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây 10 cũng là công việc phải làm trước khi khóa sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường được gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết. Ví dụ như việc đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm. Tóm lại, trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết. Vì vậy kế toán tài chính không phải kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc trưng của kế toán doanh nghiệp a) Khái niệm kế toán doanh nghiệp Trong các doanh nghiệp, để quản lý tài sản và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) cần phải sử dụng hàng loạt các công cụ quản lý khác nhau. Đối với doanh nghiệp, kế toán có chức năng thu nhận, xử lý, hệ thống hóa thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ở DN nhằm cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ công tác quản lý kinh tế tài chính trong DN. Từ phân tích trên đây, có thể thấy rằng “Kế toán doanh nghiệp là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động tại doanh nghiệp”. Thông thường kế toán doanh nghiệp được chia ra làm hai bộ phận chính gồm kế toán nội bộ và kế toán thuế. Kế toán nội bộ là một bộ phận không thể thiếu đối với mỗi DN, công việc chủ yếu là thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán. Báo cáo kế toán nội bộ có trách nhiệm ghi nhận chi tiết và chính xác cho các nhà quản trị, lãnh đạo của doanh nghiệp. Kế toán thuế là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kế toán doanh nghiệp. Công việc chính của bộ phận kế toán thuế bao gồm thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng BCTC cho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của đơn vị kế toán. 11 Theo quy định của pháp luật kế toán ở nhiều quốc gia, các đối tượng của kế toán doanh nghiệp bao gồm: Tài sản; nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; doanh thu, chi phí kinh doanh, chi phí khác và thu nhập; thuế và các khoản phải nộp NSNN; kết quả và phân chia kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; tài sản, các khoản phải thu, nghĩa vụ phải trả khác có liên quan đến doanh nghiệp. Với chức năng phản ánh và kiểm tra, cung cấp thông tin toàn bộ các hoạt động kinh tế của DN, kế toán doanh nghiệp có những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Thu thập xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng kế toán và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán. - Ghi chép, tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, quá trình và kết quả hoạt động SXKD và tình hình sử dụng kinh phí (nếu có) của doanh nghiệp. - Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch SXKD, kế hoạch thu chi tài chính, kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi phí tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán. - Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động SXKD, kiểm tra và phân tích hoạt động kinh tế, tài chính phục vụ công tác lập và theo dõi việc thực hiện công tác thống kê và thông tin kinh tế. Về lý thuyết, để hoạt động kế toán doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, kế toán doanh nghiệp cần đáp ứng những yêu cầu nhất định như: - Kế toán phải chính xác, trung thực, khách quan; - Kế toán phải kịp thời; - Kế toán phải đầy đủ; - Kế toán phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ so sánh và đối chiếu. Những yêu cầu này đối với kế toán phải được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn phát triển và mục đích sử dụng thông tin kế toán mà yêu cầu này hay yêu cầu khác sẽ được chú trọng hơn. b) Đặc trưng của kế toán doanh nghiệp Từ kết quả phân tích trên đây, có thể thấy rằng kế toán doanh nghiệp có 12 những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, kế toán doanh nghiệp có nhiệm vụ phản ánh và giám độc một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thực tế của doanh nghiệp – với tư cách là một đơn vị kế toán (các hoạt động liên quan đến tải sản và nguồn vốn của đơn vị). Kế toán doanh nghiệp không phản ánh tất cả các hoạt động của đơn vị cũng như không phản ánh tất cả nội dung liên quan đến nghiệp vụ kinh tế phát sinh mà chỉ phản ánh sự biến động của tài sản và nguồn của nghiệp vụ kinh tế đó. Thứ hai, kế toán doanh nghiệp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp thông qua một hệ thống các phương pháp khoa học như: chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp, cân đối kế toán, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được phản ánh thông qua kế toán theo một trình tự nhất định dựa trên các phương pháp kế toán này. Vậy nên, công tác kế toán doanh nghiệp đòi hỏi người làm kế toán phải có những hiểu biết nhất định về kế toán chứ không đơn thuần là liệt kê các nội dung kinh tế phát sinh tại đơn vị. Chính vì thế, người thưc hiện công việc kế toán phải là người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện nhất định do pháp luật quy định (Điều lệ kế toán trưởng xí nghiệp quốc doanh). Trong quá trình quản lý nền kinh tế xã hội con người đã sử dụng nhiều loại hạch toán để phản anh và giám đốc các thông tin kinh tế xã hội đó kế toán chỉ là một loại hạch toán, ngoài kế toán còn có hạch toán nghiệp vụ và hạch toán thống kê. Hạch toán nghiệp vụ được sử dụng nhiều trong các đơn vị kế toán. Nó hiện kế hoạch, tiến độ cung ứng sản phẩm, tình hình tiêu thụ nguyên vật liệu… để chỉ đạo thường xuyển và kịp thời các loại nghiệp vụ đó. Phương pháp áp dụng cho loại hạch toán này rất đơn giản, việc thu thập tin tức có thể chỉ cần thông quan điện thoại, truyền miệng. Loại hach toán này chỉ phản ánh cá nghiệp vụ mang tính chất riêng lẻ và phục vụ cho các quyết định điều hành tức thời. Hạch toán thống kê cũng được áp dụng nhiều trong đời sống nhưng, với khác với hạch toán nó được thực hiện trong một phạm vi rộng: cả nước, toàn bộ nền kinh tế, địa phương và được áp dụng không chỉ trong các hoạt độn kinh tế mà còn nghiên cứu các hiện tượng xã hội khác như: thống kê số lượng hộ đói nghèo trong cả nước, thông kế số lượng thương binh, 13 liệt sĩ của địa phương... Hơn nữa, thống kê không nghiên cứu và giám đốc một cách toàn diện và liên tục, mà chủ nghiên cứu và giám đốc trong điều kiện thời gian, địa điểm cụ thể. 1.1.2. Nguyên tắc và trình tự thực hiện kế toán doanh nghiệp Trước hết, về nguyên tắc kế toán doanh nghiệp. Xét trên phương diện lý thuyết, các nguyên tắc kế toán là những chuẩn mực, quy ước và những hướng dẫn xuyên suốt trong quá trình thực hiện các công việc kế toán nhằm phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính đạt được các mục tiêu đầy đủ, dễ hiểu, đáng tin cậy và có thể so sánh được. Theo thông lệ quốc tế các nguyên tắc được kế toán được ghi nhận trong pháp luật hiện hành ở các quốc gia hiện nay thường bao gồm: (i) Giá trị tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau ghi nhận ban đầu, đối với một số loại tài sản hoặc nợ phải trả mà giá trị biến động thường xuyên theo giá thị trường và giá trị của chúng có thể xác định lại một cách đáng tin cậy thì được ghi nhận theo giá trị hợp lý tại thời điểm cuối kỳ lập BCTC; (ii) Các quy định và phương pháp kế toán đã chọn phải được áp dụng nhất quán trong kỳ kế toán năm; trường hợp thay đổi các quy định và phương pháp kế toán đã chọn thì đơn vị kế toán phải giải trình trong BCTC; (iii) Đơn vị kế toán phải thu thập, phản ánh khách quan, đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán mà nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh; (iv) Báo cáo tài chính phải được lập và gửi cơ quan có thẩm quyền đầy đủ, chính xác và kịp thời. Thông tin, số liệu trong BCTC của đơn vị kế toán phải được công khai theo quy định; (v) Đơn vị kế toán phải sử dụng phương pháp đánh giá tài sản và phân bổ các khoản thu, chi một cách thận trọng, không được làm sai lệch kết quả hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán; (vi) Việc lập và trình bày BCTC phải bảo đảm phản ánh đúng bản chất của giao dịch hơn là hình thức, tên gọi của giao dịch. Thực tế cho thấy, các nguyên tắc này cũng đã và đang được ghi nhận trong Luật kế toán Việt Nam 2015. 14 Thứ hai, về trình tự thực hiện kế toán doanh nghiệp. Không thể phủ nhận rằng quy trình kế toán tổng hợp có vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ DN nào. Quy trình kế toán giúp cho nhà quản lý có cái nhìn toàn diện về quy trình hoạt động của từng nhân viên từ đó có thể ra quyết định chính xác cho việc tái cấu trúc lại bộ phận kế toán để hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời có những quy định chặt chẽ để quản lý thu – chi tiền và tài sản hiệu quả, tránh lãng phí và thất thoát. Theo thống kê, trình tự kế toán thường bao gồm các bước sau đây: Bước 1: Tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; Bước 2: Lập, xử lý kiểm tra và sắp xếp chứng từ kế toán; Bước 3: Tiến hành ghi sổ sách kế toán; Bước 4: Cuối kỳ (Thực hiện bút toán cuối kỳ và bút toán kết chuyển), khóa sổ, xác định số dư; Bước 5: Lập bảng cân đối số phát sinh; Bước 6: Lập BCTC, quyết toán thuế; Bước 7: In sổ sách, đóng quyển và lưu kho. Về nguyên tắc, các bước trên đây phải được đơn vị kế toán tuân thủ, thực hiện trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng quản trị doanh nghiệp cũng như đảm bảo tuân thủ Luật kế toán. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung kế toán doanh nghiệp Về lý thuyết, kế toán doanh nghiệp chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ bản như: Thứ nhất, hệ thống chuẩn mực kế toán. Hiện nay, hệ thống kế toán và chuẩn mực quốc tế về kế toán (IASs/ IFRSs) được soạn thảo bởi hội đồng chuẩn mực quốc tế (IASB). Nó được soạn thảo và công bố theo những quy trình rất chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực và tính thực hành cao. Rất nhiều quốc gia của Châu Á và trên thế giới đang điều chỉnh chuẩn mực của mình để phù hợp hơn với IFRS và giảm thiểu sự khác nhau nếu có. Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng dựa trên các chuẩn mực 15 kế toán quốc tế (IAS/IFRS) từ những năm 2000 đến năm 2005 theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực. Ngoài ra, tại Việt Nam hệ thống kế toán bao gồm cả chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán, mô hình này khác biệt so với các nước trên thế giới. Dựa vào các kết quả nghiên cứu đồng thời dựa trên nghiên cứu định tính thông qua việc phỏng vấn các chuyên gia, có thể khái quát các yếu tố sau ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực kế toán tại các DN ở Việt Nam. Tại Việt Nam việc tồn tại song song chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán, một mặt thể hiện sự hội nhập của Việt Nam với thông lệ chung của kế toán quốc tế, mặt khác thể hiện sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kế toán. Chính những đặc trưng này đã hình yếu tố ảnh hưởng đến vận dụng chuẩn mực kế toán [16]. Với đặc điểm về quản lý thống nhất của Nhà nước và một hệ thống pháp lý mang dáng dấp kiểu đạo luật (code law), việc vận dụng chuẩn mực kế toán ở Việt Nam chỉ có thể biểu hiện qua hệ thống tài khoản kế toán và biểu mẫu BCTC thống nhất. Khi đưa chuẩn mực kế toán vào vận dụng trong thực tiễn, nhiều ý kiến nhận thấy nội dung các chuẩn mực còn khá mới với nhiều khái niệm và thuật ngữ, trong khi đó kế toán viên chỉ am hiểu và vận dụng trên cơ sở các thông tư hướng dẫn chi tiết trong công tác kế toán, điều đó ảnh hưởng đến việc vận dụng các chuẩn mực kế toán. Ở Việt Nam, việc ghi nhận và đo lường kế toán thường dựa trên cơ sở quy định của thuế. Nhận thức đó đã ăn sâu và tác động lớn vào hành vi của người làm kế toán dù những cải cách gần đây đã thay đổi tác động của thuế với kế toán. Thứ hai, kinh nghiệm và năng lực của kế toán viên. Lịch sử phát triển của kế toán các nước cho thấy, sự phát triển của kế toán có liên quan đến mức độ giáo dục và chuyên nghiệp của kế toán viên [Choi & cộng sự, 2011]. Chất lượng nguồn lực kế toán có tầm ảnh hưởng lớn trong các nhân tố, mở ra vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển kế toán trong thời 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan