Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quan hệ dòng họ của người nùng phàn slình (nghiên cứu ở huyện cao lộc, tỉnh lạng...

Tài liệu Quan hệ dòng họ của người nùng phàn slình (nghiên cứu ở huyện cao lộc, tỉnh lạng sơn)

.PDF
165
644
90

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Dòng họ là một thành tố trong văn hóa của tộc người và cộng đồng xã hội, vì vậy, nó có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá ấy. Trong một xã hội đang phát triển, nếu làng là cơ sở của văn hoá dân tộc thì dòng họ là pháo đài kiên cố của cơ sở đó. Tại Việt Nam, quan niệm người trong dòng họ với nghĩa “một giọt máu đào hơn ao nước lã” hay “một người làm quan cả họ được nhờ” không chỉ ăn sâu trong tiềm thức dân gian làng xã người Kinh (Việt) tự bao đời nay, mà cũng phổ biến ở nhiều dân tộc thiểu số khác. Dẫu quan hệ dòng họ có những mặt trái, có thể làm mềm yếu các quan hệ nhà nước, pháp quyền, nhưng đó lại là hạt nhân của đạo lý “tối lửa tắt đèn có nhau”, “chị ngã em nâng”... Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ trong xã hội Việt Nam truyền thống và đương đại từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực sử học, dân tộc học/nhân học, xã hội học, văn hoá học,... Các công trình nghiên cứu khoa học về các vấn đề đó không chỉ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn quá trình hình thành và phát triển của dòng họ mà còn góp phần tìm hiểu những vấn đề lịch sử và văn hoá dân tộc. Ở xã hội hiện đại, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống đã và đang bị biến dạng, thậm chí bị mai một. Sự phục hưng văn hóa dòng họ theo hướng tích cực đã đóng góp rất nhiều vào việc duy trì và bảo lưu những giá trị văn hóa, đạo đức đặc sắc mà thế hệ đi trước đã dày công xây dựng và vun đắp. Bằng chứng là, những vấn đề liên quan đến dòng họ và quan hệ dòng họ được nghiên cứu thời gian qua đã có những đóng góp không nhỏ đối với việc xây dựng quy ước thôn bản văn hóa ở địa bàn nông thôn. Vì vậy, việc nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng những chính sách thiết thực đối với vấn đề phát triển Nông thôn - Nông nghiệp - Nông dân nước ta trong bối cảnh đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá (CNH - HĐH). 2 Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quan hệ dòng họ ở nước ta trong thời gian qua cũng còn một số hạn chế. Điểm hạn chế lớn nhất là trong nghiên cứu có xu hướng giản lược hóa mối quan hệ dòng họ, và thường chỉ nghiên cứu quan hệ của một bề dòng họ, tức dòng họ bên bố - nếu nghiên cứu cư dân theo chế độ phụ hệ, hoặc dòng họ bên mẹ theo chế độ mẫu hệ. Trên thực tế, hầu như bất cứ tộc người hay nhóm xã hội nào, quan hệ dòng họ đều phong phú hơn thế, thường bao gồm 3 họ, đó là: họ bên bố, họ bên mẹ và họ bên vợ/chồng. Tùy theo truyền thống của chế độ phụ hệ hay mẫu hệ mà vai trò của dòng họ bên bố hay bên mẹ lớn hơn, song một điều không thể phủ nhận, mối quan hệ dòng họ của mỗi cá nhân lúc trưởng thành (có vợ/chồng), là đều có mối quan hệ dòng họ ba bên như vậy. Nghiên cứu theo tiếp cận này, đáng chú ý là của tác giả Cầm Trọng khi xem xét quan hệ dòng họ của người Thái, song chủ yếu ông phân tích sâu về cấu trúc, và bước đầu có đề cập đến chức năng chung, mà chưa có nghiên cứu thực nghiệm. Hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay, vai trò và chức năng của quan hệ dòng họ ở cả người Kinh (Việt) và các tộc người thiểu số cũng đang có những đổi thay. Sự thay đổi này được biểu hiện ở liên kết dòng họ, cơ chế vận hành trong các tổ chức dòng họ, trong đó, vai trò của quan hệ dòng họ ở đời sống xã hội vẫn rất quan trọng, nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu thấu đáo. Người Nùng ở Việt Nam sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có một số đặc điểm văn hóa riêng, và việc nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung trong luận án là điều khó có thể thực hiện. Bởi vậy, chúng tôi chỉ lựa chọn một nhóm địa phương của người Nùng trong địa bàn một huyện để khảo sát. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và qua tổng quan tài liệu, chúng tôi đã lựa chọn nhóm Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm đối tượng nghiên cứu cụ thể. Đây là một nhóm Nùng có dân số đông nhất trong số các nhóm Nùng của huyện, cư trú chủ yếu ở các xã vùng biên, lại có cả mối quan hệ dòng họ xuyên biên giới. Bước đầu khảo sát để đi tới quyết định lựa chọn nhóm địa 3 phương và địa bàn nghiên cứu, chúng tôi còn được biết, tính cố kết của người Nùng Phàn Slình mạnh hơn một số nhóm Nùng khác trong vùng. Hơn nữa, để phù hợp với nhiệm vụ công tác ở Phòng Nghiên cứu các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và Ka đai thuộc Viện Dân tộc học, và phù hợp với trải nghiệm nghiên cứu của cá nhân, tôi đã quyết định chọn hướng nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng làm luận án tiến sĩ nhân học văn hóa. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình, trên cơ sở kế thừa, cập nhật những kết quả nghiên cứu trước đây về những vấn đề liên quan đến quan hệ dòng họ ở Việt Nam, và ở thế giới - song còn ở mức độ hạn chế, bởi khó khăn về tiếp cận tài liệu. Mặt khác, tôi cố gắng khắc phục thiếu sót về sự giản lược trong xác định quan hệ dòng họ của một số công trình nghiên cứu trước về lĩnh vực này. Trên cơ sở ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu nêu trên, tôi đã quyết định lựa chọn: “Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình (Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)” làm đề tài luận án tiến sĩ nhân học văn hóa của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Luận án được thực hiện nhằm đạt tới các mục tiêu sau: - Tìm hiểu cấu trúc quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn; - Xem xét chức năng của quan hệ dòng họ đối với đời sống cá nhân, gia đình và sự liên kết cộng đồng tộc người hiện nay; - Tìm hiểu vai trò của quan hệ dòng họ và đề xuất khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ ĐIỂM NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những hoạt động liên quan đến quan hệ dòng họ và mối quan hệ của cá nhân, gia đình - dòng họ trong các lĩnh vực: tín ngưỡng, tương trợ, hợp tác kinh tế, giáo dục, văn hóa… 4 Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đang diễn ra hiện nay và trong một số trường hợp, có so sánh với thời kỳ trước khi tiến hành công cuộc Đổi mới (1986). 3.2. Địa điểm và mẫu nghiên cứu Chúng tôi chọn ba điểm nghiên cứu thuộc ba xã khác nhau về địa lý, đặc trưng kinh tế để tiến hành khảo sát thu thập dữ liệu. Điểm thứ nhất là thôn Sơn Hồng thuộc xã Gia Cát1, là một thôn thuần về hoạt động kinh tế nông nghiệp điển hình của người Nùng Phàn Slình và không có hoạt động giao thương với biên giới. Điểm thứ hai là thôn Pò Nghiều thuộc xã Thụy Hùng với đặc trưng là một địa bàn hoạt động kinh tế thương mại buôn bán qua biên giới và kinh tế nông nghiệp, có nhiều hộ gia đình sống dọc theo đường cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn. Điểm thứ ba là thôn Nà Pheo thuộc xã Thanh Lòa, là một thôn giáp biên, thường xuyên có số lượng lao động làm thuê qua biên giới theo mùa vụ và có những mối quan hệ với người đồng tộc ở bên kia biên giới. 4. CÂU HỎI VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Nhằm giải quyết những mục tiêu mà luận án đã đặt ra, chúng tôi nêu lên một số câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu sau đây: 1. Cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên cứu đang vận hành như thế nào? 2. Chức năng của quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay ra sao? 3. Những tác động tích cực và tiêu cực của quan hệ dòng họ đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương như thế nào? 4. Giả thuyết rằng, trong bối cảnh hiện tại quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình tại các điểm nghiên cứu có vai trò đậm nét trong hoạt động tín ngưỡng, nhưng mờ nhạt hơn trong hoạt động kinh tế và vẫn chi phối hệ thống chính trị cơ sở. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 1 Do một số trình bày và phân tích trong luận án liên quan đến những vấn đề nhạy cảm của cá nhân và tập thể tại nơi nghiên cứu nên chúng tôi đã thay đổi tên người hoặc viết tắt. Điều này cũng phù hợp với đạo đức nghề nghiệp trong dân tộc học/ nhân học. 5 Luận án được thực hiện sẽ có những đóng góp chủ yếu sau: - Trên cơ sở nghiên cứu ba chiều của quan hệ dòng họ, luận án trình bày một cách toàn diện về cấu trúc và mối quan hệ dòng họ người Nùng Phàn Slình ở huyện vùng cao biên giới tỉnh Lạng Sơn trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của nước ta; - Góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của quan hệ dòng họ đến phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ tộc người của người Nùng Phàn Slình tại địa bàn nghiên cứu; - Xây dựng cơ sở khoa học và bước đầu đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu yếu tố tiêu cực của quan hệ dòng họ ở người Nùng Phàn Slình trong xây dựng nông thôn mới hiện nay. 6. NGUỒN TÀI LIỆU CỦA LUẬN ÁN Để hoàn thành luận án này, bên cạnh việc kế thừa các nguồn tài liệu đã công bố về dòng họ và quan hệ dòng họ, đặc biệt là những công trình công bố về dân tộc Nùng, trong đó có nhóm tộc người Nùng Phàn Slình của các học giả trong và ngoài nước từ trước đến nay, chúng tôi còn sử dụng nguồn dữ liệu từ các ban, ngành ở cấp tỉnh, huyện, xã. Tuy nhiên, nguồn tài liệu điền dã do chính nghiên cứu sinh thu thập tại thực địa, các điểm nghiên cứu trong suốt thời gian từ năm 2007 - 2013 đóng vai trò then chốt cho việc hoàn thành luận án này. Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình thu thập nguồn dữ liệu, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn, hầu như không có công trình nghiên cứu nào về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình xuyên biên giới, trong khi nghiên cứu sinh chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu nhóm đồng tộc của họ bên kia biên giới, đặc biệt là trong những năm gần đây. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Luận án ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội dung chính được trình bày trong 6 chương: Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và khái quát địa bàn nghiên cứu. 6 Chương 2: Dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở huyện Cao Lộc Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tín ngưỡng Chương 4: Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và tương trợ Chương 5: Quan hệ dòng họ với hệ thống chính trị cơ sở Chương 6: Kết quả và bàn luận 7 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu về quan hệ dòng họ Ở Việt Nam, dòng họ là một thiết chế xã hội quan trọng, trực tiếp góp phần tạo nên kết cấu làng xã và rộng hơn nữa là đất nước, bởi gia đình - họ hàng - làng, nước được coi như là sự tổng hòa của các mối quan hệ văn hóa - xã hội - chính trị - luật tục trong xã hội truyền thống. Việc nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ có vị trí quan trọng và đã có khá nhiều công trình nghiên cứu từ các góc độ dân tộc học/nhân học, sử học, xã hội học, văn hóa học,… Tuy nhiên, trong khuôn khổ một luận án tiến sỹ nhân học văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung vào việc tổng quan những công trình nghiên cứu về dòng họ thuộc lĩnh vực dân tộc học/nhân học là chính, sau nữa là những nghiên cứu về lĩnh vực này của các khoa học gần gũi về đối tượng. 1.1.1. Các nghiên cứu về quan hệ dòng họ trên thế giới và quan hệ dòng họ của người Việt Có thể nói rằng, nghiên cứu dòng họ là nền tảng cơ bản để tìm hiểu về quan hệ xã hội của tộc người trong bất cứ xã hội nào, vì vậy, đã có nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài như Maine, McLennan và Morgan, Lévi-Strauss và Radcliffe-Brown, Grant Evans... quan tâm đến. Lévi-Strauss đã xây dựng một lý thuyết về cấu trúc thân tộc, trong đó hạt nhân là vấn đề “lớp hôn nhân”. Đóng góp lớn nhất của ông chính là phát hiện và phân tích sâu sắc về quy tắc “cấm đoán loạn luân” và cũng là người đưa ra nhiều luận giải về chế độ mẫu hệ, phụ hệ. Theo ông, hệ thống thân tộc hôn nhân là một hệ thống trao đổi, trong đó, người chủ mưu là đàn ông, đàn bà là những vật được trao đổi cho nên luôn luôn thụ động. Còn Radcliffe-Brown, từ những trải nghiệm, khảo cứu của mình đã cho rằng, bản chất của một hiện tượng thân tộc hiểu rộng là sự thành lập những đơn vị có cấu trúc chặt chẽ và trường tồn trong thời gian, nghĩa là có trước những cá nhân thành viên của những đơn vị ấy và tồn tại sau khi những cá nhân ấy đã chết [57]. Trong khi đó, Grant Evans lại nêu đặc điểm cụ thể hơn về chức năng của dòng họ ở châu Á trong tác phẩm Bức khảm văn 8 hóa châu Á là những thực thể chính trị có thể hoặc không có thể phát triển tùy theo tình thế chính trị và kinh tế của các thành viên có khả năng trong dòng họ [37]. Ở Việt Nam, dòng họ cũng được đề cập từ khá sớm. Vào thời phong kiến, những ghi chép về dòng họ chủ yếu được tìm thấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc, các bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... Các bộ sách này chủ yếu mới chỉ có tính chất hệ thống lại, mô tả về phả hệ của các dòng họ chứ chưa đi sâu tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, ảnh hưởng của dòng họ. Trước năm 1945, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo như của Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Pierre Gourou… Lần đầu tiên, trong Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Pierre Gourou đã tiến hành điều tra, thống kê tên các dòng họ ở vùng châu thổ Sông Hồng (202 họ) và bước đầu có những nhận xét sơ bộ về tên họ và sự phân bố tại các làng xã, vùng miền [41]. Từ năm 1945 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dòng họ được xuất bản, trong số đó phải kể đến nghiên cứu của nhà dân tộc học Trần Từ. Ông cho rằng, dòng họ đóng một vai trò nhất định trong lịch sử xây dựng làng mới: những người đầu tiên bỏ quê đi lập làng mới thường là họ hàng với nhau, thổ cư các gia đình thành viên thường áp sát nhau và chiếm vị trí trung tâm trên khu đất mới. Dòng họ còn đóng vai trò “một chỗ dựa tinh thần, và đôi khi chính trị nữa” (chứ “không phải một viện trợ vật chất”) cho các thành viên trong làng Việt cổ truyền vốn chằng chịt vô vàn mâu thuẫn [115]. Từ góc nhìn xã hội học, Trịnh Thị Quang lại cố gắng tìm hiểu vai trò của dòng họ và quan hệ dòng họ mà tác giả gọi là “tổ chức thân tộc”. Tác giả cho rằng, quan hệ thân tộc vốn thường đảm nhận ba chức năng: là một cộng đồng pháp lý, một cộng đồng kinh tế, cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo; và chú ý xem xét những chức năng đó đã và đang biến đổi như thế nào [88]. Dựa trên sự tiếp cận đồng đại và lịch đại, Ngô Thị Chính đã phân tích hệ thống thân tộc người Việt truyền thống qua các chiều cạnh của ngôn ngữ cũng như qua các tài liệu điền dã dân tộc học để đưa ra một bức tranh khá đầy đủ về hệ thống thân tộc phụ hệ truyền thống của người Việt [23]. 9 Từ góc nhìn văn hóa học, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã có nhận định tổng quan về thân tộc, dòng họ của người Việt rằng, một người Việt Nam bình thường có ba họ: họ bố, họ mẹ, họ vợ chồng [121]. Còn Giáo sư Phan Văn Các cho rằng, dòng họ là một hiện tượng lịch sử - xã hội đặc biệt mang tính phổ quát của nhân loại [19]. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn cho rằng “họ” có thể được hiểu theo ba nghĩa: (1) Là những người cùng mang một tên họ, nhưng không thể chứng minh có chung một nguồn gốc…; (2) Là những thành viên mang cùng tên họ, có cùng một nguồn gốc…; (3) Là những người cùng thuộc về một ông tổ 5 đời (chi họ) [117]. Từ góc nhìn cấu trúc luận, Giáo sư Phan Đại Doãn cho rằng, dòng họ của người Việt, có một thể chế phức tạp và chặt chẽ thường được gọi là thể chế tông pháp. Đó là những quy định về cách ứng xử giữa con người với con người cùng một tổ tiên, trước hết là các công việc quan, tang, hôn, tế, tức là các quan hệ trên cơ sở huyết thống về các mặt. Quan hệ dòng họ với người Việt thực sự có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hàng ngày và có ý nghĩa là điểm tựa thường xuyên của cuộc sống con người [32, tr. 4-6]. Dựa trên những nghiên cứu kết hợp giữa xã hội học và sử học, hai nhà nghiên cứu Phan Đại Doãn và Mai Văn Hai đã chỉ rõ vai trò của dòng họ trong cộng đồng làng xã với tư cách là một đơn vị kinh tế, một bộ phận của tổ chức quyền lực và quản lý làng xã, một thiết chế trong đời sống văn hóa tín ngưỡng [45]. Những năm gần đây, trong xu thế phục hưng, chấn hưng dòng họ, một số hội thảo khoa học được tổ chức nhằm thảo luận, trao đổi về vai trò, ảnh hưởng của dòng họ, văn hóa dòng họ trong đời sống xã hội hoặc lịch sử của một số dòng họ, gia đình… như Hội thảo “Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An trong sự nghiệp thực hiện chiến lược con người ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, “Văn hóa dòng họ ở Thái Bình” [93]... Theo hướng đó, đã xuất hiện một số luận án, luận văn viết về một hoặc nhiều dòng họ trong một làng, một tỉnh như Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất (Hà Tây cũ) [98], Văn hóa dòng họ Nguyễn Quý ở làng Đại Mỗ (xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội [3], Dòng họ và quan hệ dòng họ của người Việt ở làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định [4]... Các công trình đã cho thấy thực trạng và xu hướng vận động, biến đổi của dòng họ, quan hệ dòng họ tại các địa phương khác nhau, từ đó bước đầu làm 10 rõ vai trò của quan hệ dòng họ cả về mặt tích cực lẫn hạn chế, trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tóm lại, vấn đề dòng họ và quan hệ dòng họ đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ các góc độ tiếp cận khác nhau. Trước hết, dòng họ người Việt là quan hệ huyết thống, có một mối quan hệ tín ngưỡng và kinh tế nhất định nhưng không cùng chung một ngôi nhà, không ăn chung một bếp và các gia đình duy trì quan hệ ngang nhau; Thứ hai, phần lớn các nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu cấu trúc và chức năng của dòng họ, nhất là dòng họ thuộc bên nội (phụ hệ); Thứ ba, nghiên cứu những yếu tố liên quan đến dòng họ quan hệ lãnh thổ, quan hệ nghề nghiệp, quan hệ tín ngưỡng, thậm chí còn liên quan đến vấn đề văn hóa, khoa cử, quyền lực…; Thứ tư là, xu thế phục hưng dòng họ… Tuy nhiên chưa có nhiều công trình đi sâu phân tích sự tác động, ảnh hưởng của các nhân tố khách quan (địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế-xã hội, mặt bằng văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, sự cố kết dòng họ, dòng họ trong mối quan hệ với quyền lực…) đến quan hệ dòng họ cũng như sự phát triển, vai trò và vị trí của nó trong đời sống của cộng đồng cư dân, sự so sánh những nội dung đó giữa các dòng họ không chỉ trong cộng đồng người Việt mà giữa các tộc người trên phạm vi lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần phải tiếp tục nghiên cứu dòng họ ở tất cả các chiều cạnh một cách có hệ thống và phải đặt dòng họ thành một trong những đối tượng chủ yếu để tìm hiểu một cách thấu đáo trong lĩnh vực dân tộc học/nhân học ở nông thôn nước ta trong bối cảnh phát triển và hội nhập là công việc cần thiết. 1.1.2. Nghiên cứu về quan hệ dòng họ của các tộc người thiểu số ở Việt Nam và người Nùng Phàn Slình 1.1.2.1. Các công trình chuyên khảo về quan hệ dòng họ Trong số những công trình nghiên cứu về dòng họ của các dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc, phần lớn tập trung vào các dân tộc có số lượng cư dân lớn như Mường, Thái, Hmông, Tày,... Để có thể có sự phân biệt về cấu trúc dòng họ giữa người Nùng, cụ thể là người Nùng Phàn Slình với các dân tộc thiểu số khác, chúng ta hãy điểm lại các công trình đã được các nhà dân tộc học/nhân học trong và ngoài nước đi sâu nghiên cứu kỹ lưỡng về một số vấn đề liên quan. 11 Trước hết phải nói rằng, trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, vấn đề dòng họ của người Hmông được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài đặc biệt quan tâm tìm hiểu. Liên quan đến lĩnh vực này là các công trình của các nhà nghiên cứu như Nicholas Tapp [134]; Prasit Leep Cha [135]... Song, những tác giả này chỉ nhấn mạnh đến chiều cạnh lịch sử quan hệ dòng họ hay cấu trúc xã hội và hệ thống dòng họ người Hmông có nguồn gốc từ Trung Quốc, vào khoảng sau thời nhà Tống (960-1279). Ở Việt Nam, khi tìm hiểu về dòng họ và quan hệ dòng họ của dân tộc Hmông, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng, thiết chế dòng họ được coi là điểm cốt lõi trong xã hội người Hmông. Vương Duy Quang đã nhấn mạnh đến sự cố kết của dòng họ của người Hmông ở ba bình diện cơ bản: cộng đồng cư trú, cộng đồng ý thức và tình cảm, cộng đồng tôn giáo và lễ nghi. Theo tác giả, dòng họ của người Hmông có 3 cấp độ: Thứ nhất, dòng họ bao gồm tất cả những người theo trực hệ và bàng hệ tính từ chắt của ego đến ông tổ của ego; Thứ hai, từ cộng đồng trôngs lại phân thành chêl (cành); Thứ ba, ở cấp độ nhỏ hẹp hơn nữa, người Hmông có thuật ngữ phangl (mái), là đơn vị nhỏ nhất trong các cấp độ cấu trúc của cộng đồng dòng họ người Hmông [86]. Bàn về thiết chế dòng họ người Hmông, Phạm Quang Hoan cho rằng, dòng họ của người Hmông ở Việt Nam chứa đựng hai phạm trù cố kết: cố kết rộng (bao gồm tất cả những người cùng dòng họ không phân biệt người đó cư trú ở đâu) và cố kết hẹp (mỗi dòng họ được xem như là một đơn vị cố kết cộng đồng huyết thống theo dòng cha) [52]. Tác giả Hồ Ly Giang qua tìm hiểu quan hệ dòng họ của người Hmông ở Sơn La, cho thấy những đặc điểm, vai trò, vị trí của dòng họ trong quản lý xã hội hiện nay là rất quan trọng [37]. Đề cập đến dòng họ và quan hệ dòng họ của người Thái có các tác giả như Cầm Trọng, Phan Chí Thành, Đỗ Thúy Bình, Vi An… Đặc biệt là, khi nghiên cứu về người Thái ở vùng Tây Bắc, Cầm Trọng đã có một cách tiếp cận đa diện về dòng họ và quan hệ dòng họ. Ông cho rằng, ở ngay trong một bản Thái cũng có khá đầy đủ mối quan hệ: ải nọng, lúng ta, nhính xao; ba họ này có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, thể hiện không chỉ trên góc độ huyết thống mà còn cả những quan hệ khác xoay quanh nó, đó là không phải anh cũng là em; chẳng phải họ bên vợ cũng là họ bên mẹ, bên bà; không phải họ bên nội cũng là họ nhà dâu gia [112]. Vốn xuất thân từ một dòng họ lớn là họ 12 Cầm của người Thái ở Tây Bắc, dựa trên cơ sở lý thuyết về tộc người, Cầm Trọng đã làm rõ được mối quan hệ dòng họ trong cộng đồng cư dân của dân tộc này, nhất là quan hệ giữa 3 nhóm (“ba họ”) trong cộng đồng cư dân cùng với những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến mối quan hệ đó. Đây là đóng góp đáng ghi nhận về sự tìm tòi đối với dòng họ và các quan hệ dòng họ của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam trong lĩnh vực dân tộc học. Có thể nói rằng, cho đến hiện nay chưa một công trình nào có phát hiện mới và khác hơn về lĩnh vực này đối với người Thái Tây Bắc nước ta nói riêng của Cầm Trọng. Khi nghiên cứu cộng đồng người Thái ở vùng đường 7 - Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An), Vi An cho thấy có sự khác nhau của mối quan hệ giữa 3 nhóm dòng họ “ải nọng - lúng ta - nhính xao” ở chỗ, mặc dù dòng họ vẫn tồn tại nhưng có sự thay đổi sâu sắc bên cạnh sự bảo lưu đậm nhạt khác nhau giữa các nhóm Thái. Sự khác biệt trong quan niệm, luật tục liên quan đến dòng họ và mối quan hệ giữa 3 nhóm dòng họ trên trong các nhóm Thái ở vùng đường 7 với nhóm Thái Quỳ Châu và Thái Tây Bắc có thể giải thích bằng sự du cư đến vùng này của nhóm Thái bằng những con đường và thời gian khác nhau. Do đó, những tục lệ liên quan đến dòng họ không còn bền vững [1]. Còn khi tìm hiểu về sự tồn tại của một tổ chức tông tộc của người Thái cũng ở Nghệ Tĩnh (thuộc huyện Quỳ Châu), Phan Chí Thành cho rằng, trong tổ chức tông tộc họ “quài xê”, đáng lưu ý có trưởng họ và hội nghị họ. Trưởng họ là người đứng đầu tông tộc, được thừa kế theo tập quán pháp chứ không do bầu, phải là con trai trưởng của ngành trưởng. Trưởng họ có quyền triệu tập hội nghị tông tộc để giải quyết những công việc chung có liên quan đến các gia đình trong tông tộc. Hội nghị tông tộc là một sinh hoạt quan trọng thể hiện sự thống nhất về nhiều mặt của tông tộc nhất là về mặt xã hội [96]. Đồng nhất với những ý kiến trên, Đỗ Thúy Bình cho rằng, mỗi bản người Thái thường có một hoặc hai họ lớn được coi là họ gốc, trong đó các thành viên trong họ lớn hợp thành một nhóm thân tộc gọi là ải nọng. Xung quanh họ này có nhiều họ khác có mối quan hệ dâu gia với họ lớn. Ở người Thái Tây Bắc, nhóm những gia đình thân tộc này có tên gọi chung là đẳm, còn ở người Thái vùng Thanh Hóa - Nghệ Tĩnh có tên là quài xê. Biểu hiện tập trung nhất về mối quan hệ tinh 13 thần trong dòng họ là ý thức về ông tổ chung, tiếp đó là các nghi lễ tôn giáo chung của dòng họ [17]. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ của các dân tộc thiểu số khác như: người Mường, người Pa cô, người Ê-đê, người Hrê, người Tà-ôi, Cơ-tu và Vân Kiều (Bru-Vân Kiều), người Triêng, người Khơme… Nguyễn Văn Tiệp cho biết, đối với người Pa cô, vấn đề dòng họ đến nay còn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống hôn nhân, gia đình, tôn giáo và tín ngưỡng. Với người Pa cô, bên nội, bên ngoại được tách bạch rõ ràng. Họ có một tên gọi chung để chỉ bố và các anh em trai của bố; trong khi đó là một tên gọi khác để chỉ anh em trai của mẹ; cũng như có một tên gọi chung để chỉ mẹ và các em gái của mẹ; trong khi đó lại có một tên gọi khác để chỉ chị em gái của bố. Điều này do chế độ ngoại hôn quy định [107]. Tại một số địa phương ở Đắk Lắk, theo Vũ Đình Lợi, phả hệ dòng họ của người Ê-đê rất phức tạp và đa dạng như: Niê, Adrơng, Enuôn, Buôn Yă, Milô, Eban, Hdruê… Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: đặc điểm kinh tế - xã hội, từ quan hệ tộc người bằng con đường hôn nhân giữa các nhóm trong nội bộ người Ê-đê và người Ê-đê với các dân tộc khác và từ đặc điểm lịch sử của vùng đất Tây Nguyên. Những đặc điểm đó đã làm cho cơ cấu và quan hệ bên trong dòng họ trở nên lỏng lẻo, đã phá vỡ tổ chức ngoại hôn lưỡng hợp theo hệ dòng, một đặc điểm hôn nhân truyền thống dưới chế độ thị tộc mẫu hệ [73]. Về tổ chức dòng họ của người Tà-ôi, Cơ-tu và Vân Kiều, tác giả Nguyễn Xuân Hồng cho rằng, dòng họ (Yă, Cabu, Mu) là một tập hợp những thành viên có cùng huyết thống tính theo dòng cha. Dòng họ của người Ta-ôi, Cơ-tu, Vân Kiều ngoài tổ chức Yă, Cabu, Mu còn có các tổ chức khác như toong, tóp, tô, tông, xâu… Về quan hệ dòng họ, các thành viên trong một gia đình, trong một toong, tóp, tô, tông, xâu hay trong một Yă, Cabu, Mu đều gắn bó chặt chẽ với nhau trên các lĩnh vực sản xuất, cư trú, hôn nhân, ma chay, tôn giáo… Theo tác giả, tổ chức dòng họ của các dân tộc này không giống như một cơ cấu hành chính, không chịu sự điều khiển của các cấp chính quyền, mà sự vận hành của nó dựa vào các luật tục, vào tình cảm, ý thức… của các thành viên trong dòng họ. Những đặc tính này đã có tác động mạnh đến quan hệ gia đình, hôn nhân trong các tộc người này ở miền Tây Thừa - Thiên Huế [56]. 14 Vấn đề dòng họ của người Triêng, Ngọc Quang cho rằng, trên thực tế, các dòng, nhánh (họ) vẫn đang tồn tại nhưng rất mong manh, sự phân biệt giữa các dòng, nhánh mờ nhạt, vai trò trưởng họ hầu như không có. Sự khác biệt giữa các sinh hoạt và mối quan hệ xã hội giữa các dòng, nhánh hầu như không có, mà tất cả là mối quan hệ cộng đồng, tất cả đều bị chi phối bởi vai trò của già làng. Hơn nữa, trong quan hệ hôn nhân cũng có thể cùng dòng hoặc chéo dòng (trừ quan hệ huyết thống gần trong phạm vi 3 đời [85]. Khi nghiên cứu về người Hrê, Lưu Hùng đã đã đề cập đến tính song hệ của dân tộc này. Theo tác giả, người Hrê không phân biệt phía mẹ với phía cha, mà chỉ phân biệt giới tính, tuổi tác, bàng hệ - trực hệ. Nhóm họ hàng dân tộc này hình thành trong sự xen cài lẫn nhau giữa tính mẫu hệ và tính phụ hệ một cách rất phức tạp, không có ranh giới dứt khoát. Đối với người Hrê, dòng họ không hình thành nên tổ chức hẳn hoi như ở nhiều dân tộc khác có chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ rõ nét [60]. Với cùng hướng nghiên cứu này, Nguyễn Khắc Cảnh cho thấy ở người Khơ-me, một cá nhân không coi mình thuộc một dòng họ bên cha hay bên mẹ mà tính theo cả hai phía. Trong quan hệ họ hàng, người Khơme không có sự phân biệt nào giữa bên cha và bên mẹ, không có khái niệm bên nội, bên ngoại, không có khái niệm về tộc hay họ tính theo một phía cha hoặc mẹ. Tất cả thân thuộc họ hàng của phía cha hay mẹ đều được quan niệm và đối xử như nhau [21]. Như vậy, ở mỗi một tộc người đều có sự khác nhau về tổ chức dòng họ nhưng không thể phủ nhận một điều rằng, dòng họ có vai trò rất lớn trong xã hội truyền thống và hiện nay, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Quan hệ dòng họ, dù là của dân tộc nào cũng đều chi phối đến mọi mặt đời sống của từng gia đình, từng thành viên cộng đồng cũng như có sự liên quan đến toàn bộ tổ chức kinh tế - xã hội của các tộc người thiểu số. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về các dòng họ của các dân tộc thiểu số như đã điểm suốt vẫn còn để ngỏ những mảng trống. Đó là, sự phân biệt đặc điểm chung và riêng trong quan hệ bên nội - bên ngoại ở tộc người cụ thể; Sự tác động của điều kiện địa lý tự nhiên đến quá trình phát triển của dòng họ và quan hệ dòng họ của nhóm dân tộc thiểu số nói chung ở từng vùng miền hay giữa biên giới và nội địa nói riêng; giữa các nhóm địa phương hay nhóm tộc người, giữa các cộng đồng vùng cao 15 và vùng thung lũng có loại hình hoạt động sản xuất và tổ chức xã hội không giống nhau,… 1.1.2.2. Nghiên cứu quan hệ dòng họ của người Nùng và nhóm Nùng Phàn Slình Vấn đề dòng họ, quan hệ dòng họ của người Nùng và Nùng Phàn Slình cho tới nay vẫn chưa thấy xuất hiện một công trình chuyên khảo nào. Hầu hết các công trình đều đề cập đến những vấn đề như lịch sử, hôn nhân gia đình, trang phục và các lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo… của một dân tộc Nùng chung ở Việt Nam mà chưa đi sâu tìm tòi những tương đồng và khác biệt ở từng nhóm địa phương trên các vấn đề này. Giáo sư Hoàng Nam, từ góc nhìn dân tộc học cho rằng, đơn vị xã hội cổ truyền thấp nhất đối với dân tộc Nùng là bản. Người đứng đầu bản là trưởng bản (tàu bản), do dân suy tôn từ người của một dòng họ lớn nhất, có uy thế nhất trong bản. Người đó cũng là trưởng họ của các dòng họ đó. Một dòng họ có uy thế thường là dòng họ đông nhất trong bản hoặc thuộc dòng thổ ty [78]. Trong một công trình chuyên khảo về các dân tộc Tày, Nùng của Viện Dân tộc học, khi đề cập đến tổ chức xã hội của người Nùng, các tác giả đã viết: bản của người Nùng phổ biến được cấu thành từ những gia đình phụ quyền thuộc các dòng họ khác nhau, thường có 2 3 họ lớn. Người Nùng rất coi trọng mối quan hệ gia tộc, dòng họ. Trong thôn, bản các quan hệ thân tộc và thích tộc chằng chịt lẫn nhau, ngoại hôn dòng họ là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hôn nhân của dân tộc Nùng. Những người được gọi là “lượt lài”, “đúc lượt” (máu mủ) với nhau, nghĩa là thành viên của tổ chức xã hội dựa trên cơ sở mối quan hệ thân thuộc tính theo dòng huyết thống phía cha, mà đồng bào Nùng gọi là họ nội, không được lấy nhau, trừ những người họ xa, khác chi [118]. Về cơ bản, các công trình trên mặc dù có đề cập một cách tổng quan nhất nhưng còn rất khiêm tốn về dòng họ của dân tộc Nùng ở Việt Nam. Vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu về cấu trúc, chức năng dòng họ và quan hệ dòng họ của người Nùng nói chung và các nhóm địa phương trong đó có nhóm Nùng Phàn Slình là vấn đề còn bỏ ngỏ. Về quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình cho tới nay có ít công trình nghiên cứu, chủ yếu là những nghiên cứu về tín ngưỡng truyền thống, lễ nghi, tôn giáo… Chẳng hạn như Nguyễn Thị Ngân, trong luận án Tiến sĩ Nhân học năm 16 2011, chỉ thông qua bàn về tổ chức hàng phường trong tang ma của người Nùng, mà chỉ ra sự cố kết cộng đồng trong tộc người Nùng mà không thấy có sự đi sâu khai thác chiều cạnh tương trợ của dòng họ ở nhóm này [80]. Bằng tiếp cận ngôn ngữ học, Hoàng Thị Niên thông qua khảo sát, so sánh đối chiếu nhóm từ thân tộc trong ngôn ngữ của hai ngành Nùng Inh và Nùng Phàn Slình, cũng như với tiếng Việt, đã tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngành Nùng này trong cùng một ngôn ngữ của tiếng Nùng [81]. Khác với những nghiên cứu trên, từ hướng tiếp cận dân tộc học, Lê Minh Anh khi tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng của người Nùng Phàn Slình đã chỉ ra mối liên hệ khá chặt chẽ giữa những hoạt động tín ngưỡng và gia đình, cộng đồng, đặc biệt là trong cùng dòng họ ở người Nùng Phàn Slình tại vùng cao biên giới Lạng Sơn [7]. Cũng như vậy, trong lĩnh vực hôn nhân của người Nùng Phàn Slình, quan hệ dòng họ cũng giữ vai trò khá bền chặt. Điều này xuất phát từ lợi ích của gia đình, dòng họ, nên đã chi phối mạnh mẽ đến hạnh phúc của đôi trai gái. Hôn nhân của người Nùng Phàn Slình thể hiện rõ các đặc trưng văn hóa tộc người qua nguyên tắc hôn nhân, các nghi thức hôn lễ cũng như mối quan hệ tương trợ dựa trên mạng lưới kết nối các cá nhân với nhau ở cùng họ tộc trong cộng đồng thôn bản [6]. Khi ở trong điều kiện cư trú riêng biệt, với các mối quan hệ nội ngoại, thông gia chằng chịt, thực hành trợ giúp trong tang ma và cưới xin càng củng cố thêm sự cố kết tộc người của họ [8]. Tóm lại, việc nghiên cứu dòng họ của người Nùng Phàn Slình ở nước ta còn thiếu vắng một công trình có hệ thống và toàn diện. Vấn đề dòng họ và quan hệ dòng họ của dân tộc Nùng nói chung và nhóm Nùng Phàn Slình nói riêng còn chưa được quan tâm đúng mức, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đa số nghiên cứu không lấy dòng họ và quan hệ dòng họ người Nùng làm đối tượng nghiên cứu chính mà là những vấn đề có liên quan như nghi lễ, tín ngưỡng, tôn giáo, gia đình, lịch sử tộc người… được công bố dưới dạng các sách chuyên khảo, bài đăng ở tạp chí nghiên cứu chuyên ngành, hội thảo hay đề tài khoa học. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, những vấn đề liên quan đến quan hệ dân tộc xuyên biên giới/xuyên quốc gia đang đặt ra cho việc xây dựng nông thôn mới, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, 17 củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ an ninh biên giới... những yêu cầu mới, đòi hỏi sự cần thiết phải đi sâu nghiên cứu hơn nữa vấn đề này. 1.2. Một số quan niệm về quan hệ dòng họ và lý thuyết nghiên cứu 1.2.1. Một số quan niệm về quan hệ dòng họ 1.2.1.1. Quan niệm của các học giả nước ngoài Nhiều nhà Nhân học phương Tây cho rằng, các dòng họ được xác định bằng những mối quan hệ với tổ tiên và vì vậy chúng có một bề dày thời gian. Nguyên tắc của quan hệ dòng họ bao gồm sự truyền lại qua mối liên hệ cha mẹ - con cái và sự liên kết những người này lại với nhau thành nhóm xã hội. Trong một số xã hội tư cách thành viên trong một dòng họ sẽ quyết định cách thức người ta được huy động để phục vụ cho hành động xã hội [93, tr.267]. Giới nhân học phương Tây cũng thường nhấn mạnh đến vai trò của “dòng họ là một phần quan trọng trong thân tộc và gia đình. Dòng họ là một đơn vị xã hội trường tồn mà các thành viên tự cho là xuất phát từ một tổ tiên xác định căn cứ vào quan hệ phả hệ tổ tiên và con cháu được nhận biết rõ ràng. Nó đóng vai trò liên kết các cá nhân có cùng mối quan hệ huyết thống chung với nhau, đồng thời chi phối khá mạnh mẽ đối với quan hệ hôn nhân và gia đình... Các thành viên trong cùng một dòng họ có trách nhiệm quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau về mọi phương diện, chịu sự ràng buộc theo một quy tắc nhất định, trong đó, thể hiện rõ nét nhất là sở hữu tài sản và nguyên tắc hôn nhân theo dòng họ” [62, tr.258]. Khi đề cập đến mối quan hệ dòng họ, không thể không nói đến mối quan hệ giữa hôn nhân và dòng họ là một phạm trù có tính chất chọn lọc phản ánh quan điểm của nền văn hóa nào đó về vai trò của con người. Ở xã hội mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ thông qua sinh đẻ và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ trên cơ sở này, không chú ý đến vai trò của nam giới trong sinh sản. Ngược lại, xã hội phụ hệ đề cao vai trò của người cha và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ dựa trên yếu tố giới tính là đàn ông thì coi nhẹ vai trò mang thai của phụ nữ [93]. Một số học giả phương Tây khi nghiên cứu về mối quan hệ thân tộc của người Việt cho rằng: “tộc hay dòng họ tập hợp toàn thể con cháu bên nội của cùng một ông tổ được thừa nhận” [63, tr.343]. Còn theo Léopol Cadière, dòng họ “người 18 Việt cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng thuộc về một họ, tức gia đình theo nghĩa rộng, tổ chức vững chắc, liên kết chặt chẽ bằng huyết thống, bằng những quyền lợi vật chất, bằng những niềm tin tôn giáo, bằng các mối dây luân lý của cộng đồng” [20, tr.241242]. 1.2.1.2. Quan niệm của các học giả Việt Nam Khi đề cập đến mối quan hệ dòng họ người Kinh (Việt), các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng, mỗi dòng họ thường bắt nguồn từ một thủy tổ - thường là người có công “khai sơn phá thạch”, khởi đầu cho dòng họ tại một địa vực nhất định, mặc dù khái niệm vị thủy tổ có thể chỉ mang ý nghĩa hết sức tương đối. Theo thời gian, dòng họ có thể sinh sôi nảy nở, bao gồm nhiều chi ngành, thế hệ nối tiếp thế hệ [45, tr.18]. Trong khi đó, có người lại đánh giá vai trò dòng họ rằng: “Họ, quá lắm cũng chỉ có thể xem là một dạng đặc biệt của gia đình mở rộng, mà tác dụng chính đối với các thành viên của nó (tức là các gia đình nhỏ hợp thành nó) là tạo ra một niềm cộng cảm dựa trên huyết thống” [22, tr.253]. Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng: “một người Việt Nam bình thường có 3 họ: Họ mẹ, Họ bố, Họ vợ chồng” đã phản ảnh đầy đủ mối quan hệ về dòng họ của người Việt từ truyền thống đến hiện tại [121, tr.76]. Điểm lại một số định nghĩa tiêu biểu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, về cơ bản các ý kiến đều tương đối thống nhất khẳng định: dòng họ là một thiết chế xã hội đặc biệt, gắn bó với nhau bởi quan hệ huyết thống do khởi sinh từ một thủy tổ. Trong mối quan hệ đồng huyết này, các cá nhân bao gồm cả người đang sống và người đã chết đều mang họ theo phía bố; người Việt thường coi trọng họ nội. Tuy nhiên, chính mối quan hệ quan trọng nhất - mối quan hệ huyết thống đó đã khiến dòng họ người Việt hình thành hàng loạt mối quan hệ khác: quan hệ kinh tế với chế độ lưu giữ và thừa kế gia sản, quan hệ tín ngưỡng thờ tổ tiên mà trước hết là thờ thủy tổ, quan hệ cộng đồng của các thành viên cùng sống trong một thiết chế xã hội được tổ chức theo nguyên tắc luân lý… Mặc dù phần lớn quan niệm về dòng họ của các tộc người thiểu số còn ít được đề cập nhưng có những định nghĩa, theo chúng tôi là rất đáng lưu ý. Chẳng hạn, quan niệm của nhà dân tộc học Cầm Trọng khi khảo sát về mối quan hệ dòng họ trong cộng đồng người Thái hay rộng hơn là cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái cho rằng: một bản thường chỉ có một hoặc hai họ lớn được coi là gốc. Trong 19 một bản Thái có khá đầy đủ mối quan hệ: ải nọng, lúng ta, nhính xao (họ bố, họ mẹ, họ vợ). Ý kiến này của tác giả Cầm Trọng cùng quan điểm với Giáo sư Trần Quốc Vượng khi bàn về dòng họ người Việt. Quan niệm ba họ này nảy sinh khá rõ rệt ở xã hội Thái Tây Bắc, ở đấy việc lấy đổi giữa hai nhóm hôn nhân hay là hai họ hay hai tông tộc bị ngăn cấm. Nguyên tắc hôn nhân là theo nguyên tắc thuận chiều. Tập quán chỉ cho phép người con trai bên nhính xao lấy con gái bên lúng ta. Nếu ngược lại sẽ phạm tục kiêng quay ngược đầu lợn, bị xã hội chê - hai họ không nắm được luật lệ ông cha, vợ chồng sẽ không có con đàn cháu lũ, không có con trai nối dõi tông đường…[112, tr.78]. Qua việc điểm lại những nghiên cứu viết về dòng họ người Việt và cư dân Tày - Thái và các tộc người thiểu số khác trên đây, có thể thấy, phần lớn các tác giả chủ yếu tập trung vào nhấn mạnh yếu tố “phụ hệ”, còn việc quan tâm đến yếu tố “mẫu hệ” trong các công trình còn đang rất ít được đề cập. Ngoài ra, những công trình nghiên cứu về các dạng thức khác như tính song hệ còn hiếm thấy. Trong những nghiên cứu này, sự thống nhất được khẳng định về cơ sở dòng họ là xuất phát từ quan hệ huyết thống, cùng với quá trình tồn tại và phát triển của nó trong những điều kiện lịch sử và trên một không gian địa lý nhất định. Tuy nhiên, việc lý giải quan hệ dòng họ của các tộc người cũng còn nhiều điểm chưa thật nhất quán, để lại nhiều vấn đề cần được nghiên cứu thêm. Điểm này cũng xuất phát từ những nhân tố tộc người, yếu tố lịch sử - địa lý, cũng như điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng,… 1.2.1.3. Về khái niệm sử dụng trong luận án - Dòng họ: Là toàn thể những người cùng huyết thống. Tính huyết thống có thể được tính theo bên bố (chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (chế độ mẫu hệ). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, tổ chức dòng họ là đề cập tới cấu trúc, tổ chức của những người cùng huyết thống. Đối với trường hợp người Nùng Phàn Slình, được chọn làm đối tượng nghiên cứu của luận án này, dòng họ là toàn thể những người được tính theo huyết thống bên bố. - Quan hệ dòng họ: là mối quan hệ với những người bên họ bố, họ mẹ và họ vợ/chồng (của người có vợ/chồng). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, chức năng của quan hệ dòng họ là đề cập tới cấu trúc, chức năng của mối quan hệ với ba họ nêu trên. 20 - Ngoại hôn dòng họ: Là quy tắc hôn nhân của dòng họ, tức là người đàn ông trong một họ chỉ được phép kết hôn với người ngoài dòng họ với mình. Khái niệm ngoài dòng họ ở đây được hiểu theo nghĩa phụ hệ. Có nghĩa là người đàn ông không được lấy một phụ nữ có chung ông tổ với mình, dù là cách xa mấy đời cũng vậy [98, tr. 37-38]. 1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu 1.2.2.1. Lý thuyết chức năng Trong nhân học thì Bronislaw Malinowshi (1884 - 1942) và Radcliffe Brown (1882 - 1955) được xem là những người lập nên trường phái chức năng. Dân tộc học mô tả của Malinowski đã trở thành những khuôn mẫu văn bản mới có phong cách duy thực. Sức mạnh của những tác phẩm dân tộc mô tả này nằm ở nghiên cứu thực địa được tiến hành trong một thời gian dài và quan trọng hơn chính là ở những lời khẳng định về lý thuyết chức năng, phương pháp luận để tìm ra cấu trúc của xã hội và văn hóa tốt hơn so với những người truyền giáo tại chỗ hay những nhà dân tộc học ghế bàn h. Ông cũng là một người đề xướng việc vận dụng nhân học như vốn kiến thức thực tiễn để phát triển và cải cách xã hội. Lý thuyết chức năng nhấn mạnh lên động cơ dân tộc và cấu trúc động cơ, hệ thống pháp luật, sở hữu đất đai và hệ thống đất canh tác, thương mại và giao dịch, phúc lợi xã hội và hệ thống y tế [76]. Nhưng có lẽ đóng góp lớn nhất của Malinowski là “ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phân tích thiết chế và đưa ra một khung phân tích thiết chế mà ngày nay vẫn có thể ứng dụng tốt. Theo ông, thiết chế là những cách thức chung và tương đối ổn định để tổ chức các hoạt động của con người trong xã hội nhằm đáp ứng hay thỏa mãn những nhu cầu hay yêu cầu cơ bản của xã hội. Những đặc trưng chung nhất của mọi thiết chế bao gồm: điều lệ (charter), con người tham gia, chuẩn mực, cơ sở vật chất, hoạt động, chức năng. Phân tích thiết chế là phân tích sáu khía cạnh đó trong sự vận hành của chúng (cấu trúc và quá trình). Đối với Malinowski, ở cấp độ cấu trúc (xã hội) có 4 yêu cầu cơ bản mang tính phổ quát: sản xuất và phân phối vật phẩm tiêu dùng, kiểm soát và điều chỉnh hành vi, giáo dục (xã hội hóa), tổ chức và điều hành các quan hệ quyền lực. Những yêu cầu này được đáp ứng bởi những thiết chế tương ứng” [29, tr. 171].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan