Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền ...

Tài liệu Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền đông nam bộ

.DOC
170
115
141

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO XUÂN THÀNH PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 9.38.01.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi cam đoan Luận án được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc và kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân thực, cẩn trọng, có trích dẫn nguồn cụ thể trong luận án./. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Đào Xuân Thành MỤC LỤC MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..........................................8 1.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài...........................................................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam....................................................................... 15 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án......................................................................................................................... 24 Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ XÃ HỘI........................................................... 28 2.1. Nhận thức chung về các tội phạm xâm phạm trật tự xã hội..................................28 2.2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội................................................................................................................. 37 2.3. Các nguyên tắc của phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội......................45 2.4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của phòng ngừa tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội....................................................................................................... 49 2.5. Chủ thể, nội dung, biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội.......57 Chương 3. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ............................................................................................................................... 72 3.1 Tình hình, đặc điểm các tội tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ thời gian qua........................................................................................ 72 3.2 Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh Đông Nam bộ thời gian qua............................................................... 89 3.3 Nhận xét, đánh giá hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh Đông Nam bộ thời gian qua.............................................................103 Chương 4. DỰ BÁO VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ...............................................................................114 4.1. Dự báo tình hình các tội xâm phạm về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong thời gian tới.............................................................114 4.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ.........................................................................123 KẾT LUẬN..............................................................................................................149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................152 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 11 BLHS Bộ luật Hình sự 22 CAND Công an nhân dân 33 XHCN Xã hội chủ nghĩa 44 CQĐT Cơ quan Điều tra 55 HĐND Hội đồng nhân dân 66 VKSND Viện Kiểm sát nhân dân 77 TAND Tòa án nhân dân 88 THTP Tình hình tội phạm 99 TTXH Trật tự xã hội 110 UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm qua đó làm giảm và tiến tới loại bỏ tình hình tội phạm. Về mặt lý luận phòng ngừa tội phạm có thể được nghiên cứu ở các cấp độ và phạm vi khác nhau như: phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tội nhóm tội phạm, tội phạm cụ thể trên địa bàn cả nước hoặc trên những địa bàn của từng khu vực, địa phương khác nhau. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc quan trọng của phòng ngừa tội phạm là nguyên tắc cụ thể hóa các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phòng ngừa tội phạm phải gắn với những địa bàn với những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử riêng và với các tội phạm và nhóm tội phạm cụ thể thì cần có những giải pháp phòng ngừa phù hợp với những đặc điểm riêng đó. Vùng Đông Nam Bộ bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, có tổng diện tích vào loại nhỏ so 2 với các vùng khác (23,6 nghìn km ), số dân vào loại trung bình (15 triệu người, năm 2014), nhưng lại dẫn đầu cả nước về GDP, giá trị sản lượng công nghiệp và giá trị hàng xuất khẩu. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, xã hội cùng với mặt trái của kinh tế thị trường cũng mang đến cho các tỉnh miền Đông Nam Bộ không ít những nguy cơ, thách thức, đặc biệt là trong công tác giữ gìn trật tự xã hội trên địa bàn. Những năm qua, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ có diễn biến phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Bên cạnh đó, Công tác điều tra truy tố, xét xử các tội xâm phạm trật tự xã hội ở khu vực này chưa đạt hiệu quả cao, đặc biệt đối với một số loại tội phạm xảy ra phổ biến ở địa bàn thành phố, thị xã, công nghiệp như các tội vi phạm quy định về tham gia giao thông, đánh bạc và tổ chức đánh bạc, gây rối trật tự công cộng, chứa và môi giới mại dâm… Điều đó cho thấy, hoạt động phòng ngừa tội phạm của các cơ quan chức năng vẫn chưa hiệu quả. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến 1 hoạt động phòng ngừa tội phạm đó là việc xây dựng và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm chưa khoa học và khả thi chưa tốt, chưa gắn với điều kiện đặc thù mang tính chất vùng miền và chưa cụ thể hóa các biện pháp phòng ngừa đối với những nhóm tội khác nhau trong phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong phòng ngừa tội phạm chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Có trường hợp do nhận thức cảm tính dẫn đến hoạt động phòng ngừa thiếu khoa học, thiếu đồng bộ và khách quan; nhiều cơ quan, ban ngành chưa xác định đúng vai trò, vị trí, tính chất, ý nghĩa, nội dung và mục đích của hoạt động phòng ngừa tội phạm nên đã tiến hành một cách hời hợt, qua loa, thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến mắc phải những sai lầm, thiếu sót, gây ra những khó khăn, phức tạp cho hoạt động phòng ngừa tội phạm dẫn đến phát sinh tội phạm làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khác trong đời sống pháp lý, kinh tế, chính trị xã hội và gây ra những bức xúc trong đời sống nhân dân. Về lý luận, lý luận về phòng ngừa tội phạm nói chung đã và đang được nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy nhiên, lý luận về phòng ngừa tội phạm cũng đang đòi hỏi cần cụ thể hóa lý luận phòng ngừa tội phạm nói chung vào những nhóm tội phạm, tội phạm cụ thể ở các địa bàn khác nhau đồn thời qua đó bổ sung, làm phong phú thêm lý luận về phòng ngừa tội phạm. Mặt khác, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn Vùng Đông Nam bộ nhằm cung cấp cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả nhóm tội phạm xâm phạm trật tự xã hội ở khu vực này. Từ yêu cầu về mặt lý luận và thực đó, đặt ra nhu cầu cần cụ thể hóa lý luận về phòng ngừa tội phạm vào đánh giá thực tiễn phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ. Đồng thời qua thực tiễn phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự xã hội Vùng Đông Nam bộ chỉ ra những yếu tố đặc thù của khu vực về tình hình tội phạm, đặc biệt là các yếu tố làm phát sinh nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm xâm phạm trật tự xã hội của khu vực này nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các biện pháp phòng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm về trật tự xã 2 hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ là rất cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu của hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm trật tự xã hội trên các tỉnh miền Đông Nam Bộ nói riêng, việc nghiên cứu đề tài: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ” là có ý nghĩa về mặt lý luận, thực tiễn và có tính cấp thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là thông qua lý luận về phòng ngừa tội phạm làm rõ thêm những vấn đề mặt lý luận và dánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn miền Đông Nam bộ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước có liên quan đến công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ, trên cơ sở đó rút ra những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển trong luận án; Hai là, phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội dưới góc độ nghiên cứu của Tội phạm học. Ba là, trình bày và phân tích thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Bốn là, đưa ra các dự báo khoa học về tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ và đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. Các tội xâm phạm trật tự xã hội có phạm vi rất rộng, bao gồm nhiều nhóm tội, tuy nhiên luận án chỉ tập trung nghiên cứu các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thuộc Chương XIX Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Chương XXI Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về không gian, luận án khảo sát thực trạng công tác phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam bộ; thời gian khảo sát từ năm 2007 - 2017. Về phạm vi chủ thể phòng ngừa luận án chỉ tập trung vào hệ thống các chủ thể phòng ngừa tội phạm xâm phạm TTTXH trên địa bàn các tỉnh Đông Nam Bộ và tập trung vào các hoạt động phòng ngừa của chủ thể nòng cốt là lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH của Công an nhân dân. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Về phương pháp luận, để đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tội phạm. Ngoài phương pháp luận kể trên, để phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ và mục đích của đề tài, luận án sử dụng hợp lý và linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp hệ thống; Phương pháp điều tra, khảo sát; phương pháp hội thảo và phương pháp tọa đàm chuyên gia. Đối với từng nội dung cụ thể của luận án, để trực tiếp giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu như sau: 4 (1) Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tài liệu thứ cấp; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp lịch sử được sử dụng để làm rõ cơ sở lý luận về các vấn đề nghiên cứu chủ yếu được áp dụng ở Chương I và Chương II của luận án. (2) Phương pháp nghiên cứu trực tiếp thông qua khảo sát thực tế; phỏng vấn, tiếp xúc trao đổi, tọa đàm với các nhà khoa học, các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác phòng ngừa tội phạm về trật tự xã hội; phương pháp điều tra, thống kê để thu thập thực tiễn phòng ngừa tội phạm về trật tự xã hội. Các phương pháp này chủ yếu được áp dụng ở Chương II, III của luận án. (3) Phương pháp so sánh được áp dụng ở Chương I nhằm phân tích, đánh giá, từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể áp dụng ở Việt Nam; phương pháp phân tích - dự báo khoa học được áp dụng ở chương III của luận án nhằm định hướng và kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm về trật tự xã hội. 5. Điểm mới của luận án 5.1. Điểm mới về phương pháp nghiên cứu - Luận án có áp dụng phương pháp xác định hệ đặc điểm chuyên biệt để đánh giá mức độ phạm tội xâm phạm trật tự xã hội đối với sáu đơn vị hành chính ở miền Đông Nam Bộ; đặc tả mức độ phạm tội theo các cấp độ khác nhau, để nhận thấy những đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước ở các địa phương, đã tác động vào người phạm tội gây ra tình hình tội xâm phạm trật tự xã hội như hiện nay. - Luận án kết hợp nhuần nhuyễn, đan xen giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình luận giải tình hình tội phạm, nguyên nhân điều kiện, nhân thân người phạm tội và các giải pháp phòng ngừa tội xâm phạm trật tự xã hội. 5.2. Điểm mới về quan điểm tiếp cận Về vấn đề nguyên nhân của tội xâm phạm trật tự xã hội, về phòng ngừa tình hình tội xâm phạm trật tự xã hội, luận án triển khai áp dụng quan điểm tiếp cận mới, có bản chất mác-xít như sau: - Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm chính là việc nghiên cứu quy luật của sự phạm tội; Nguyên nhân và điều kiện của tìnhhình tội phạm là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học; Nguyên nhân của tình hình tội 5 phạm là sự tác động qua lại giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm-sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân con người trong những hoàn cảnh, tình huống nhất định đã dẫn tới việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật hình sự quy định là tội phạm; Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm phải được thực hiện thông qua việc làm rõ các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm ở môi trường sống và ở chính bản thân người phạm tội trong các tình huống khác nhau. - Luận án tiếp cận các biện pháp phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội phạm học theo hai nội dung chính, bao gồm: Biện pháp loại trừ tội phạm và biện pháp ngăn chặn tội phạm.Theo đó, biện pháp loại trừ tội phạm là các biện pháp mà Đảng và Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội và mọi công dân tiến hành nhằm triệt tiêu các yếu tố làm phát sinh tội phạm trong xã hội, nhằm nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội và loại trừ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến sự hình thành nhân cách của từng cá nhân. Còn biện pháp ngăn chặn tội phạm thì có các địa chỉ tác động rõ ràng, vốn đang tồn tại trong xã hội. 5.3. Điểm mới mang tính tổng thể Thứ nhất, luận án là công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu về tội phạm học của tội xâm phạm trật tự xã hội. Thứ hai, luận án được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết XII của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương kiên trì và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, áp dụng để giải quyết ba vấn đề lớn được đặt ra từ tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội ở Việt Nam. Đó là: - Áp dụng lý luận nhận thức Mác-xit để nhận diện và đánh giá thực trạng của tình hình tội xâm phạm trật tự xã hội ở Việt Nam trong hơn 10 năm qua; - Vận dụng lý luận Mác-xít về nguyên nhân, điều kiện, tức là về quan hệ nhânquả, để chỉ ra những yếu tố làm phát sinh tình hình tội xâm phạm trật tự xã hội ở - Kết hợp kết quả nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam và lý luận tội phạm học Mác- xít về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, luận án đã kiến giải được hệ 6 thống các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội một cách đầy đủ và biện chứng. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu, sơ đồ, biểu đồ, Luận án được kết cấu thành 04 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ Chương 2: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội Chương 3: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ Chương 4: Các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Nghiên cứu về tội phạm học nói chung và phòng ngừa tội phạm nói riêng, cũng như nghiên cứu về phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội đã được nhiều nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới quan tâm. Hiện nay cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố về phòng ngừa tình hình các tội phạm cũng như phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau: 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Tội phạm học là khoa học ra đời khá muộn so với nhiều ngành khoa học xã hội khác như chính trị, triết học, kinh tế hay luật học. Trên thế giới hiện nay, các nhà tội phạm học đã đưa ra nhiều khái niệm về tội phạm thể hiện trong các trường phái tội phạm học khác nhau. Có trường phái coi tội phạm học như là một lính vực kiến thức về khía cạnh xã hội của tội phạm. Tiêu biểu cho trường phái này là các nhà tội phạm học Edwin H. Suntherlan, Donald R. Cressey, David F. Luckenbill. Edwin H. Suntherlan cho rằng: Tội phạm học là lĩnh vực tri thức tập trung vào các vấn đề xã hội của tội phạm. Tội phạm học tập trung vào 3 lĩnh vực cơ bản: xã hội học pháp luật, phân tích nguyên nhân của tội phạm, kiểm soát tội phạm [81]. Tiếp theo đó, quan điểm của Edwind H. Suntherlan đã được nhà tội phạm học Donald R.Cressey bổ sung: Tội phạm học lính vực kiến thức chủ yếu nghiên cứu về hành vi phạm tội và tội như một hiện tượng xã hội. Tội phạm học cũng nghiên cứu quá trình làm luật, vi phạm pháp luật và phản ứng đối với việc vi phạm pháp luật [82] Các tác giả Rob White và Fiona Haines nghiên cứu về ngành khoa học theo khía cạnh nguyên nhân của tội phạm, khía cạnh xã hội của vấn đề và viết: “Tội phạm học là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập, có phạm vi nghiên cứu của tội phạm học rất rộng liên quan đến khía cạnh xã hội học pháp luật, nguyên nhân của tội phạm và sự phản ứng của xã hội đối với tội phạm… với sự khảo sát sâu hơn về các thể chế của tư pháp hình sự… [83]. Các nhà tội phạm học thời kỳ đó khi nghiên cứu không có chung phương pháp luận, do đó dẫn đến nhiều quan điểm, nhiều trường 8 phái, tự do. Tuy nhiên, sang thế kỷ 21, các nhà tội phạm học đã đưa ra được nhiều quan điểm chung về tội phạm học và các công trình nghiên cứu về tội phạm học đã toàn diện và sâu sắc hơn về đối tượng, đặc tính khoa học. Trường phái tội phạm học thứ hai cho rằng tội phạm học có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân của tội phạm. Tiêu biểu cho trường phái này là quan điểm của Genero F. Vito, Ronald M. Holmes, Calarence Ray Jeferry. Trường phái này cho rằng: Tội phạm học nghiên cứu 3 lĩnh vực: phát hiện tội phạm, xử lý tội phạm và giải thích về tội phạm cũng như hành vi phạm tội [84] Trường phái thứ ba về tội phạm học coi tội phạm học như là khoa học nghiên cứu về tội phạm với những đặc tính riêng biệt. Đại diện cho trường phái này là các nhà tội phạm học như Clemens Bartollas, Simon Diniz, Gegg Barak. Tác giả Gregg Barak cho rằng: Tội phạm học là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành với kiến thức đa dạng về nguyên nhân của tội phạm, hành vi của người phạm tội, thực tiễn phòng ngừa tội phạm và các chính sách phòng ngừa tội phạm.[85] Tiến sĩ Tom O’Connor làm việc tại Justice Studies Departement North Carolina Weslyeyan Colegge Roky Mount, Nc 27804 thì cho rằng: Tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tỷ lệ tội phạm, nguyên nhân dẫn tới cá nhân hay nhóm ngươi phạm tội, phản ứng của cộng đồng xã hội đối với tội phạm [86] Về mặt phương pháp luận, công trình xác định tội phạm là một hiện tượng xã hội, phương hướng đấu tranh chống tội phạm cơ bản nhất là phòng ngừa tội phạm. Do đó, phải xác định được nguyên nhân dẫn đến tội phạm và các biện pháp để loại trừ các nguyên nhân đó. Qua những phân tích ở trên cho thấy đây là một công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn diện, đã làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm, cơ sở pháp lý chung của phòng ngừa tội phạm trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tác giả cũng đã phân tích phương pháp, đặc trưng, chủ thể chính, các chủ thể phối hợp, các đối tượng của hoạt động phòng ngừa tội phạm trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy công trình nghiên cứu đã được thực hiện lâu nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam, nó vẫn có giá trị tham khảo để nghiên cứu cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn và làm rõ cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng ngừa tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm trật tự xã hội và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu 9 quả các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm về trật tự xã hội của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội. Tội phạm học Xã hội chủ nghĩa cũng dành sự quan tâm lớn đối với việc nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tội phạm. Có thể kể một số công trình tiêu biểu củ tội phạm học xã hội chủ nghĩa như: - Shestakob D.A, “Tội phạm học”, Mátxcơva, Liên bang Nga, Nhà xuất bản “Trung tâm pháp lý, Prees”, năm 2006 [87]. Công trình đã chỉ rõ cơ sở lý luận của tội phạm học và những lĩnh vực mới của tội phạm học. Trong nội dung cơ sở lý luận của tội phạm, tác giả đã đề cập đến hành vi phạm tội phổ biến, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội trong xã hội. Bên cạnh đó, đối với nội dung những lĩnh vực mới của tội phạm học tác giả đã tập trung đề cập hai loại tội phạm mới đó là tội phạm gia đình và tội phạm chính trị. Tác giả đã chỉ ra biện pháp phòng ngừa tội phạm là tìm ra các nguyên nhân của tội phạm, từ đó làm triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu không đề cập đến hoạt động phòng ngừa tại một địa bàn cụ thể gắn với tính chất đặc thù liên quan đến các tội xâm phạm trật tự xã hội. Minkovskij G.M trong công trình Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm”.[88] đã nghiên cứu toàn diện, đã làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm, cơ sở pháp lý chung của phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã phân tích phương pháp, đặc trưng, chủ thể chính, các chủ thể phối hợp, các đối tượng của các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy công trình nêu trên nghiên cứu đã lâu nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nó vẫn có giá trị tham khảo hữu ích để nghiên cứu cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn và làm rõ cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng ngừa tội phạm; đề xuất các giải pháp phòng ngừa một nhóm tội phạm cụ thể hay phòng ngừa tội phạm ở một địa bàn cụ thể Tac giả Melinikova E.B trong công trình “Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa” [88], chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu, như: sự thiếu thốn về vật chất của tội phạm, trong xã hội tư sản, hoàn cảnh vật chất ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân thân con người về cách xử sự của họ, sự ảnh hưởng này lại càng lớn đối với những người chưa thành niên, khi mà họ 10 chưa hoàn toàn được đặt vào trong các mối quan hệ xã hội phức tạp, không có kinh nghiệm sống, không có nghề nghiệp, trình độ học vấn chưa vững chắc... Bên cạnh đó, sự chênh lệch giữa giàu và nghèo làm ảnh hưởng tới cách xử sự của thanh, thiếu niên trong các gia đình; trong đó, có hai trường hợp đối ngược nhau cùng xảy ra, trường hợp thứ nhất phát sinh từ kết quả của các điều kiện vật chất và điều kiện xã hội khó khăn của con người; trường hợp thứ hai, kết quả của những nhu cầu quá mức có thể thoả mãn được, phát sinh trong các tầng lớp giàu có trong xã hội. Quan trọng hơn, quan niệm về quyền tự do hành động mà không bị trừng phạt, khi người nghèo phạm tội thì thường xuyên bị đưa ra toà để làm gương cho người khác, trong khi người giàu phạm tội thì chỉ bị xem xét, giải quyết theo cách thức ngoài toà án. Tác giả đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản và nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, từ những nguyên nhân đó, để nghiên cứu và đánh giá những giải pháp được đề xuất nhằm phòng ngừa các tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa trong những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, với tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là khoa học, kỹ thuật phát triển như hiện nay, các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm trong lứa tuổi thanh, thiếu niên được phân tích trong công trình nghiên cứu trên không còn phù hợp. Bên cạnh đó, công trình của tác giả Melinikova E.B cũng mới chỉ phân tích và làm rõ nguyên nhân phạm tội của một nhóm người là những người chưa thành niên. Tóm lại, nghiên cứu ở một số nước cho thấy, đã có một số công trình nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự xã hội nói riêng, các công trình đã lập luận và biện giải những vấn đề cần thiết phải được hoàn thiện để đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm nói chung và các tội xâm phạm trật tự xã hội nói riêng. Có thể nói kết quả nghiên cứu của những công trình này giúp tác giả nhận thức đúng đắn hơn về công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự xã hội nói riêng và được tiếp thu có chọn lọc trong phần cơ sở lý luận của đề tài luận án. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu các công trình đã công bố ở một số nước nêu trên còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề, như: cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, tổ chức các mô hình phòng ngừa tội phạm có liên quan đến hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và tội 11 phạm một số tội danh cụ về trật tự xã hội nói riêng, các kết quả này chưa nghiên cứu được về hoạt động phòng ngừa tội phạm của một nhóm các tội danh mà chỉ nghiên cứu ở một tội danh riêng lẻ. Nhiều vấn đề mới chỉ dừng lại ở mức độ thông tin, chưa đi vào vấn đề cụ thể mà luận án sẽ đề cập là phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm trật tự xã hội và gắn với địa bàn khảo sát trực tiếp là các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Việc tìm kiếm các tài liệu nghiên cứu của các tác giả về vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu rất khó khăn. Do đây là hoạt động nghiệp vụ của lực lượng chuyên biệt nên không xuất bản, hòa nhập vào Việt Nam. 1.1.2. Nghiên cứu về phòng ngừa một số tội phạm cụ thể và các tội phạm xâm phạm trật tự xã hội Các công trình nghiên cứu về phòng ngừa một số tội phạm cụ thể, trong đó có các tội thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự xã hội đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đề cập đến. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau: - Nghiên cứu và phòng ngừa các tội xâm phạm thân thể, Tác giả G.I. Xetraưrop, (Khoa học nghiên cứu tội phạm, Viện nghiên cứu khoa học Công an, Hà Nội 1975, Chương XVIII) [90]. Trong tác phẩm của mình tác giả G.I. Xeưtraưrop đã đưa ra các đặc điểm về tội phạm học đối với những vụ giết người và gây thương tích nặng, đó là: Những đặc điểm về mặt tội phạm học của tội giết người và tội cố ý gây thương tích nặng được xem xét chung, vì những nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm này thông thường có nguồn gốc giống nhau. Xét về động cơ các tội giết người và tội cố ý gây thương tích nặng cũng giống nhau. Các cuộc nghiên cứu điển hình cho thấy: Số lượng các vụ cố ý giết người có chiều hướng giảm dần. Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm giết người và cố ý gây thương tích được bắt nguồn từ những vấn đề sau: “Trước hết loại tội phạm này có liên quan đến trình độ văn hoá thấp, kết hợp trình độ văn hoá thấp với nghiện rượu của bị cáo đã dẫn họ đi đến gây ra tội phạm nặng”[90.Tr.65]. Thái độ bàng quan của quần chúng nhân dân là điều kiện để tội phạm giết người, gây thương tích có thể xảy ra, bên cạnh đó những điều kiện như những thiếu sót trong hoạt động tuần tra của Cảnh sát và các đội dân phòng; công tác quản lí vũ khí thô sơ không chặt chẽ cũng là những điều kiện của loại tội phạm này. 12 Để phòng ngừa tội phạm xâm phạm thân thể của con người trước hết cần áp dụng tốt các biện pháp phòng ngừa xã hội nói chung. Bên cạnh đó, cần chú ý áp dụng các biện pháp khác, như: Đối phó kịp thời và nhạy bén đối với bất cứ hành vi vi phạm xã hội nào; Tăng cường tuần tra kiểm soát, đảm bảo trật tự ở những nơi công cộng; Nâng cao tính tích cực của công dân trong đấu tranh với loại tội phạm này; Đấu tranh triệt để với những tình trạng đem vũ khí bất hợp pháp và tuyên truyền để nhân dân đem nộp vũ khí mà họ còn cất giữ; tuân thủ triệt để điều lệ về giám sát hành chính đối với những người được tha ra khỏi nhà tù và thiết lập sự kiểm tra của xã hội đối với những người này; nâng cao hiệu quả công tác trinh sát của cơ quan Cảnh sát; kịp thời khám phá và truy xét có chất lượng những vụ án về các tội phạm xâm phạm đến thân thể con người . Trong sách “Bạo lực trong các trường phổ thông”[91], Canueda cho rằng: ở Nhật Bản, bạo lực trong các trường phổ thông là một vấn đề đáng quan tâm trong tội phạm học hiện đại. Tình trạng các nhóm lưu manh càn quấy đã đe doạ học sinh và các thầy cô giáo, hành vi phạm tội của chúng đã gây ra thương tích, giết người và các thiệt hại khác. Tuy nhiên, các nhóm càn quấy nói trên có tới 95% là các em học sinh hư hỏng tham gia. Điều gì đã đưa các em học sinh tới những hành vi bạo lực? Theo tác giả Can Ueda thì nguyên nhân trước hết là sự dồn nén tâm lí và hình thành ý thức phá hoại; Một số do rèn luyện kém trở nên lỗ mãng, ngỗ ngược, thù hằn, bực tức, ghen tuông; do ảnh hưởng của phim ảnh, sách báo có nội dung bạo lực rùng rợn; sự đô thị hoá nhanh phá vỡ xã hội truyền thống, làm phát triển tư tưởng cá thể, thói ích kỷ… - Sách tham khảo Bàn tay đen của Ngũ Minh Tâm biên soạn, dịch từ bản tiếng Trung, Nhà xuất bản Kim Thành, Bắc Kinh do Nguyễn Thị Nại dịch, được nhà xuất bản CAND phát hành năm 2004 [93]. . Cuốn sách này đề cập đến nhiều vấn đề, như: Trộm cắp, mại dâm, thổ phỉ, lừa đảo… trong đó có 01 chương (từ trang 70 đến trang 111) đề cập đến thực trạng bắt cóc trong xã hội đương đại của Trung Quốc với các thủ đoạn được minh chứng bằng các vụ phạm tội cụ thể và cách thức mà lực lượng Cảnh sát của Trung Quốc đại lục phối hợp với Cảnh sát Hồng Công, Ma Cao triệt phá các băng nhóm tội phạm bắt cóc tống tiền. 13 - Về phòng ngừa các loại tội cụ thể, như tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã có nhiều công trình nghiên cứu đề xuất các giải pháp phòng ngừa tội phạm này. Tại Mỹ có những tạp chí như: Business Traveler của Washington Pots, từ năm 2003 đến năm 2012 đã viết 42 bài báo cảnh báo các thương gia, người nổi tiếng có thể trở thành nạn nhân của các vụ bắt cóc. Trong các bài viết của những tạp chí này về tội phạm BCNCĐTS thường đưa ra các khuyến cáo về địa điểm nguy hiểm không nên đến; nêu lên thủ đoạn của tội phạm bắt cóc tống tiền ở từng khu vực, từng quốc gia; đưa ra những giải pháp định hướng cho người có thể trở thành nạn nhân trong các vụ bắt cóc, như: Không nên chống cự nếu đối tượng có vũ khí, cấy các thiết bị định vị trên cơ thể; cấy các con chíp điện tử trên người để định vị và xác định chính xác tọa độ của người bị bắt cóc thông qua thiết bị vệ tinh; lắp đặt thiết bị điện tử có khả năng định vị trên các phương tiện cá nhân để có thể giúp cho việc giải cứu con tin được thuận lợi… Trước vấn nạn ngày càng tăng của loại hình tội phạm này, nhiều quốc gia đã có những biện pháp riêng để đối phó. Nước Mỹ đã triển khai trên toàn quốc một hệ thống cảnh báo có tên “Amber Alert” nhằm tuyên truyền công khai những vụ bắt cóc trẻ em và tội phạm bắt cóc con tin đòi tiền chuộc. Nước láng giềng Canada cũng xây dựng một hệ thống cảnh báo tương tự để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm BCNCĐTS. Đây là một hệ thống có sử dụng các bảng hiệu điện tử quảng cáo trên đường cao tốc và mạng lưới đài phát thanh truyền hình địa phương để thông báo tên, nhận dạng những trẻ em, người bị bắt cóc cũng như bất cứ một phương tiện giao thông nào bị nghi ngờ có liên quan đến vụ bắt cóc. Việc “Amber Alert” được triển khai đã giúp phát hiện và cứu được khá nhiều nạn nhân. Tính đến tháng 3/2012, hệ thống đã giúp tìm kiếm được 1154 đứa trẻ bị bắt cóc tại Mỹ cũng như Canada [94]. Còn tại Trung Quốc, chính quyền đã áp dụng những biện trừng phạt nghiêm khắc (cao nhất là bản án tử hình) để đối phó với tình trạng bắt cóc và buôn bán phụ nữ, trẻ em ngày càng tăng trong vài năm gần đây. Đối với các quốc gia tại châu Âu như Pháp, Anh, Đức, Thụy Điển, Italia, Thụy Sĩ… các thiết bị cảnh báo bắt cóc của các gia đình được kết nối trực tiếp đến các trung tâm cảnh sát để hỗ trợ khi gặp nạn. Bên cạnh đó, các kênh truyền hình, các trang thông tin điện tử luôn đưa tin nhanh chóng về vụ phạm tội bắt cóc tống tiền xảy ra và đưa ra các khuyến cáo để phòng ngừa loại tội phạm này. Tại các điểm nóng của 14 các quốc gia bất ổn về chính trị và có chiến sự (khu vực Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á), chính quyền và các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức cứu trợ nhân đạo luôn đưa ra khuyến cáo cho công dân hoặc người nước ngoài không xuất hiện tại những khu vực nguy hiểm để đề phòng các tổ chức tội phạm, phiến quân nổi loạn, ly khai bắt cóc đòi tiền chuộc. Bên cạnh đó, tại các tuyến đường biển huyết mạch như eo biển Malắcca hoặc vùng biển Xômali thường xuyên xảy ra các vụ bắt cóc tàu thuyền đòi tiền chuộc với số lượng lớn, để phòng ngừa, ngăn chặn loại tội phạm này, lực lượng hải quân của Nato (khối quân sự Bắc Đại tây dương), Mỹ, Pháp, Anh, Đức thường xuyên sử dụng tàu chiến, máy bay để truy đuổi, tấn công các nhóm vũ trang chuyên bắt cóc đòi tiền chuộc. 1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tội phạm nói chung Nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tội phạm ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu như sau: - Sách tham khảo: Tội phạm học Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, năm 2013 của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm [78] có nội dung đề cập toàn diện đến công tác phòng ngừa các loại tội phạm, trong đó có tội phạm xâm phạm trật tự xã hội. Tác giả chỉ ra các nguyên nhân, điều kiện của một số loại tội phạm điển hình, như: Tội phạm xâm phạm nhân thân, tội phạm xâm phạm sở hữu... Trong cuốn sách, tác giả cũng đưa ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội phạm xâm phạm sở hữu được thể hiện trên các nội dung cơ bản, như: Tuyên truyền để quần chúng nhân dân chủ động đề phòng và biết cách xử lý khi bị tấn công bằng bạo lực nhằm chiếm đoạt tài sản; nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng chức năng, trong đó đặc biệt coi trong hoạt động phòng ngừa của lực lượng Công an nhân dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật trong đời sống xã hội; tăng cường và nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền, các cơ quan đoàn thể trong phòng ngừa tội phạm. - Sách tham khảo Sổ tay phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, Nxb Lao động xã hội, năm 2003 của nhiều tác giả. Cuốn sách được chia làm 3 phần, trong đó tại phần thứ hai nêu lên vấn đề phòng ngừa tội phạm và trật tự xã hội, như: Ngăn chặn tình trạng cưỡng đoạt tài sản của học sinh, phòng ngừa hoạt động của tội phạm 15 cướp tài sản, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, trong đó có hành vi chiếm đoạt trẻ em hoặc bắt cóc con tin. Đây là một cuốn sách đi thẳng vào những thủ đoạn của tội phạm, chỉ ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hữu hiệu để người đọc có thể vận dụng trong các tình huống cụ thể. - Sách tham khảo Tội phạm có tổ chức, lịch sử và vấn đề hôm nay, Nxb Công an nhân dân, năm 2007 của GS - TS Hồ Trọng Ngũ [39]. Cuốn sách đề cập đến lịch sử tội phạm có tổ chức trên thế giới với nhiều loại như buôn bán vũ khí, ma túy, buôn bán người, trong đó có nạn bắt cóc nô lệ và thực trạng của tội phạm có tổ chức trong xã hội đương đại. Cuốn sách nêu lên các biện pháp được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế sử dụng trong đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, như: Phong tỏa tài khoản đen, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng lực lượng chuyên trách để đấu tranh chống tội phạm có tổ chức… - Đề tài khoa học cấp Nhà nước (giai đoạn 1996 - 2000) Khoa học xã hội 2007 2008 của GS.TS Nguyễn Phùng Hồng, PGS.TS Hồ Trọng Ngũ và tập thể tác giả về “Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới” [32] đã xác định những căn cứ lý luận thực tiễn quan trọng cho một chiến lược phòng, chống tội phạm ở cấp quốc gia trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khi bàn về các biện pháp phòng ngừa tội phạm, các tác giả cho rằng: bằng các hoạt động chuyên môn của mình, các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công an tiến hành các hoạt động phòng ngừa cũng tác động đến hai mức độ: tác động chung (đến các yếu tố, quá trình chung trong xã hội) và tác động cá biệt (đến những đối tượng cụ thể). Theo GS. TS Nguyễn Phùng Hồng và PGS. TS Hồ Trọng Ngũ: “Phòng ngừa chuyên biệt hay phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chuyên trách cũng được phân thành hai nhóm biện pháp hoặc có thể gọi là hai hình thức tiến hành phòng ngừa đó là phòng ngừa chung và phòng ngừa cá biệt” [32.Tr.195]. Đồng thời, theo kết quả công trình nghiên cứu này thì các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian tới: tổ chức tốt công tác nắm tình hình đối với các đối tượng, tiến hành điều tra cơ bản trên các địa bàn nhất là các địa bàn trọng điểm, quản lý các đối tượng thuộc diện quản lý nghiệp vụ và tập trung trinh sát đối với các đối tượng kiểm tra nghiệp vụ, tổ chức đấu tranh ngăn chặn các hoạt động của các loại đối tượng trong và ngoài nước xâm phạm an ninh trật tự, tăng 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan