Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thà...

Tài liệu Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh.

.PDF
89
99
51

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TÚ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2020 …,, năm VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TÚ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 838 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY Hà Nội, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các trích dẫn và số liệu đưa ra đảm bảo tính khách quan, trung trực. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thanh Tú MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI............................................................................................................. 8 1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ........................................ 8 1.2 Khái quát về pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ................. 20 1.3 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TP.HCM .................................................................................................................. 36 2.1 Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và quản lý nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh............................................................................................................. 36 2.2 Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải .................... 38 2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.............................................................................. 49 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI ............................................................. 58 3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải . 58 3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ............................................................................................................................ 60 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh. ............................................ 66 KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Phí bảo vệ môi trường: Phí BVMT Sở Tài Nguyên & Môi Trường: Sở TN&MT Ngân Sách Nhà Nước: NSNN Thành phố Hồ Chí Minh: TP.HCM DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 3.1 Số tiền phí BVMT thu được từ 01/01/2018 – 31/08/2019 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, tình hình kinh tế TP.HCM đã đạt được những thành tựu đáng kể với mức tăng trưởng khá ổn định, cụ thể như trong năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 1.344.743 tỷ đồng, tăng 7,86%, cao hơn so với năm 2018. Trong đó, khu vực dịch vụ tăng 8,51%, đạt mức tăng cao hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng 8,01%), có 8/9 ngành dịch vụ chủ yếu có mức tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,19%, có mức tăng trưởng thấp hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ 8,12%), trong đó, ngành công nghiệp tăng 7,51%, (cùng kỳ có mức tăng 8,17%) và ngành xây dựng tăng thấp với 0,76%, (cùng kỳ tăng 7,95%) [41]. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế, nhiều khu công nghiệp, công trình xây dựng được hình thành khiến cho thành phố gặp không ít những khó khăn với các vấn đề về môi trường như ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân. Hiện nay, trên địa bàn TP.HCM có hơn 2.000 kênh rạch. Những con kênh này đã trở thành nổi ám ảnh của người dân dù nắng hay mưa bởi nó đã bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng do các chất thải rắn, nước thải làm ảnh hưởng đến cuộc sống của những hộ dân sống ven các con kênh, con rạch này. Các nguồn nước thải từ các khu dân cư, các hộ dân, các cơ sở chế biến, nước thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất xả thải trực tiếp vào lòng sông, ao hồ khiến nguồn nước ở đây đổi màu, bốc mùi và ô nhiễm trầm trọng. Để BVMT do nước thải gây ra, chính quyền thành phố đã áp dụng nhiều công cụ kiểm soát khác nhau như: công cụ hành chính, công cụ dựa vào cộng đồng, công cụ kinh tế. Trong đó, công cụ kinh tế được xem là đem lại hiệu quả khả quan nhất vì nó được tạo lập dựa trên sự cân bằng giữa tăng 1 trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ này được thực hiện thông qua việc Nhà nước thu phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với nước thải đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chủ động hơn trong việc tạo lập kế hoạch BVMT kết hợp giữa phí BVMT và chi phí sản xuất kinh doanh vào giá thành của sản phẩm. Đến thời điểm hiện tại, những văn bản được ban hành để điều tiết về phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng có thể kể đến như: Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ về phí BVMT đối với nước thải; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân TP.HCM về việc điều chỉnh mức thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn TP.HCM; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP của Chính phủ về thoát nước và xử lí nước thải; Luật BVMT năm 2014. Những văn bản này đã thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền TP.HCM trong công tác BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tiễn, công tác thi hành các quy định về phí BVMT đối với nước thải còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lí và BVMT. Do vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về phí BVMT đối với nước thải là điều cần thiết trong hệ thống các công cụ kinh tế ở lĩnh vực BVMT. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách của mỗi quốc gia, trong đó, phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng là một công cụ kinh tế quan trọng trong việc BVMT và công tác quản lí môi trường. Đây là vấn đề cũng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nên cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu từ những khía cạnh tiếp cận khác nhau để làm rõ về vấn đề này. Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp về phí BVMT đối với nước thải, có thể kể đến như: 2 Luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào (2014) – công trình đã nghiên cứu và đưa ra thực tiễn áp dụng các công cụ kinh tế như thuế BVMT, phí BVMT, ký quỹ… Bài nghiên cứu “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam” của TS Đỗ Nam Thắng trên Tạp chí môi trường số 7 năm 2010, giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn áp dụng phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó gợi mở cho quá trình xây dựng và thực hiện về phí BVMT ở Việt Nam. Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2014) nêu ra thực trạng về vấn đề bảo vệ môi trường, qua đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về phí BVMT. Bài nghiên cứu “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: Làm sao thêm hiệu quả?” của tác giả Nguyễn Huế (2012) trên Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 6/2012. Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế “Vai trò của các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Diệu Linh (2015). Bài nghiên cứu “Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và sử dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường” của tác giả Lê Thị Thu Hằng (2018) trên Tạp chí Nghề luật, số 2 năm 2018. Sách “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2011 do PGS.TS Phạm Văn Lợi chủ biên. Nội dung trọng tâm của sách quy định pháp luật và thực tiễn thi hành một số công cụ kinh tế trong BVMT ở Việt Nam. Phân tích ưu nhược 3 điểm của các công cụ này, nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng công cụ trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hay bài nghiên cứu “Thực trạng áp dụng một số công cụ kinh tế trong quản lý môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Nhật Nguyên (2013) trên Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 5 (3/2010). Qua những bài nghiên cứu trên cho thấy rằng vấn đề phí BVMT là một trong những vấn đề khá quan trọng, được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, mỗi công trình lại nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau về phí BVMT, có công trình chỉ dừng lại ở phí BVMT đối với từng loại nước thải, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về phí BVMT đối với nước thải được áp dụng tại một địa phương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP.HCM. Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận về phí và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, từ đó đề xuất những giải pháp, phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu trong công tác BVMT. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để luận văn đạt được những mục tiêu nói trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: Một là phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí BVMT và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải như khái niệm về phí BVMT đối với nước thải theo sự điều chỉnh của pháp luật, đặc điểm, vai trò của phí 4 BVMT đối với nước thải và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải và điều kiện áp dụng để mang lại hiệu quả cao nhất. Hai là đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP.HCM trong thời gian gần đây nhằm chỉ ra những ưu điểm và bất cập của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Từ đó xác định được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải tại TP.HCM. Ba là đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật tại TP.HCM. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là: phí BVMT và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, thực trạng pháp luật về phí BVMT và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT trên địa bàn TP.HCM; kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về xây dựng pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Phí BVMT đối với nước thải là vấn đề có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng, liên quan đến hai vấn đề chính đó là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Vì vậy, phí BVMT có thể được phân tích ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của phía BVMT đối với nước thải từ những khái niệm chung đến thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. 5 Với đề tài “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả còn nghiên cứu thêm những quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước, của HĐND, UBND Thành Phố về phí BVMT đối với nước thải, từ đó phân tích và thực tiễn thi hành của những quy định này. Song song đó, tác giả sẽ tìm hiểu thêm một số quy định về phí BVMT đối với nước thải của một số quốc gia trên trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Phương pháp so sánh, phân tích, diễn giải, bình luận… được sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu, đưa ra quan niệm về các vấn đề lý luận của phí BVMT và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Với phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp vấn đề, tác giả sử dụng trong chương 2 và chương 3 để tìm hiểu về thực tiễn thi hành pháp luật và thực trạng về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn thành phố; từ đó chỉ ra một số điểm đạt được và chưa được trong công tác thực hiện để rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong việc BVMT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải và thực tiễn thi hành từ thực tiễn TP.HCM trong công tác bảo vệ 6 môi trường. Luận văn có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau: 6.1 Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần nghiên cứu và hệ thống hóa một số cơ sở quan điểm về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn TP.HCM. Hệ thống về vấn đề về phí BVMT bằng biện pháp hành chính, nêu ra những điểm tích cực và hạn chế của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, qua đó đề xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp thông tin thực tiễn và đề xuất những giải pháp mang tính tham khảo đối với các doanh nghiệp, các cơ quan quản lí, góp phần giải quyết những khó khăn thực tiễn trong việc thực hiện áp dụng công cụ kinh tế thu phí BVMT đối với nước thải. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương. Chương 1: Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải Chương 2: Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và thực tiễn thực hiện tại TP.HCM Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 7 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI 1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 1.1.1 Khái niệm và phân loại về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 1.1.1.1 Sơ lược về sự hình thành về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải Trên thế giới, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển như: ở Phần Lan áp dụng năm 1961, ở Thụy Điển từ năm 1970, ở Đức từ năm 1980…đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở nước này [38]. Còn ở các nước đang phát triển, phí nước thải được áp dụng chậm hơn, ví dụ như ở Trung Quốc và Malaysia được áp dụng từ năm 1978, ở Philippines và Thái Lan từ năm 2000… Ở Việt Nam, trước năm 2003, pháp luật hầu như không có quy định cụ thể nào về việc thu phí BVMT đối với nước thải. Trong Pháp lệnh Phí và lệ phí năm 2002, phí BVMT đối với nước thải được đề cập trong danh mục phí BVMT và thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, nhưng chưa có văn bản nào quy định chi tiết về loại phí này. Do không có cơ sở pháp lý cụ thể cho việc thu phí BVMT đối với nước thải, nên về cơ bản, loại phí này mới chỉ được nhắc tên trong quy phạm pháp luật mà chưa được đưa vào thực hiện trên thực tế. Ngày 13/6/2003, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải, có hiệu lực từ 1/1/2004. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên quy định cụ thể về phí BVMT đối với nước thải. Sau đó, Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành 8 Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT ngày 18/2/2003 hướng dẫn Nghị định số 67/2003/NĐ-CP. Theo đó, từ ngày 1/1/2004, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Nguồn thu sau đó được sử dụng để tái đầu tư cho các công trình, dự án BVMT ở địa phương. Tiếp đó, ngày 8/1/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐCP. Một số nội dung được sửa đổi như loại bỏ chất BOD khỏi chất gây ô nhiễm trong nước thải; sửa đổi, bổ sung các điều về quản lý sử dụng tiền phí thu được, về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc công bố định mức chất gây ô nhiễm, khảo sát, xác định chất gây ô nhiễm có trong nước thải công nghiệp để điều chỉnh cho phù hợp. Với mục đích hướng dẫn Nghị định số 04/2007/NĐ-CP và sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT, liên bộ này đã ban hành Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT-BTC-BTN&MT với nội dung sửa đổi chủ yếu là các quy định về kê khai nộp phí; trách nhiệm của đối tượng nộp phí, của các cơ quan có liên quan; việc quản lý sử dụng số tiền phí thu được. Tiếp đến, ngày 22/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2010/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 67/2003/NĐ-CP. Theo văn bản này, phần phí còn lại đối với nước thải (80% trên tổng số tiền phí BVMT đối với nước thải công nghiệp thu được) sẽ không được chi cho ngân sách địa phương như theo quy định tại Thông tư số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT nữa, mà được nộp 100% vào ngân sách địa phương để sử dụng cho việc BVMT, đầu tư mới, nạo vét cống rãnh, duy tu, bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương, bổ sung vốn hoạt động cho 9 Quỹ BVMT của địa phương, trả nợ vay đối với các khoản vay của các dự án thoát nước thuộc nhiệm vụ của ngân sách địa phương. Để tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về phí BVMT phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, ngày 29/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải thay thế cho những văn bản trước đây quy định về loại phí này. Cùng thời điểm đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTN&MT ngày 15/5/2013 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 25/2013/NĐ-CP. Sự ra đời của những văn bản này đã khắc phục một số những vướng mắc về phí BVMT đối với nước thải ở những văn bản trước như: xác định đầy đủ và bao quát các đối tượng nộp phí, tránh tình trạng thu phí trùng có thể xảy ra; khắc phục khó khăn trong việc xác định lưu lượng nước thải chủ yếu thông qua hệ thống cung cấp nước sạch; cải cách thủ tục kê khai và thẩm định tờ khai phí BVMT đối với nước thải công nghiệp. Ngày 16/11/2016, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số 154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2017) đã quy định rõ các đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải bao gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Ngoài ra, Nghị định còn bổ sung quy định hộ gia đình là người nộp phí do Nghị định số 25/2013/NĐ-CP đã quy định đối tượng chịu phí BVMT là nước thải từ hộ gia đình nhưng lại chưa quy định hộ gia đình là người nộp phí. Với đối tượng miễn phí BVMT được bổ sung hai thêm đối tượng là: nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy, hải sản của ngư dân và nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị vận hành quản lý, vận hành hệ thống thoát nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định xả thải ra môi trường. 10 Như vậy, có thể thấy rằng, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Những quy định của pháp luật về loại phí này luôn được ban hành kịp thời, đúng lúc, đáp ứng được yêu cầu của thực tế xã hội, tạo nên khung pháp lý rõ ràng và cụ thể cho công tác thu, nộp, quản lý và sử dụng phí BVMT đối với nước thải đạt hiệu quả cao nhất trong công tác BVMT. 1.1.1.2 Cơ sở lý luận và pháp lý của phí bảo vệ môi trường đối với nước thải Nước thải là nguồn nước được thải ra từ các hoạt động kinh doanh, sản xuất công nghiệp, thương mại – dịch vụ và các hoạt động sống của con người. Trong đó, nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt là hai loại nước thải đáng quan tâm nhất trong quá trình đô thị hóa hiện nay. Nước thải sinh hoạt là loại nước được thải ra ngay sau khi sử dụng cho các mục đích sinh hoạt từ các trường học, bệnh viện, cơ quan…Loại nước thải này chưa hàm lượng cao chất thải rắn, dầu mỡ và một lượng đáng kể thức ăn cho vi khuẩn (Ni tơ và Phốt pho) Nước thải công nghiệp là nước thải được sinh ra trong quá trình sản xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và hoạt động phục vụ sản xuất. Trong nước thải công nghiệp thường được phân loại theo ngành công nghiệp sản sinh ra nước thải đó, với đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh, đồng nghĩa với việc cũng có đa dạng các loại nước thải công nghiệp được thải ra hàng ngày. Với mục tiêu bảo vệ môi trường nói chung, giảm thiểu số lượng nước thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường nói riêng, từ đó hạn chế các chủ thể xả thải, đồng thời, có được nguồn tài chính sử dụng để đầu tư trở lại cho hoạt động BVMT, việc tiến hành thu phí BVMT đối với nước thải được xác định là hữu hiệu hơn cả. Bên cạnh đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước 11 thải được xác định là công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những nước phát triển và đem lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở những nước này [35]. Ngoài việc xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, sự ra đời của phí BVMT đối với nước thải cũng được dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở chính trị, pháp lý nhất định. Thứ nhất, về cơ sở lý luận. Theo thông lệ quốc tế, phí BVMT đối với nước thải là công cụ trực tiếp đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận đó là, nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” (PPP) và “Người hưởng thụ phải trả tiền” (BPP). Đối với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” bắt nguồn từ các sáng kiến của OECD đề ra vào năm 1972 và mở rộng năm 1974. Theo định nghĩa chính thức khởi xướng đầu tiên bởi khối OECD, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả là nguyên tắc được dùng để phân bổ chi phí cho các biện pháp ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nhằm khuyến khích việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên môi trường khan hiếm và tránh làm ảnh hưởng tới đầu tư và thương mại quốc tế [39, Tr.93-117]. “Người gây ô nhiễm phải trả” có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm (doanh nghiệp, cá nhân hay chính quyền) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự phá hoại môi trường do hoạt động của họ gây ra. Điều này sẽ khuyến khích các chủ thể đó giảm thiểu, điều tiết hành vi của mình, ít ra chi phí biên của việc giảm ô nhiễm bằng chi phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Để làm được điều đó thì tổng chi phí sản xuất ra một hàng hóa, dịch vụ bao gồm chi phí của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó. Việc sử dụng không khí, đất hay nước cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải cũng là sử dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình 12 trạng định giá không tính đủ chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và không xác định rõ quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc khai thác và sử dụng quá mức và có thể làm phá hủy hoàn toàn nguồn tài nguyên đó. Nguyên tắc này buộc người gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi phí sản xuất (chi phí sử dụng tài nguyên và làm ô nhiễm) thông qua các công cụ như thuế, lệ phí… Nguyên tắc PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt do ô nhiễm gây ra. Việc buộc những người gây ô nhiễm trả tiền là một trong những biện pháp tốt nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây ra làm thất bại thị trường, đảm bảo cho môi trường ở mức chấp nhận được. Đối với nguyên tắc “người thụ hưởng phải trả tiền”, nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế, định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Đồng thời, nguyên tắc này cũng đưa ra giải pháp BVMT với cách nhìn nhận mới, chú trọng tới việc phòng ngừa và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả của nó có thể đạt được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và khả năng sử dụng tiền hợp lý cho các mục đích BVMT. Đối nghịch với người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người được hưởng thụ một môi trường đã cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc này là tất cả những ai hưởng thụ do có được môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì đều phải nộp phí. Mức tính phí theo đầu người càng cao thì càng có nhiều người nộp phí, thì số tiền thu được sẽ càng nhiều. Số tiền này có thể do các cá nhận muốn BVMT, hoặc do những cá nhân không phải trả tiền cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm nộp. Tuy nhiên, hạn chế của nguyên tắc này đó là tiền không phải do các chủ thể gây ô nhiễm trực tiếp trả 13 nên sự khuyến khích đối với việc BVMT khó có thể đạt được hiệu quả cao nhất. Thứ hai, về cơ sở pháp lý, bảo vệ môi trường luôn được Đảng Bộ, Nhà nước và chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm, là một trong những chủ trưởng, chính sách và nhiệm vụ quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để khôi phục hiện trạng môi trường và BVMT nói chung cũng như xử lý chất thải khắc phục nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải gây ra, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ cả ba biện pháp: hành chính – kinh tế giáo dục, trong đó, biện pháp kinh tế được xem là quan trọng nhất. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, do vậy, để quán triệt được các nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” và “người thụ hưởng phải trả tiền” và đưa những nguyên tắc này vào cuộc sống thì nó cần phải được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Cho nên, việc thu phí BVMT đối với nước thải cần căn cứ vào hệ thống pháp luật môi trường và những văn bản pháp luật có liên quan. Trước đây, Hiến pháp 1992 đã khẳng định, BVMT là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta xây dựng các quy phạm pháp luật về phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số 24-NQ-TW ngày 03/06/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT đã ghi nhận, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được phát triển. Kế thừa những nội dung trên, Điều 43 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan