Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phương ngữ bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn và tương đối thuần nhất...

Tài liệu Phương ngữ bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn và tương đối thuần nhất

.PDF
27
3351
100

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU Lịch sử dân tộc Việt Nam ta, kể từ thời dựng nước trải qua hàng năm cho đến ngày nay, nếu xét riêng về mặt ngôi ngữ thì có thể nói rằng đó là lịch sử người Việt Nam, cùng nhau xây dựng, thống nhất và phổ biến tiếng Việt trong cương vị ngôn ngữ dùng chung trên lãnh thổ nước ta.Khi nhận diện một dân tộc, ngôn ngữ thường được coi là một trong những tiêu chuẩn chính (bên cạnh các tiêu chuẩn khác như tính cộng đồng lãnh thổ, ý thức tự giác dân tộc, các đặc điểm chung về tâm lý, văn hóa, kinh tế...).Ngôn ngữ góp phần làm nên bản sắc của một dân tộc, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trong suốt lịch sử lâu dài đấu tranh vì chủ quyền dân tộc, vì độc lập tự do của đất nước, chúng ta có thể hình dung dân tộc Việt Nam ta đã phấn đấu gian khổ như thế nào để thoát được hiểm họa diệt chủng về ngôn ngữ và văn hóa, để bảo vệ và phát triển được tiếng Việt. Phương ngữ vùng nào tất nhiên được người dân vùng đó dùng để giao tiếp.Tuy nhiên ngoài ra còn có một số đặc điểm sau. Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia – phương tiện giao tiếp chung được sử dụng rộng rãi trên khắp đất nước. Song, ở mỗi địa phương khác nhau, nó lại mang những nét riêng vô cùng phong phú, đa dạng.Bởi vì ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương khác nhau về kinh tế, văn hóa nên sẽ khác nhau.Mỗi một phương ngữ là một biến thể ngôn ngữ nhất định, vừa khác biệt với tiếng toàn dân, vừa mang nét chung cho toàn vùng phương ngữ.Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung, phương ngữ Nam. Trông đó phương ngữ Bắc là cơ sở hình thành nên ngôn ngữ văn học và cũng được lựa chọn làm ngôn ngữ toàn dân. Các phương ngữ khác nhau về việc phân vùng phương ngữ, về ngữ âm, rồi đến từ vựng- ngữ nghĩa, cuối cùng là khác biệt ngữ pháp. 1 B. NỘI DUNG I. Phương ngữ Bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn và tương đối thuần nhất I.1. Phương ngữ Bắc có vùng phân bố tương đối rộng lớn Phương ngữ Bắc là phương ngữ vùng quê Bắc Bộ (tính từ Ninh Bình trở ra), có diện tích tương đối lớn, được chia làm 3 vùng nhỏ hơn: (1) Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta. Phần lớn người Việt ở đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Do quá trình cộng cư diễn ra trong thời gian gần đây nên phương ngữ phát triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quát chung của phương ngữ Bắc và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng xã như phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng, cái nôi của người Việt cổ. (2) Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh đồng bằng và trung du bao quanh Hà Nội(Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hoà Bình, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Nguyên). Đây là vùng mang những đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc. (3) Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển (Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt d với gi, r s với xtr với ch mà ở các phương ngữ Bắc khác không còn phân biệt được nữa. Còn có nơi phát âm tr thành t và s thành th. Nếu so với sự phân vùng của phương ngữ Trung và phương ngữ Nam thì phương ngữ Bắc mang nét phân vùng khác biệt. Nhắc đến phương ngữ Trung ta nhắc đến sự phân vùng nhỏ lẻ, mamh mún và đầy phức tạp, bởi diện tích nhỏ hẹp chỉ gồm 6 tỉnh nhưng lại chia làm ba vùng nhỏ. Không chỉ phân vùng nhỏ lẻ mà trong bản thân phương ngữ Trung cũng rất phức tạp, trong mỗi vùng, thậm chí mỗi huyện, mỗi xã lại mang một giọng điệu, ngôn ngữ riêng biệt. Phương ngữ Nam phân vùng trên khoảng một nửa diện tích đất nước, kéo dài từ Đà Nẵng đến Nam bộ gồm 24 tỉnh thành. Phương ngữ Nam không phức tạp mà tương đối thuần nhất, phân bố trên địa bàn rộng như vậy nhưng nó không có sự khác biệt nhiều giữa các phương ngữ trong vùng. 2 I.2. Phương ngữ Bắc phân vùng tương đối thuần nhất Tuy phương ngữ Bắc có diện tích rộng lớn nhưng ngôn ngữ lại tương đối thuần nhất. Sự thuần nhất tương đối đó có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau đây: - Một là yếu tố lịch sử: phương ngữ Bắc là phương ngữ có lịch sử phát triển lâu đời. Vì ngay từ khi ra đời phương ngữ Bắc là phương ngữ được chọn làm ngôn ngữ toàn dân, đây là ngôn ngữ của một vùng có nền kinh tế, chính trị, văn hóa phát triển nhất và là ngôn ngữ của bộ lạc chiến thắng. Thời xa xưa, tổ chức xã hội của nước ta khi mới xuất hiện thì tồn tại dưới hình thức thị tộc, bộ lạc và khi thị tộc, bộ lạc phát triển đến mức độ nhất định thì hình thành nhà nước, và nhà nước phát triển mạnh nhất lúc bấy giờ là nhà nước Văn Lang Âu Lạc sống bên lưu vực sông Hồng, nên ngôn ngữ của nhà nước này được chọn làm ngôn ngữ toàn dân. Đây cũng chính là phương ngữ Bắc ngày nay.Chính vì có lịch sử phát triển lâu đời nên phương ngữ Bắc có điều kiện giao lưu phát triển tập trung thống nhất với nhau chứ không phân tán như ở phương ngữ Trung. Bởi vì phương ngữ Trung và phương ngữ Nam có sự di dân từ phương ngữ vào khu vực Bình-Trị-Thiên muộn hơn, không có lịch sử lâu đời như ở phương ngữ Bắc nên khi di cư vào miền Trung thì người dân không sống tập trung mà sống phân tán, họ sống theo từng cụm đặc biệt theo từng dòng họ nên ngôn ngữ ở đây vẫn nhỏ lẻ. Cũng do lịch sử hình thành nên phương ngã Nam lại có đặc điểm khoanh vùng rộng lớn và thuần nhất bởi vì lịch sử hình thành của phương ngữ chỉ mới diễn ra vào thời gian gần đây (trong khi đất nước kỉ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội thì thành phổ Hồ Chí Minh mới được 300 năm). Cụ thể vào thế kỉ XVIII, nông nghiệp đã phát triển hình thành những trang trại rộng lớn sớm mang tính chất hàng hóa nên phạm vi giao lưu rộng khắp cả vùng không bó hẹp từng làng nhỏ như thời di cư vào miền Trung . - Hai là yếu tố địa lý: yếu tố nàycũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân vùng của phương ngữ Bắc. Phương ngữ Bắc là vùng có đặc điểm địa lý tương đối rộng lớn, có đồng bằng châu thổ sông Hồng diện tích xếp thứ 2 trong cả nước, bên cạnh đó, vùng này còn có khu vực trung du và miền núi khá rộng. So với miền Trung thì địa hình Bắc Bộ không quá chia cách, manh mún.Chính điều kiện này đã tạo cơ sở cho việc định cư tập trung và tạo điều kiện giao lưu giữa các vùng thuận lợi chứ không như địa hình phân cách nhỏ hẹp như ở miền Trung.Tuy nhiên, nếu so với địa 3 hình của miền Nam thì địa hình miền Bắc có phần phức tạp hơn và việc giao lưu giữa các vùng không thuận lợi bằng vùng Nam Bộ. - Ba là yếu tố kinh tế, văn hóa: Miền Bắc là vùng có kinh tế phát triển mạnh, đứng thứ 2 trong cả nước. Bắc Bộ còn là cái nôi văn hóa của người Việt, là vùng có nền văn hóa hình thành sớm và phát triển mạnh. Việc giao lưu buôn bán, văn hóa, thương mại có sự qua lại với nhau đã tạo điều kiện cho ngôn ngữ giữa các vùng có sự giao thoa, nên ngôn ngữ miền Bắc càng vươn tới sự thống nhất với nhau mặc dù vẫn tồn tại một số điểm khác biệt ở mỗi vùng nhưng không đáng kể. Là một nền văn hóa lâu đờivà là mảnh đất kinh kì nên ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng ngôn ngữ, điều này thể hiện rõ trong sắc thái, giọng điệu cũng như ngữ âm, từ vựng- ngữ nghĩa và ngữ pháp. Điều này làm cho phương ngữ phía Bắc mang tính chuẩn mực cao hơn so với phương ngữ hai vùng còn lại. II. Đặc điểm ngữ âm Phương ngữ Bắc có đầy đủ thanh điệu, vần, nguyên âm, âm cuối; phụ âm đầu và âm đệm chưa đầy đủ. II.1. Sự đầy đủ thanh điệu tạo nên giọng Bắc nhẹ nhàng, đa âm sắc Như chúng ta đã biết “Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết có tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị” Thanh điệu được phân chia thành hai nhóm trầm và bổng, tức là chia thành hai âm vực cao và thấp. Những từ có thanh bổng láy với nhau và những từ có thanh trầm láy với nhau: thanh không đi với thanh hỏi và sắc, thanh huyền đi với thanh ngã và thanh nặng. Tiếng Việt có 6 thanh điệu tuy nhiên ở mỗi vùng phương ngữ việc sử dụng thanh điệu có sự khác nhau. Phương ngữ Trung và Nam gồm có 5 thanh còn phương ngữ Bắc gồm 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng). Ví dụ PHƯƠNG NGỮ BẮC PHƯƠNG NGỮ TRUNG Mũi Mủi Bão Bảo Nghĩ ngơi Nghỉ ngơi Suy nghĩ Suy nghỉ Xã hội chủ nghĩa Xả hội chủ nghỉa 4 Nếu so sánh tiếng Việt của Hà Nội với tiếng Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào thì người ta thấy ngay hai thanh( ?) và( ~) ở Bắc lại có sự chuyển mã, khi đối chiếu với tiếng Nghệ Tĩnh, hay tiếng Bình Trị Thiên. Một người Huế nghe người Bắc nói thì chỉ cần chuyển mã thanh( ~) của Bắc thành thanh( ?) của Huế, ngược lại người Bắc nghe( ?) của Huế thì phải thích thanh này có thể vừa là( ~) vừa là( ?) và căn cứ vào đó mà xét nội dung của câu nói. Dĩ nhiên khi một người miền Trung nghe một người Hà Nội nói thì về mặt thanh điệu sự chuyển mã khá dễ dàng: anh ta chỉ cần gộp lại làm một hai thanh khu biệt ở Hà Nội là( ?) và( ~) hay gộp( ~) và( .) làm một. Trường hợp người Hà Nội giao tiếp với người Huế hay người Nghệ Tĩnh cũng thế. Trong hệ thống thanh điệu truyền thống, thanh( ?) ở âm vực cao, thanh( ~) ở âm vực thấp, nhưng trong phương ngữ Hà Nội hiện nay thì ngược lại, thanh( ?) cao và thanh( ~) thấp. Hệ thống thanh điệu ở Bắc Bộ : Thanh không có âm điệu bằng phẳng, cường độ không thay đổi, ở âm vực trung bình của lời nói, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu, tương đối thống nhất trong tất cả các phương ngữ. Thanh huyền có âm điệu hơi đi xuống, có âm vực thấp, cường độ không đổi, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu. Chỉ khu biệt với thanh không về âm vực: thấp hơn thanh không từ quãng ba đến quãng năm. Thanh ngã có âm điệu biến thiên theo hai chiều: đi xuống với đi lên như hình chữ V với nhánh đi lên cao gấp đôi. Cường độ thay đổi: thanh yếu đi ở khoảng giữa âm tiết và có khi tắt hẳn rồi lại xuất hiện. Chính ở điểm này có hiện tượng tắc thanh hầu. Về âm vực, thanh ngã bắt đầu ở mức thanh huyền. Khoảng cách về âm vực giữa mức bắt đầu và mức kết thúc trung bình bằng một quãng sáu, giữa hai mức thấp nhất và cao nhất có thể đến hai quãng tám. Thanh hỏi có âm điệu biến thiên hai chiều xuống- lên, nhưng không chia hai giai đoạn rõ rệt như ở thanh ngã. 5 Thanh sắc bắt đầu ở độ cao hơi thấp hơn thanh không, đi ngang hay là hơi chúi xuống ở đoạn đầu, sau đó vút cao lên thông thường vào khoảng một quãng năm, có khi đến một quãng tám ở giọng nữ. Trong những âm tiết khép( có –p, -t, -ch, -k đứng cuối), thanh sắc nhập thanh thiếu hẳn phần đi ngang lúc bắt đầu, âm điệu cao vút lên, nhất là ở những âm tiết ngắn ( có nguyên âm ngắn) thanh sắc có trường độ rất ngắn. II.2. Phụ âm đầu: Phương ngữ Bắc thiếu một số âm vị, có hiện tượng lẫn lộn và mất phụ âm tiền ngạc Phụ âm đầu là một trong những thành phần chủ yếu của âm tiết.Nó tương đối độc lập đối với những thành phần chính khác của âm tiết như âm điệu và vần.Nó có thể đứng trước mọi nguyên âm, mọi cách khép âm tiết và đi với mọi thanh điệu.Trong tiếng Việt hiện nay ở các địa phương khác nhau, cách phát âm một số phụ âm đầu vẫn chưa thống nhất.Hệ thống phụ âm đầu được phản ánh vào chữ quốc ngữ là có số lượng âm vị tương đối đầy đủ hơn cả, so với hệ thống phụ âm đang tồn tại trong các phương ngữ hiện nay. Phải nói đến rằng có sự khác nhau trong hệ thống phụ âm đầu ở các phương ngữ, cả về mặt số lượng âm vị lẫn về chất lượng của âm vị (tức là tính chất ngữ âm của âm vị). Đặc điểm nổi bật của phụ âm đầu tiếng Việt với tính cách một hiện tượng ngữ âm học của Đông Nam Á khác với ngữ âm châu Âu, đó là hiện tượng yết hầu hóa xảy ra ở tất cả các âm tắt nổ vô thanh, cũng như hữu thanh b, đ, t, ch, k, m, n, nh, ng (M.V Gordina, R.S Bystrov, 1984, 57-62). Đây là dấu vết của cơ tầng Nam Á, đồng thời cũng là chứng tích của thời xa xưa, khi trước nguyên âm không phải là một phụ âm đơn mà là một chùm phụ âm gồm hai đơn vị, trong đó đơn vị đầu thường là một âm tắc như ta còn thấy ở nhiều ngôn ngữ Tây Nguyên hiện nay. II.2.1. Phụ âm đầu của phương ngữ Bắc có 20 đơn vị. Nó thiếu các phụ âm đầu ghi trong chính tả: R,S,Tr,Gi(tức không phân biệt s/x, r/d, tr/ch) Hệ thống phụ âm đầu vừa nêu hiện nay còn gặp ở nhiều thổ ngữ miền dưới của đồng bằng Bắc Bộ, tập trung ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình mà không tiêu biểu cho toàn thể phương ngữ Bắc. Nhưng cách đây chưa đầy một thế kỉ nó đã được sử dụng khắp miền Bắc nước ta. Chữ quốc ngữ được đặt ra, qua nhiều 6 bước cải tiến cho đến khi ổn định với dáng vẻ như ngày nay là dựa vào cách phát âm này. Những phụ âm tiền ngạc C, Z, S ở đây đã được chữ quốc ngữ ghi lại bằng tr, gi và s là những phụ âm đầu lưỡi, chứ không phải âm quặt lưỡi như phương ngữ Trung. Khi phát âm C (tr) đầu lưỡi được nâng lên áp vào phía trước ngạc, rồi sau đó bật ra để luồng hơi thoát ra ngoài, đôi khi chỉ nghe như một âm tắc xát, gần với âm C trong từ Cas “giờ” của tiếng Nga. Vị trí cấu âm của S và Z cũng như thế, nhưng đầu lưỡi không áp sát ngạc, mà tạo thành một khe hở ở giữa để cho luồng hơi thoát ra, và gây nên tiếng cọ xát. Những phụ âm này có thể so sánh với phụ âm trong các từ chien “chó”, jeu “trò chơi” của tiếng Pháp. Ví dụ: trong trắng[Congm Cắng], gia giáo [Za Záw], sao ta [Saw Sa]. Phụ âm vùng Thái Bình, Nam Định có cấu âm rung lưỡi rất rõ. Mặc dù thiếu các phụ âm đầu ghi trong chính tả nêu trên nhưng phương ngữ Bắc lại có đầy đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Đó là: Nh-ch đứng sau nguyên âm dòng trước [i, ê, e]: chân chính, mít tinh, chim chích, tênh tếch, yêu thích,… Ng- k đứng sau nguyên âm dòng giữa [ư, ơ, a, ă, â]: ngưng, tưng tức, tầng, tang … Ngm - kp đứng sau nguyên âm dòng sau tròn môi [u, ô, o]: long lóc, mốc, khóc, … II.2.2. Phương ngữ Bắc mất đi dãy phụ âm tiền ngạc C, Z, S, phụ âm R, phụ âm ngạc, nổ, vô thanh, hữu thanh Ch Ở đa số phương ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phương ngữ Hà Nội đã mất đi dãy phụ âm tiền ngạc C, Z, S và phụ âm rung r. Ngoài ra phụ âm ngạc, nổ, vô thanh, hữu thanh Ch được phát âm như một phụ âm tắc- xát đầu lưỡi- răng ts ở thế hệ trung niên và thanh niên Hà Nội. 7 Bảng hệ thống phụ âm đầu ở Hà Nội: Môi Răng Lợi b p Tiền ngạc Ngạc Mạc Hầu đ t C nh ng (ch) k (q) th mn Tắc xát ts Xát f s Sx v z ZG h r l Năm phụ âm kể trên đã biến đổi trong phương ngữ Hà Nội và những vùng xung quanh ts, Z (gi) thành z, r thành z, S (s) thành s. Ví dụ: Chanh chua [tsenh tsuô] Trong trắng [tsongm tsắng] Gia giáo [Za Zaw] Rì rào [Zi Zaw] Sao sáng [Saw sáng] Những sự biến đổi này mới xảy ra gần đây, vào đầu thế kỉ XX, sau khi chính tả đã ổn định. Chúng phải xảy ra sau khi các chùm phụ âm mà A, de Rhodes ghi là bl, tl, ml đã biến thành những phụ âm đầu tiền ngạc và ngạc: Z (gi), C (tr), nh (nh). Ví dụ: blời – giời tlâu – trâu mlạt – nhạt Chính tả đã ghi nhận những kết quả biến đổi này, mà không còn ghi là bl, tl, ml nữa. Sự biến động ngữ âm trên có thể là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ mới nhất (thế kỉ XVIII) giữa tiếng ta và tiếng Hán vùng Hoa Nam, do những đợt sóng di 8 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục cư ồ ạt của người Hoa sang Việt Nam dưới triều Mãn Thanh bằng cả đường thủy và đường bộ. Phần lớn những người này quê ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phú Kiến, Vân Nam. Phương ngữ Hán miền này không có các phụ âm ngạc và tiền ngạc,và cũng không có phụ âm rung r.Hàng loạt những thổ ngữ tiếng Tày- Thái phía Bắc nước ta, có lẽ do ảnh hưởng đó cũng đang mất đi những phụ âm trên (ch thành ts, s;j thành z; r thành h, l…). Trái lại trong những ngôn ngữ các dân tộc ít người ở phía nam Trường Sơn và Tây Nguyên, trong tiếng Chăm và tiếng Khơme đều có các âm ngạc ch, j và nhất là phụ âm r xuất hiện với tầng số cao. II.2.3. Hiện tượng lẫn lộn: l/n Hiện tượng lẫn lộn l/n là một nét mới của phương ngữ Hà Nội và xung quanh. Ví dụ: Lẫn lộn = nẫn nộn Lòng lợn = nòng nợn Nôn nóng = lôn lóng Làm ăn = nàm ăn Cơm nếp = cơm lếp… Có người không biết ngôn ngữ học, cho đó là nói nghịu, nhưng đích thực là hiện tượng phương ngữ. Trong tiếng Tày- Nùng cũng có sự lẫn lộn l/n ở một số thổ ngữvùng đông- bắc nước ta, còn trong tiếng Thái vùng tây- bắc thì lộn l/đ. Ở nhiều phương ngữ Hán miền tây- nam Trung Quốc cũng có hiện tượng lẫn lộn l/n và l/đ. Hiện tượng này lan ra như một làn song ngữ âm theo hướng tây bắc- đông nam. Riêng phụ âm cuối –n biến thành –j, trở thành âm tiết mở hoặc mất –n. Ví dụ: Cay cấn/ cày cấy, cái vắn/ cái váy, cái chủn/ cái chủi. Chỉn/ chỉ, kẻn/ ghẻ, nhén/ nhẹ, bín/ bí, rui mèn/ rui mè. II.3. Âm đệm có khả năng kết hợp với các phụ âm trước nó và nguyên âm sau nó, làm thay đổi cấu trúc âm tiết Âm đệm tiếng Việt là một thể thống nhất hữu cơ được biểu hiện rõ rệt trong cách kết hợp của nó với phụ âm đầu cũng như với nguyên âm. Âm đệm có chức năng làm trầm hóa âm tiết, sau lúc mở đầu chứ không phải tạo nên âm sắc chủ yếu của âm tiết. Vì vậy một âm vị đảm nhiệm phần này chỉ có thể là một âm lướt, một bán nguyên âm phi âm tiết tính. 9 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục Nếu như cách kết hợp của phụ âm đầu với nguyên âm là tự do và không bị hạn chế gì hết, tức là phụ âm đầu nào cũng có thể kết hợp với mọi nguyên âm. Vì đây không phải là hai thành phần đứng liền nhau trong kết cấu âm tiết, thì âm đệm lại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với các âm vị đứng trước và sau nó (sự kết hợp này bị hạn chế bởi một số nguyên tắc như hai âm cùng có những đặc tính như nhau thì không kết hợp được với nhau). Đặc điểm của âm đệm phương ngữ Bắc có điểm giống với âm đệm phươngngữ Trung và cũng có nét riêng. Cụ thể như sau: II.3.1. Khả năng kết hợp của âm đệm với các phụ âm trước nó. Âm đệm [-w] với các phụ âm đầu. Trong phương ngữ Bắc (và cả phương ngữ Trung), âm đệm [-w] có thể kết hợp với hầu hết các phụ âm đầu, trừ những phụ âm môi m, b, v, ph. Ví dụ: hoa xuân lòe loẹt [hwa swân] [lwè lwẹ:t] thuế[thwế:] đoàn[đwàn] tuyết nguyệt [twiết ngwiệt] nhuần nhuyễn [nhwuần nhwyễn] khuya khoắt [xwiê xwắt] quấy phá [kwấj kwá] v.v.... Âm đệm [-w] trong âm tiết vắng phụ âm đầu: Ta còn bắt gặp -w- trong âm tiết vắng phụ âm đầu, ví dụ: oan, uyên, uỳnh uỵch. Những từ này thường được bắt đầu với âm tắc họng: [qwan, qwiên], [qwình qwịch].Trong trường hợp này càng nêu bật tính chất độc lập của âm đệm [-w-]. Nó không đóng vai một phụ âm đầu, bởi vì người ta có thể them trước nó một phụ âm. Nó cũng không đóng vai nguyên âm, bởi vì sau nó phải có nguyên âm. II.3.2.Âm đệm trong kết hợp với nguyên âm sau nó Âm đệm [-w] không kết hợp với mọi phụ âm đầu. Cũng vậy, nó không kết hợp tự do với mọi nguyên âm. Do xu hướng dị hóa, tức là do yêu cầu đối lập nên 10 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục các âm đồng tính không kết hợp được với nhau, vì là âm môi nên âm đệm [-w-] không đứng trước những nguyên âm tròn môi. Nó không kết hợp với các nguyên âm đơn [u, ô, o] và [uô] trong các phương ngữ đều không kết hợp với bán nguyênâm cuối [-w]. Ta không thể có những vần uw, ôw, ow, uôw như ở các ngôn ngữ khác. Trong phương ngữ Bắc có lẽ xu hướng dị hóa mạnh, nên âm đệm [-w-] cũng không kết hợp với nguyên âm [ư] và [ươ], cũng như [ư] và [ươ] không kết hợp với âm cuối [-w-]. Vần ưu phát âm thành [iw] và ươu phát âm thành [iêw]. Ngoài những nguyên âm kể trên, âm đệm [-w-] kết hợp được với tất cả các nguyên âm khác. Ví dụ: uy quyền [qwi kwiền] hoa hòe [hwa hwè] thuở xuân xanh [thwở swân senh] Ta có sơ đồ kết hợp âm đệm w với nguyên âm ở phương ngữ Bắc -i ư u iê- ươ uô ê-ơ â ô e-a ă o W+ Ở sơ đồ trên, âm đệm -w- chỉ kết hợp được với nửa bên trái của hệ thống nguyên âm. II.3.3.Âm đệm làm thay đổi cấu trúc âm tiết Qua việc khảo sát âm đệm -w- với những khả năng kết hợp của nó với những phụ âm đứng trước và nguyên âm đứng sau nó, chúng ta có thể rút ra một số nhân xét về âm đệm của phương ngữ Bắc như sau: (1). Bán nguyên âm -w- là một âm vị, làm một thành phần cấu tạo nên âm tiết, nhưng chỉ là một thành phần phụ. Nó giữ chức năng đệm giữa hai thành phần chủ yếu của âm tiết là phụ âm và vần. 11 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục (2). Âm đệm –w- tồn tại trong phương ngữ Bắc. Nếu ta lần lượt cho vắng mặt âm vị ở những vị trí có thể vắng được (như trên đã làm) thì trong phương ngữ Bắc có đến tám kiểu kết hợp như chúng ta đã thấy ở trên (ở phương ngữ Trung cũng có tám kiểu nhưng phương ngữ Nam chỉ có bốn kiểu, sự giống và khác biệt này sẽ được biết khi nghiên cứu phương ngữ Trung và Nam). (3) Âm đệm –w- còn là một tiêu chuẩn để phân biệt các phương ngữ của tiếng Việt. II.4. Vần- Nguyên âm - Vần là một bộ phận chính, trực tiếp của âm tiết. Nó bao gồm hai thành phần : nguyên âm và âm cuối Nguyên âm yếu tố không bao giờ vắng mặt và là âm tạo thành âm tiết Âm cuối, yếu tố có thể có mặt hay vắng mặt. Khi có mặt, nó là một phụ âm hay một bán nguyên âmj, w. Bán nguyên âm này xét về chức năng là một phụ âm chứ không phải một nguyên âm bởi vì sau nó người ta không thể them một phụ âm nào nữa. Vậy có thể gọi chúng là phụ âm cuối. Nếu như phụ âm đầu với vần và âm đệm, cũng như đệm với vần kết hợp với nhau lỏng lẻo, không có ảnh hưởng qua lại đáng kể thì trái lại, hai bộ phần của vần là nguyên âm và âm cuối tác động qua lại với nhau hết sức chặt chẽ, thậm chí thay đổi cả một bộ mặt ngữ âm của nhau.. Thí dụ hai âm gốc lưỡi /-ng, -k/ ở phương ngữ Bắc khi kết hợp với những nguyên âm dòng trước thì chúng nhích về phía trước biến thành những phụ âm mặc lưỡi ngạc: [-nh, -ch]; còn khi kết hợp với những nguyên âm dòng sau tròn môi thì chúng thành những phụ âm môi mạc [-ngm, -km]. Chúng chỉ giữ được diện mạo chân thực của mình khi kết hợp với những nguyên âm dòng giữa: [-ng, -k]. Chính vì vậy, nếu như ở trên ta có thể khảo sát tách riêng từng phần làm âm đệm và phụ âm đầu, thì ta không thể làm thế ở phần vần; trái lại, ta phải xét các vần như một tổng thể để rồi tách ra nguyên âm và âm cuối trong từng trường hợp một. II.4.1. Chỉ phương ngữ Bắc mới có đầy đủ các vần với các phụ âm cuối. Hầu hết các nguyên âm đều kết hợp được với 2 cặp phụ âm [-m, -p], [-n, -t] và vần giữ gần như nguyên vẹn các tính chất ngữ âm. 12 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục Ví dụ: um tùm [u:m tù:m] cơm nếp [kơm nế:p] ton hót [to:n hó:t] ăn tết [ăn tế:t] Phương ngữ Bắc không có các vần [-ưw] và [-ươw] như các phương ngữ khác. Ví dụ: cứu giúp = kíu giúp âm mưu = âm miu về hưu = về hiu con hươu = con hiu uống rượu = uống riệu II.4.2.Phương ngữ Bắc có đặc điểm về hai bán nguyên âm [-j -w] Hai bán nguyên âm này kết hợp với nguyên âm theo một khuynh hướng nhất quán trong tiếng Việt là những âm vị có cấu âm tương tự không kết hợp được với nhau. [-w-] là bán nguyên âm môi không đi với các nguyên âm tròn môi [u, ô, o, uô]. Cũng vậy, bán nguyên âm [-j-] không đi với các nguyên âm dòng trước[i, e, ê, iê]. Cho nên ta có các vần iu, êu, eo, iêu nhưng không có các vần ii, ê i, ei, iêi và và có các vần ui, ôi, oi, uôi mà không có uu, ôu, ou. Nhưng cả hai âm cuối [-j, -w] đều kết hợp được với các nguyên âm dòng giữa, ta có cả vần ưi lẫn vần ưu, cả ây và âu, cả ai và ao, cả ay và au. Những điều kiện nói trên là chung cho ngôn ngữ văn học. Riêng các phương ngữ Bắc không có các vần [-ưw] và [-ươw]. Những từ như cứu giúp, âm mưu, về hưu phát âm là kíu giúp, âm miu, về hiu,.. và những từ con hươu, rượu phát âm thành con hiu, riệu. Đây là một nét khu biệt của phương ngữ Bắc. II.4.3.Ba cặp phụ âm [-nh -ch] [-ng -k] [-ng^m -k^p] lại kết hợp với các nguyên âm theo sự phân bố bổ túc như sau: - Cặp phụ âm mặt lưỡi [-nh –ch] chỉ kết hợp với nguyên âm dòng trước[i, ê, e]. Ta chỉ có các vần- inh - ich, - ênh - ếch, - enh – ech (chính tả ghi là - anh – ach) mà không có các vần như – ưnh – ưch, - ônh - ôch, - onh - och,… - Cặp phụ âm gốc lưỡi [- ng - k] chỉ đi với các nguyên âm dòng giữa [ư, â, a, 13 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục ă]: - ưng - ưk, - âng -âk, - ang - ak, -ăng - ăk. - Cặp phụ âm môi ngạc [-ngm -kp] chỉ kết hợp được với các nguyên âm dòng sau (tròn môi): [-ungm – ukp], [-ôngm –ôkp], [-ongm –okp]. Ba cặp phụ âm trên không kết hợp được với tất cả nguyên âm, mà đắp đổi, bổ sung cho nhau mới làm được việc này, cho nên gọi là phân bố bổ túc. II.4.4.Cả 3 nguyên âm đôi iê, ươ, uô đều kết hợp với [-ng –k] vì yếu tố thứ hai là âm trung hòa gắn với nguyên âm dòng giữa. Ngoài ra trong một số từ tượng thanh (như kêu eng éc, long coong, leng keng, boong boong,…) và những từ vay mượn (như rơ –móoc, quần soóc, nồi soong, bù long, xe goòng, boong tàu,…) có kết hợp nguyên âm [e] (dòng trước, mở) và nguyên âm [o] (dòng sau, mở) với [-ng –k]. Nếu xem trường hợp này như một ngoại lệ (dư của cách phát âm cổ để đọc những từ ngoại lai) thì ta có bảng vần của phương ngữ Bắc như sau: Âm cuối 1 2 Nguyên âm -n m iêm iê T rước ê i:n - e ê:m ê:n e:m ư e:n - 5 6 7 - - - - - nh ngm ng w - j - iên i:m 4 - - i 3 iêw - - inh ênh - i:w iêng ê:w - - enh e:w - 14 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục ơ Giữa ươu ươn ư ương - - ưn ơ ơm â - - ưng - ưj - âw - ơn âm a ươj - ă am aw - - ăw - - u uôm ô ăng - Sau u:n ô:m - ô:n - o:m - - - o - uôn u:m ô ăj - - u aj ăm - - âj ang - an ăm - ơj âng - ân - on uông ungm ôngm ongm uôj u:j ô:j o:j Trong phương ngữ Bắc các nguyên âm trầm,bổng, trung hòa có sự kết hợp hài hòa với các phụ âm mặt lưới, gốc lưỡi và môi gạc kết quả là phương ngữ Bắc mang tính chất trung hòa, dễ nghe. Những đặc điểm cấu âm đã tạo cho phương ngữ này âm sắc ngọt ngào, nhẹ nhàng và trầm bổng. Ngoài quy luật phát triển tự thân thì nó còn một số nguyên nhân khác chi phối như lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hóa... - Góc độ lịch sử: trong thời kì Bắc thuộc và giai đoạn dầu thời kì tự chủ, vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ là nơi cư dân Việt Mường tiếp xúc thường xuyên với người Tày, người Hán. Kết quả là tiếng Việt-Mường đã có sự thay đổi, cởi bỏ đặc trưng của tiếng Mon-Khmer để tiếp thu tiếng Tày-Thái và ngôn ngữ Hán: rơi rụng âm tiết phụ, rơi rụng phụ tố, biến đổi phụ âm cuối, hình thành thanh điệu. Cuối thời kì Bắc thuộc thì tiếng Việt Mường đã tách thành hai ngôn ngữ. 15 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục - Góc độ văn hóa: Bắc bộ là vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra lâu dài và với nội dung phong phú hơn cả. Việc tiếp biến văn hóa thể hiện ở các điểm sau: + Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng Hán, ngày nay còn một số nhỏ đọc đúng là /gi/ còn đa số đọc /z/ + Âm R biến mất là do ảnh hưởng phát âm Bắc Kinh, Mã Lai. + Các âm R, Tr và cả âm W, phụ âm đầu từ Y,Dr, Pl, Pr, Fl, Fr và nhiều phụ âm phức tạp khác đã xuất hiện trong phát âm người Văn Lng nhưng do thời đô hộ đã bị tiếng Hán lấn áp - Góc độ xã hội: người miền Bắc thường trọng lễ giáo, khuôn phép, trong ứng xử luôn hướng đến sự trung hòa. Những đặc điểm đó đã chi phối đến lời ăn tiếng nói của những người nơi đây, họ thích mềm mỏng nhẹ nhàng và thanh lịch. Do đó phương ngữ Bắc, cụ thể là về mặt ngữ âm đã có nhiều sự biến đổi để phù hợp với tính cách, thói quen biểu đạt biểu thị tình cảm của chính mình. III. TỪ VỰNG- NGỮ NGHĨA Sự khác nhau về từ vựng- ngữ nghĩa giữa các phương ngữ xuất phát từ hai lĩnh vực: Thứ nhất là do bản thân sự phát triển lịch sử ngữ âm của tiếng Việt mà có. Vì đây là sự phát triển nội bộ của tiếng Việt, của những quy luật ngữ âm lịch sử có tính chất đều đặn và nhất loạt, cho nên những từ khác nhau chẳng qua là do biểu hiện của bản chất: những quy luật ngữ âm lịch sử. Những từ này bao gồm tất cả mọi lĩnh vực, không trừ một lĩnh vực nào: gia đình, xã hội, thiên nhiên, văn hóa,…Sự khác nhau này biểu hiện ở mọi từ loại, bao gồm cả danh từ, động từ, tính từ, hư từ. Từ đây dẫn đến sự khác nhau về phụ âm đầu, nguyên âm hoặc âm cuối. Thứ hai, do những từ khác nhau xuất phát từ những nguồn gốc khác nhau. Do sự tiếp xúc ngôn ngữ từng nơi, từng lúc khác nhau mà mỗi miền có một từ khác nhau. Điều này dẫn đến hiện tượng từ đồng nghĩa: bông – hoa, thuyền- nốôc, quảtrái,… III.1.Lớp từ đặc phương ngữ ít Từ đặc phương ngữ là một nét biểu hiện khá cụ thể, riêng biệt và sinh động của mổi vùng phương ngữ. Đó là những từ chỉ có ở một phương ngữ, nó không 16 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục mang tính phổ biến nên không có từ tương ứng trong ngôn ngữ toàn dân. Trong phương ngữ Bắc thì lớp từ này rất ít, việc tìm ra chúng không hề đơn giản, số lượng của chúng vô cùng khiêm tốn. Ta có thể thấy một số từ như: sấu, quan họ, áo tứ thân,…trong khi đó lớp từ đặc phương ngữ ở phương ngữ Nam lại vô cùng phong phú: chôm chôm, điêng điểng, lục bình, … Sở dĩ như vậy là do các nguyên nhân sau: - Lịch sử hình thành: phương ngữ Bắc hình thành sớm nhất và có mối quan hệ mật thiết với ngôn ngữ toàn dân. Đây là phương ngữ được lựa chọn xây dựng ngôn ngữ toàn dân. Vì vậy vốn từ của nó gần như thống nhất với ngôn ngữ toàn dân, trừ một số bộ phận chưa chuẩn hoặc không có trong phương ngữ Bắc, bộ phận này được bổ sung từ ngôn ngữ của các vùng còn lại. - Về điều kiện tự nhiên kinh tế: Bắc bộ không có nét đặc thù riêng như ở miền Nam dẫn đến không có nét đặc thù về lao động, sản xuất hay sinh hoạt dẫn đến lớp từ đặc phương ngữ ít. III.2. Tiếp thu nhiều yếu tố vay mượn gốc Hán, từ Hán-Việt tạo nên hiện tượng từ đồng âm, đồng nghĩa phú . Trong ba phương ngữ chính thì phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ gốc Hán và từ Hán-Việt nhiều hơn cả, trong khi phương ngữ Nam chủ yếu có sự vay mượn đối với ngôn ngữ Pháp là chủ yếu: săm, lốp, pin, ghi đông, xe hơi... Thật vậy phương ngữ Bắc có vốn từ vựng là từ gốc Hán khá phong phú: bát, thuyền, quả, đầu, dầu hỏa, quan tài, nến, đường ... Nguyên nhân của việc tiếp thu nhiều từ gốc Hán ở miền Bắc có thể kể đến: Một là xuất phát từ lịch sử là chủ yếu, Bắc bộ là vùng hình thành sớm nhất, lại chịu quá trình đô hộ của phong kiến phương Bắc hơn một nghìn năm, văn hóa Hán sớm có sự ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam trong đó phải kể đến ngôn ngữ nên nó sẽ chịu ảnh hưởng cả về văn hóa lẫn ngôn ngữ. Hai là trải qua quá trình xây dựng ngôn ngữ văn học, trong đó các nhà nho biết chữ Hán rất nhiều đóng một vai trò không nhỏ nên việc tiếp thu nhiều từ HánViệt và từ gốc Hán là đương nhiên. Việc phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ gốc Hán cũng tạo nên hiện tượng từ đồng âm, đồng nghĩa. 17 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục Đặc trưng này xuất phát từ nguồn gốc khác nhau của các phương ngữ trong vùng phương ngữ. Khi tiếp thu các yếu tố gốc Hán, chúng ta luôn có sự chọn lựa để phù hợp với văn hóa, với tâm lí người sử dụng. Việc tiếp thu này đã làm cho vốn từ vựng có một nhóm từ đồng nghĩa phong phú. Ví dụ: Quả và trái: 2 từ này có nét nghĩa giống nhau tuy nhiên nguồn gốc lại khác nhau. Quả có nguồn gốc từ gốc Hán, trái có nguồn gốc Nam Á. “Bông” và “hoa”: 2 từ này là những từ đồng nghĩa, nhưng nguồn gốc lại khác nhau. Từ “bông” vốn là từ thuần Việt, còn từ “hoa” lại là từ Hán Việt. Sự xâm nhập của từ “hoa” khiến cho từ “bông” bị nhược hóa về nghĩa. Nhưng từ “bông” vẫn không mất đi, nó vẫn được sử dụng, có lúc nó bị đẩy sang vị trí phụ trở thành lọại từ “bông hoa”. Điều này cho thấy sự cạnh tranh giữa vốn từ ngoại lai và từ bản địa rất mạnh mẽ. Ngoài ra, ta có thể xét các ví dụ khác như sau:thuyền/ nôốc; cổ /xưa; bản/ gốc; vô/ không; ái/ yêu;… Những yếu tố gốc Hán còn tạo nên sự xê dịch về nghĩa, có thể đi xa đến nỗi ta có những đồng âm khác nghĩa ở trong hai phương ngữ Bắc và Trung, Nam. Ví dụ 1: rèm (Hán Việt): Phương ngữ Bắc tương ứng với màn ở phương ngữ Trung và phương ngữ Nam (gốc Thái) Màn ở phương ngữ Bắc tương ứng với mùng ở phương ngữ Trung và phương ngữ Nam(gốc Khmer). Có nghĩa từ rèm xuất hiện làm thay dổi nghĩa của từ màn và mùng, kết quả màn ở phương ngữ Bắc đồng nghĩa với mùng ở phương ngữ Nam, mùng bị đẩy ra khỏi cách nói năng của người miền Bắc, trong khi màn ở phương ngữ Bắc chỉ vật bằng vải thưa để tránh muỗi,đồng âm với màn ở phương ngữ Nam, phương ngữ Trung chỉ tấm vải che cửa Ví dụ 2: Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung, phương ngữ Nam Thạch sùng = thằn lằn: loài bò sát có chân sống trên trần nhà Thằn lằn = rắn mối: loài bò sát có chân sống trong bụi bờ Rèm = màn: tấm vải che gió Màn = mùng: tấm vải thưa vây quanh giường che 18 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục muỗi… Việc tiếp thu các yếu tố gốc Hán làm cho vốn từ vựng phương ngữ Bắc thêm phong phú. Từ đồng âm, đồng nghĩa còn xảy ra do quá trình biến đổi phụ âm và ngữ điệu. Trong quá trình phát triển thì bản thân sự phát triển lịch sử ngữ âm của tiếng Việt cũng không giống nhau ở từng vùng. Sự biến đổi về ngữ âm không phải biến đổi tất cả các bộ phận cùng một lúc, mà phần lớn chỉ biến đổi một trong số các bộ phận như phụ âm đầu, nguyên âm, phụ âm cuối hay thanh điệu, trong khi các bộ phận khác giữ nguyên, cho nên đây là cơ sở để khẳng định rằng các bộ phận này là âm vị, rằng âm tiết có thể phân đoạn được. Có các quá trình biến đổi sau: Những từ khác phụ âm đầu. • Có thể xem những từ cặn còn sót lại đây là bằng chứng của những quá trình biến đổi ngữ âm đã xảy ra. + Từ thể hiện quá trình xát hóa: Phương ngữ Bắc do quá trình xát hóa đã biến các từ cổ có phụ âm b, đ chuyển sang v,z: bui/vui, bo/vo, đa/da, đao/dao, bá/vá, bưa/vừa, đưới/ dưới, đơi/ dơi. + Từ thể hiện quá trình xát hóa và hữu thanh hóa: Do quá trình xá hóa và hữu thanh hóa nên chuyển: • Ph, th, kh/ v, z, (d), G (g) Ph/v: ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/vỡ đất, phổ tay/ vỗ tay,… Th/z: nhà thốt/ nhà dột, mưa thâm/ mưa dầm, thu/ dấu,… Kh/v: khải/ gãi, khở/gỡ, khỏ/ gõ, khót/ gọt, kháp/ gặp,… • Ch, k/ j (gi), G (g) Ch/gi: chi/ gì, chừ/ giờ, chờng/giường, rau chên/ rau giền,… k/g: ca/ gà, cấu/ gạo, cỏ cú/cỏ giấu, trốc cúi/ đầu gối,… Qua những từ cặn trên còn thấy được hiện tượng hữu thanh hóa thường xảy ra cùng với việc hạ thấp thanh điệu: thanh không thành thanh huyền, thanh sắc thành thanh nặng, thanh hỏi thành thanh ngã, . Phụ âm vô thanh đi với thanh cao ở phương ngữ Nam, còn phụ âm hữu thanh đi với thanh trầm gặp ở phương ngữ Bắc. 19 Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục sắc/ nặng: ăn phúng/ăn vụng, nhà thốt/nhà dột, cấu/ gạo, khót/gọt, • kháp/ gặp,… • không/ huyền: ca/gà, chi/gì, mưa thâm/ mưa dầm, rau chên/ rau giền,… • hỏi/ngã: bở/ vỡ, phổ/ vỗ, khở/gỡ, khải/gãi,… Các tổ hợp phụ âm đầu bl, tl, ml được ghi trong từ điển Việt- Bồ- La (1651) của A.de Rhodes đã biến mất và cũng để dấu vết lại ở những từ cặn trong phương ngữ Trung: Lôông cơn/ trồng cây, lúa lổ/ lúa trổ,… Ruồi lằng/ nhặng, quả lót/ quả nhót, nói lịu/ nói nhịu, hoa lài/ hoa nhài,… Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy trong phương ngữ Bắc nhưng không nhiều hiện tượng như ở phương ngữ Trung. Dăn leo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm, dức đầu/ nhức đầu, con dộng/ con nhộng, … - Những từ khác nguyên âm được thể hiện trong quá trình biến đổi từ nguyên âm đơn sang nguyên âm đôi theo hai khuynh hướng: nguyên âm đôi mở dần và nguyên âm đôi khép dần. + Nguyên âm đôi mở dần trong phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam:e/iê, a/ươ, o/uo: méng/miếng, mẹng/miệng lả/ lửa, nác/ nước, mạn/mượn, lái/lưới, náng/nướng,… ló/lúa, nót/nuốt, lòn/luồn, mói/muối, roọng/ruộng,… + Nguyên âm đôi khép dần trong các phương ngữ khác:i/iê, u/ôu con chí/con chấy, ni/nầy, mi/mày, vi cá/ vây cá,… nu/nâu, bu/bâu, tru/trâu, cụ/cậu, su/sâu,… + Ngoài ra còn có sự đối ứng giữa nguyên âm khép hơn ở phương ngữ Trung, phương ngữ Nam với nguyên âm mở hơn ở phương ngữ Bắc: u/ô, ư/â. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan