Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng tại việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng tại việt nam luận văn ths. luật

.PDF
105
576
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013 1 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GTGT Giá trị gia tăng NSNN Ngân sách nhà nước DN Doanh nghiệp TNDN Thu nhập doanh nghiệp NNT Người nộp thuế 4 2.2.4. Các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quản lý thuế GTGT .......................................................................................... 80 CHƯƠNG 3 ................................ ................................ ................................ ..81 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM................................ ................................ ..81 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………81 3.2. Căn cứ để xác định giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam ............................................................................................................ 82 3.2.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay ........................................................................ 82 3.2.2. Sự chi phối của nền Kinh tế thị trường Việt Nam ....................................... 84 3.2.3. Kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm xây dựng, thực hiện pháp luật quản lý thuế ở nước ta và một số nước trên thế giới ................................................ 86 3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………87 3.4. 3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thủ tục hành chính thuế .................................. 87 3.3.2. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự giám sát và tuân thủ pháp luật thuế ..... 91 Cơ chế đảm bảo thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam ……………………………………………………………………………………97 3.4.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế ................................ 97 3.4.2. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thuế ................................................................... 99 3.4.3. Đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin nhằm tiến tới thực hiện quản lý thuế điện tử.............................................................................................................. 101 3.4.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế ......................... 102 KẾT LUẬN ................................ ................................ ................................ .104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......Error! Bookmark not defined. 6 M Ở ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế hiện hành của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở nước ta trong hơn 15 năm qua đã cho thấy sự tác động lớn, nhiều mặt đến đời sống kinh tế, xã hội của thuế GTGT và khẳng định được sự đúng đắn trong việc áp dụng sắc thuế GTGT. Chính vì tầm quan trọng của sắc thuế này, việc đặt ra yêu cầu quản lý thuế GTGT trở nên hết sức cần thiết. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề quản lý thuế GTGT cũng như quản lý các sắc thuế khác được quy định trong một đạo luật về Quản lý thuế nói chung. Luật Quản lý thuế ban hành ngày 29/11/2006 đã có những thay đổi căn bản trong phương thức quản lý thuế theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, thống nhất chính sách quản lý thu thuế; tạo sự đồng bộ, nâng cao tính rõ ràng, minh bạch; tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, xã hội trong công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng. Với nhiều quy định tiến bộ, Luật quản lý thuế 2006 bước đầu đã phát huy được hiệu quả thực thi hệ thống chính sách thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về quản lý thuế GTGT đã bộc lộ những bất cập nhất định như: Một số quy định không bảo đảm tính thống nhất hoặc chưa phù hợp, hoặc thiếu tính khả thi, hoặc chưa có quy định cụ thể, rõ ràng. Các thủ tục hành chính thuế còn phức tạp, trùng lắp và thiếu đồng bộ, chi phí tuân thủ pháp luật của người nộp thuế còn cao, …Điều này đã gây khó khăn nhất định cho công tác quản lý thuế GTGT cũng như cho người nộp thuế. Để pháp luật về quản lý thuế GTGT phát huy vai trò quan trọng đối với việc thực thi có hiệu quả sắc thuế GTGT và để đảm bảo tốt hơn quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế thì pháp luật về quản lý thuế GTGT nói riêng cũng như pháp luật về Quản lý thuế nói chung cần được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định mục tiêu tổng quát của Chính phủ: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, 7 hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: Thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao, … phấn đấu đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á trong xếp hạng các mức độ thuận lợi về thuế vào năm 2010” [6]. Từ thực tiễn nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ lý luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ về quản lý thuế GTGT để trên cơ sở đó đánh giá một cách toàn diện, khách quan về thực trạng pháp luật về quản lý thuế GTGT ở nước ta, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý thuế GTGT nói riêng cũng như pháp luật Quản lý thuế nói chung ở Việt Nam hiện nay. Với những lý do trên đây, luận văn“Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam” là vấn đề có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, cần được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu luận văn Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố, có thể nêu một số công trình có liên quan đến vấn đề quản lý thuế GTGT là: - “Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam” (2002), luận án tiến sĩ luật học; Nguyễn Thị Thương Huyền, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật. - Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn (2012), Luận án tiến sĩ Luật; Vũ Văn Cương, Đại học Luật Hà Nội; - Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn thiện(2006); Luận văn thạc sĩ luật học; Trần Thị Minh Hiền, người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu; 8 - Pháp luật về thuế GTGT và các biện pháp bảo đảm thực hiện (2002), Luận văn thạc sỹ, Lê Thị Bích Liên, Hà Nội; - Một số ý kiến trao đổi về dự thảo luật thuế GTGT và Luật thuế thu nhập Doanh nghiệp (2008), TS. Phạm Giang Thu, Tạp chí Luật học số 4/2008; - Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm (2008), TS. Nguyễn Thị Thương Huyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 29/2008; - Thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện nay; ThS.Vũ Văn Cương; Tạp chí Luật học; Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 4/2009, tr. 3 – 12; - Pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn thiện (2006); Khoá luận tốt nghiệp; Nguyễn Minh Phương; Người hướng dẫn: ThS. Vũ Văn Cương, Đại học Luật Hà Nội. Có thể thấy, trong các công trình khoa học kể trên, các tác giả hướng tới nghiên cứu pháp luật nội dung về thuế giá trị gia tăng hoặc nghiên cứu về vấn đề quản lý thuế nói chung mà chưa có một nghiên cứu nào hoàn chỉnh về vấn đề quản lý thuế GTGT. Tình trạng này xuất phát từ việc các công trình nghiên cứu đó được thực hiện trong điều kiện pháp luật thực định không có sự tách biệt giữa hai bộ phận pháp luật là pháp luật quy định nội dung chính sách thuế và pháp luật về quản lý thuế [9, 51]. Hơn nữa, do pháp luật thuế Việt Nam được cải cách, xây dựng và hoàn thiện trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nên có quá nhiều vấn đề đặt ra đối với chính sách thuế cần tập trung giải quyết. Vì vậy, xu hướng hoàn thiện pháp luật thuế trong những năm qua chủ yếu tập trung vào các quy định phản ánh chính sách thuế mà ít quan tâm đến bộ phận pháp luật về quản lý thuế [4, 5]. Như vậy, nhìn lại các công trình nghiên cứu trong thời gian qua có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về pháp luật quản lý thuế 9 Hiện nay, khái niệm quản lý thuế có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là “quản lý hành chính nhà nước về thuế, việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động mang tính chất hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, là hoạt động chấp hành theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các cơ quan quản lý thuế”. Tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà vấn đề quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêngsẽ được tiếp cận ở những phạm vi khác nhau. Để phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu, trong luận văn này, tác giả nghiên cứu vấn đề quản lý thuế GTGT theo nghĩa hẹp, đồng thời tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật quản lý thuế GTGT trong hệ thống pháp luật do Nhà nước Việt Nam ban hành, từ khi có Luật quản lý thuế năm 2006. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận biện chứng duy vật và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp tiếp cận lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để giải quyết nội dung khoa học của luận văn. Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều ở chương 1 để làm rõ những khái niệm, phạm trù mà luận án sử dụng từ đó rút ra được những kết luận khoa học làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và xác định phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt nam hiện nay. Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê được sử dụng trong chương 2 để luận giải cho nhận định, đánh giá về thực trạng pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhiều ở chương 3 để rút ra những kết luận và định ra được các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường. 5. Những đóng góp mới của luận văn 11 Luận văn là chuyên khảo khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về vấn đề quản lý thuế GTGT ở Việt Nam dưới giác độ pháp lý, vì vậy luận văn có những điểm mới sau về mặt khoa học: - Luận văn phân tích bản chất pháp lý của quản lý thuế GTGT, xây dựng khái niệm quản lý thuế GTGT. - Luận văn đưa ra kết luận khoa học về thực trạng pháp luật quản lý thuế GTGT và thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế, kết luận về nguyên nhân của thực trạng để làm cơ sở cho việc xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn xác định những tư tưởng cơ bản để định hướng chung cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về mặt pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận và hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế GTGT ở Việt Nam nói riêng. Luận văn là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý phục vụ việc hoạch định chính sách; phục vụ quản lý hoạt động thực tiễn trong các cơ quan tài chính, thuế, hải quan, … và các đối tượng thực hiện nghĩa vụ thuế. Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận văn có thể giúp ích cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật quản lý thuế GTGT nói riêng và pháp luật Quản lý thuế nói chung cũng như trong tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT. 7. Kết cấu của luận văn 12 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được trình bày với kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật quản lý thuế giá trị gia tăng Chương 2:Thực trạng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam 13 CHƯƠNG 1 M ỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 1.1. Quản lý thuế Giá trị gia tăng 1.1.1 Một số nhận thức về thuế Giá trị gia tăng Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế hiện hành của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Theo Điều 2 Luật thuế GTGT Việt Nam năm 2008: “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Xét về bản chất, thuế GTGT “là thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ mà cụ thể là đánh vào hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ” [14, 9]. Thuế GTGT mang một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, Thuế GTGT là thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, nghĩa là thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng thực chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Có thể thấy, mọi đối tượng tồn tại trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải chi trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng.Còn chủ thể nộp thuế GTGT lại là các chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế.Như vậy, người nộp thuế và người chịu thuế GTGT không đồng nhất với nhau, độc lập và có những thân phận pháp lý khác nhau.[14, 12] Với quy định này và các quy định khác có liên quan đến đối tượng nộp thuế GTGT được ghi nhận tại các điều luật khác, việc xác định điều kiện cần và đủ cho một chủ thể nằm trong diện nộp thuế GTGT là hoàn toàn cần thiết, đồng thời loại 14 trừ nghĩa vụ của những đối tượng không hội tụ đầy đủ các điều kiện đã đặt ra. Các đối tượng nộp thuế GTGTđáp ứng các điều kiện sau: - Có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ thông thường thuộc đối tượng chịu thuế GTGT (được hiểu có đăng ký kinh doanh và đăng ký nộp thuế GTGT) hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT. - Có phần GTGT tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam. Việc xác định điều kiện cần và đủ cho đối tượng nộp thuế GTGT giúp cho cơ quan quản lý, thu thuế GTGT và đối tượng sản xuất kinh doanh phân biệt trường hợp đăng ký, kê khai thuế GTGT với trường hợp phải nộp thực tế một số tiền thuế GTGT vào NSNN. Cùng với quy định về chủ thể nộp thuế GTGT, pháp luật cũng quy định những đối tượng không nộp thuế GTGT. Những đối tượng này mặc dù đều có hoạt động kinh doanh, có phần giá trị tăng thêm từ hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ quốc gia nhưng xuất phát từ những lí do, mục đích nhất định, pháp luật quy định họ không phải nộp loại thuế này. Đó là các đối tượng kinh doanh có kết quả kinh doanh dưới mức quy định (Khoản 25 Điều 5 Luật Thuế GTGT 2008 quy định về đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT: hàng hóa, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước), hoặc đối tượng kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Thứ hai, thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ do vậy phương pháp tính thuế GTGT chủ yếu dựa trên phương pháp khấu trừ thuế, cụ thể: Thuế GTGT được thu qua mỗi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh. Dựa trên đối tượng tính thuế là phần chênh lệch giữa giá trị đầu ra và phần giá trị đầu vào tương ứng, phương án khả thi xác định số thuế phải nộp là tính theo phần thuế chênh lệch qua các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông (phương pháp khấu trừ thuế) hoặc tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm do chủ thể nộp thuế tạo ra. 15 Pháp luật thuế GTGT Việt Nam quy định hai phương pháp tính thuế: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, trong đó phương pháp khấu từ thuế được coi là phương pháp chủ yếu. Nội dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nộp thuế đã xác định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ (trong giá thanh toán). Phần thuế này được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Thuế GTGT đầu vào xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá mà chủ thể nộp thuế đã trả để nhận được hàng hóa, dịch vụ. Tương tự số thuế đầu ra, thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, số thuế GTGT phát sinh ở các khâu được phản ánh rõ trên chứng từ hóa đơn. Bằng một nghiệp vụ phát hành hóa đơn, có thể là cơ sở xác định số thuế đầu ra cho chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ; đồng thời lại là căn cứ xác định số thuế đầu vào cho bên nhận hàng hóa, dịch vụ. Phương pháp khấu trừ thuế có những ưu điểm nhất định như xác định đúng số thuế phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế, chống thất thu thuế; đảm bảo thu đủ số thuế cần thiết điều tiết thu nhập của người tiêu dùng; đơn giản hóa quá trình quản lí và thu thuế. Với nhưng ưu điểm nêu trên, phương pháp khấu trừ thuế khi tính thuế GTGT được xác định là phương pháp tính thuế chủ yếu. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải đạt được những điều kiện nhất định: - Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành dành cho các chủ thể kinh doanh. - Đăng ký thuế, đã được cơ quan quản lý thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định. 16 - Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Thứ ba, Thuế GTGT mang bản chất liên hoàn. Nói thuế GTGT mang bản chất liên hoàn vì xét trong mối quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các doanh nghiệp nộp thuế GTGT với nhau thì thuế đầu ra của doanh nghiệp bán là thuế đầu vào của doanh nghiệp mua. Vì vậy, thuế GTGT phải nộp ở mỗi doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào doanh số bán ra và thuế suất mà còn phụ thuộc vào thuế GTGT ở doanh nghiệp cung ứng đầu vào (thuế đầu vào). Sự phụ thuộc lẫn nhau này giữa các doanh nghiệp là hệ quả của bản chất liên hoàn của thuế GTGT. 1.1.2 Khái niệm quản lý thuế Giá trị gia tăng Thuế là một phạm trù kinh tế, pháp lý mang tính lịch sử, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của thuế luôn gắn với sự ra đời và phát triển của nhà nước. Thuế là nguồn thu vô cùng quan trọng của NSNN. Chính vì tầm quan trọng và tính chất đặc biệt của thuế nên bất cứ nhà nước nào cũng cần tìm ra phương thức quản lý thuế sao cho có hiệu quả nhất để nhằm đạt được mục tiêu và phát huy tối đa vai trò của thuế trong đời sống thực tiễn. Có thể thấy, hoạt động quản lý xuất hiện từ khi có hoạt động chung của con người. Theo từ điển Hán Việt, quản lý và việc trông nom, sắp đặt công việc trong một tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Vậy quản lý là phạm trù chỉ mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định đã đề ra. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý thuế. Thứ nhất, theo nghĩa rộng, quản lý thuế là “quản lý của nhà nước trong lĩnh vực thuế, là quá trình xây dựng chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành các luật thuế, tổ chức, quản lý, điều hành, thanh tra, giám sát việc thực hiện cácluật thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, …”.[10, 93] Như vậy, nội dung quản lý thuế theo nghĩa rộng bao gồm một số vấn đề chủ yếu như: 17 - Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, xây dựng chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển hệ thống thuế; - Thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế; - Áp dụng các biện pháp phòng chống trốn lậu thuế, chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước, thực hiện cưỡng chế thuế; - Tiếp nhận, xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế; - Tổ chức thu thập, xử lý cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế; - Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thuế; - Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nghiệp vụ thuế…. Thứ hai, theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là “quản lý hành chính nhà nước về thuế, việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động mang tính chất hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, là hoạt động chấp hành theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các cơ quan quản lý thuế”. Theo cách hiểu này, quản lý thuế bao gồm các nội dung chủ yếu như sau: - Xây dựng cơ chế quản lý thuế tạo cơ sở cho công tác quản lý thuế, trong đó xác định rõ chủ thể quản lý, đối tượng chịu sự quản lý; - Xác định rõ các quyền, nghĩa vụ cho đối tượng nộp thuế, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, cán bộ công chức ngành thuế, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong quản lý thuế; - Xác định các thủ tục và nội dung quản lý hành chính thuế như: đăng ký thuế, cấp mã số thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ; kê khai thuế, nộp thuế; quyết toán thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, xử phạt vi phạm thuế, cưỡng chế thuế, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo thuế; - Xây dựng cơ chế quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp; - Tổ chức bộ máy quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp; 18 - Tổ chức đội ngũ cán bộ, công chức thuế để thực hiện các nhiệm vụ quản lý thuế bằng các biện pháp quản lý hành chính thích hợp với diễn biến khách quan của quá trình sản xuất kinh doanh ở cơ sở và điều kiện quản lý kinh tế trong từng giai đoạn. Luật quản lý thuế hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung quản lý thuế tại Điều 3 (bao gồm đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế, thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế …). Từ điều luật này có thể thấy nhà lập pháp hiểu quản lý thuế theo nghĩa hẹp. Tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà định nghĩa về quản lý thuế sẽ được tiếp cận ở những phạm vi khác nhau. Để phù hợp với pháp luật thực định ở nước ta cũng như phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu, trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm quản lý thuế theo nghĩa hẹp. Với tính chất là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành, quản lý thuế GTGT là một bộ phận của hoạt động quản lý thuế nói chung. Quản lý thuế GTGT được hiểu là hoạt động của các cơ quan hành chính thuế từ trung ương đến địa phương, bao gồm các hoạt độngtổ chức, chấp hành và điều hành các công việc liên quan đến quá trình thu, nộp thuế GTGT vào NSNN nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Việc hiểu đúng bản chất của hoạt động quản lý thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong việc thể chế hóa thành pháp luật những nội dung của hoạt động quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế và đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch huy động nguồn thu cho NSNN hàng năm. 1.1.3 Các đặc điểm của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng Hoạt động quản lý thuế GTGT với tính chất là một bộ phận của hoạt động quản lý thuế, vừa mang những đặc điểm của hoạt động quản lý thuế nói chung và mang những đặc điểm riêng nhất định của lĩnh vực quản lý chuyênngành, cụ thể: Thứ nhất, về bản chất quản lý thuế là một bộ phận của quản lý tài chính công. Vì vậy, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý tài chính công và quản lý nguồn 19 thu của NSNN. Do thuế là khoản thu mang tính bắt buộc nên phương pháp quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng thường được sử dụng chủ yếu là phương pháp quản lý hành chính. Thứ hai, về chủ thể trong quản lý thuế GTGT Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản quốc gia để phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia quản lý thuế đồng thời là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia hoạt động quản lý thuế trong Luật quản lý thuế 2006 thể hiện tư tưởng xã hội hóa hoạt động quản lý thuế của nhà làm luật. Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý thuế trước hết thuộc về Nhà nước. Để đảm bảo thực thi trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm quản lý thuế cho Bộ Tài chính, mà trực tiếp là hệ thống cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ quản lý thuế. Đối tượng chủ yếu chịu sự quản lý thuế của nhà nước là người nộp thuế được xác định trong các Luật thuế cụ thể do nhà nước ban hành. Trong pháp luật về thuế GTGT, chủ thể chịu sự quản lý thuế của nhà nước bao gồm người chịu thuế và người nộp thuế. Xét trong mối quan hệ tay ba: cơ quan quản lý thuế, người chịu thuế và người nộp thuế thì người nộp thuế đóng vai trò trung gian thu thuế hộ cơ quan quản lý thuế rồi nộp vào NSNN. Cả ba loại chủ thể này đều có thể tham gia quan hệ quản lý thuế vừa với tư cách là chủ thể quản lý thuế, vừa là đối tượng bị quản lý, giám sát trong quá trình thực hiện pháp luật thuế. Thứ ba, quản lý thuế cần các công cụ và phương tiện khác nhau, trong đó chủ yếu và quan trọng nhất là công cụ pháp luật. Pháp luật là chuẩn mực buộc các chủ thể phải tuân theo, dù là người thu thuế hay người nộp thuế. Ngoài ra, dư luận xã hội cũng đóng vai trò rất quan trọng. Do đó bên cạnh việc nâng cao hiệu lực của các quy định pháp luật thì tác động vào dư luận cũng là một giải pháp hiệu quả cần phải quan tâm nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của các chủ thể tham gia cũng như “cải thiện hình ảnh của thuế nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng”. 20 Thứ tư, quản lý thuế thuộc lĩnh vực quản lý có tính kỹ thuật phức tạp, mang tính chuyên môn cao. Có nhiều yếu tố tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý thuế như: hệ thống pháp luật về quản lý thuế; ý thức chấp hành của người dân; trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ; công chức quản lý thuế; cơ sở vật chất của ngành thuế; hệ thống thể chế quản lý kinh tế, xã hội (quản lý đất đai, quản lý đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán)…. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu muốn nâng cao hiệu quả quản lý thuế cần có các giải pháp đồng bộ, quan tâm phát triển nhiều mặt thì Nhà nước mới có thể đạt được mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng. Thứ năm, Chi phí quản lý hành chính thuế GTGT khá cao. Bởi lẽ thuế GTGT là loại thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, hoạt động chịu thuế GTGT không chỉ bao hàm các hoạt động chịu thuế doanh thu mà còn bao gồm cả các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động sản xuất các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt… Mặt khác thuế GTGT lại vận hành theo cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế vì vậy khối lượng công việc quản lý của cơ quan thuế sẽ tăng lên rất nhiều, bộ máy thuế phải được tăng cường, theo đó chi phí quản lý thuế GTGT sẽ tốn kém và phức tạp. 1.1.4 Sự cần thiết của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ, có nhiều ưu điểm so với các loại thuế khác. Sau hơn 16 năm triển khai thực hiện, pháp luật thuế GTGT đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Nguồn thu từ thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn các tồn tại tình trạng trốn thuế, làm giả hóa đơn chứng từ, gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng, nợ đọng thuế, … Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về phía người nộp thuế, do xuất phát từ những tính chất của thuế nên mặc dù ý thức được sự cần thiết và tính tất yếu của thuế nhưng thuế chưa bao giờ được người nộp thuế “cảm nhận như một thực tế dễ chịu”. Chính vì vậy, phía các cơ quan quản lý thuế 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan