Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí từ thực tiễn tỉnh quảng nam...

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.PDF
90
117
71

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN TRỌNG Ý QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐỖ MINH KHÔI HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “QLNN đối với HĐBC từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Quảng Nam, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Phạm Văn Trọng Ý MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ............................................................... 7 1.1. Khái quát về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ........................ 7 1.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí của UBND cấp tỉnh…………………………………………………………………………...16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí…..21 1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí và những bài học rút ra cho tỉnh Quảng Nam ....................................................................... 23 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM....................... 29 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ................................................... 29 2.2. Thực trạng hoạt động báo chí được cấp phép trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ................................................................................................................. 32 2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua ........................................................ 36 2.4. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .......................................................................... 52 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .................................................................. 59 3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025 .................................................. 59 3.2. Các giải pháp chủ yếu quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025.......................................................... 62 3.3. Một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025 .............. 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Nghĩa đầy đủ Từ viết tắt 1 HĐBC Hoạt động báo chí 2 QLNN Quản lý nhà nước 3 UBND UBND MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 30 năm đổi mới, cùng với kinh tế, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt trong hơn 30 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế, thực hiện tốt chức năng tư tưởng, báo chí nước ta đã chủ động, tích cực và có nhiều sáng tạo, góp phần vào việc truyền bá, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước vào cuộc sống. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh quảng Nam có Báo Quảng Nam, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Đất Quảng, Tạp chí Văn hóa Quảng Nam, Tạp chí Khoa học và Sáng tạo, 01 cơ quan đại diện và gần 20 phóng viên thường trú của các CQBC Trung ương đóng tại Quảng Nam [38, tr.7]. Các CQBC bản tin trên địa bàn tỉnh đã bám sát nội dung định hướng tuyên truyền, bám sát các sự kiện, những vấn đề phát sinh trong đời sống hằng ngày để thông tin kịp thời và toàn diện mọi diễn biến trong tỉnh, trong nước, quốc tế, và định hướng chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về tuyên truyền các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đáp ứng nhu cầu được thông tin của người dân. Kịp thời biểu dương những điển hình, nhân tố mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; phán ánh trung thực và khách quan các vấn đề được dư luận nhân dân quan tâm phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp. Báo chí cơ bản đảm bảo nội dung thông tin chính xác, góp phần định hướng dư luận xã hội; đề xuất với các ngành, các cấp những giải pháp cụ thể, tích cực nhằm giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành và triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đạt hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, hiệu quả, HĐBC của tỉnh Quảng Nam vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định: Nội dung, hình 1 thức báo chí chưa thật hấp dẫn, hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa thật sự chi phối làm chủ thông tin và dư luận xã hội; tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước chưa thường xuyên, chưa sâu rộng; chưa có nhiều tác phẩm có giá trị, sức lan tỏa cao và đạt giải thưởng báo chí quốc gia. Đáng lo ngại nhất là một số cơ quan đại diện, phóng viên thường trú thông tin một số vụ việc trên báo chí chưa thật khách quan, trung thực, chuẩn xác, gây dư luận không tốt trong xã hội, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh, nhất là đối với một tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số khu vực Miền Trung… Những tồn tại trên một phần là do hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực HĐBC còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời phù hợp với thực tiễn HĐBC. Ngoài ra, nguyên tắc “phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt” chưa được quán triệt đầy đủ. Vì vậy, phải có sự nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện hơn nữa pháp luật về QLNN đối với HĐBC. Từ thực tiễn và yêu cầu cấp thiết cần phải có những giải pháp tăng cường QLNN về báo chí hiện nay trên địa bàn tỉnh tôi chọn đề tài “QLNN đối với HĐBC từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đây là hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, có vai trò vị trí rất quan trọng, vì vậy cần phải được quan tâm thường xuyên để có những giải pháp phù hợp kịp thời trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài viết, đề tài, công trình nghiên cứu, luận văn, luận án… liên quan đến vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau, với những lý giải, kiến nghị sâu sắc và có giá trị thực tiễn cao. Hiện nay các công trình, đề tài, tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực này có thể kể đến một số tài liệu sau: 2 “Phạm vi bao quát và tăng cường hiệu lực QLNN thi hành Luật Báo chí” (Nguyễn Văn Dững - Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 4/1998; “QLNN về báo chí qua 8 năm thi hành Luật Báo chí” (Đỗ Quý Doãn Chuyên san Nhà báo và Công luận, số 4/1998); “Báo chí Việt Nam - nhìn lại để bước vào thế kỷ mới” (Đỗ Quý Doãn - Tạp chí Người làm báo, số tháng 12/1999); “Vấn đề lãnh đạo quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới” (Bùi Đình Khôi - Tạp chí Người làm báo, số tháng 6/1997; Đào Duy Quát, Vũ Duy Thông, Đỗ Quang Hưng, Tổng quan lịch sử báo chí Cách mạng Việt Nam (1925 - 2010) (2010)... PGS.TS. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Lê Thanh Bình, ThS. Phí Thị Thanh Tâm (2009), QLNN và pháp luật về báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin; TS. Lê Minh Toàn (2009), QLNN về thông tin và truyền thông, Nxb Chính trị quốc gia; TS. Hoàng Quốc Bảo (2010), Lãnh đạo và quản lý HĐBC Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính; TS. Nguyễn Thế Kỷ (2012), Công tác lãnh đạo quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia; Ths. Phí Thị Thanh Tâm (2009), “QLNN về báo chí trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. Một số bài viết trên các báo tạp chí như: TS Hà Huy Phượng (2017), Báo chí – Công cụ hoạt động hiệu quả trong công tác tư tưởng 2017; Ths. Doãn Thị Thuận (2016), Kinh nghiệm quản lý báo chí điện tử ở một số quốc gia trên thế giới; Ths. Nguyễn Thị Mai Anh (2016), QLNN về báo chí trong thời kì đổi mới… Tóm lại tất cả các công trình liên quan đến lĩnh vực QLNN đối với HĐBC mà tác giả liệt kê ở trên là các công trình xây dựng và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về HĐBC và QLNN đối với HĐBC, vai trò và đóng góp của báo chí trong đời sống xã hội. Phân tích những bất cập của pháp luật nước 3 ta trong những quy định về quản lý HĐBC. Về thực tiễn QLNN đối với báo chí tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua chưa có một bài viết cũng như đề tài nghiên cứu nào. Qua các tài liệu trên thì đây là các công trình rất giá trị đối với những người nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ khoa học pháp lý, chuyên ngành Quản lý công và ở mức độ nhận xét chung về thực trạng HĐBC trong phạm vi toàn quốc. Trên thực tế, nguồn tài liệu tham khảo, các sách khảo cứu chuyên đề về quản lý báo chí khá nhiều, nhưng tài liệu mới còn quá ít, nhất là chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu QLNN đối với HĐBC ở tỉnh Quảng Nam, vì thế đã có khó khăn, trở ngại trong việc nghiên cứu của tác giả. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý công của mình không trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu trước đây, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã giúp tác giả bổ sung thêm kiến thức về khung lý thuyết cũng như phương pháp ứng dụng các kiến thức cơ bản của khoa học báo chí, kế thừa một số nội dung về lý luận nhằm giải quyết những vấn đề đặt ta trong thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực QLNN đối với HĐBC tại tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về QLNN đối với HĐBC và khảo sát thực tiễn công tác này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với báo chí ở tỉnh Quảng Nam hiện nay 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN đối với báo chí, vận dụng trong QLNN đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng HĐBC và QLNN đối với HĐBC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thời gian qua. 4 - Phân tích phương hướng và đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện QLNN đối với HĐBC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Công tác QLNN đối với hoạt động của báo chí 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những nội dung QLNN đối với hoạt động của báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam theo quy định của pháp luật: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí; Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp báo chí; Tổ chức thông tin cho báo chí và quản lý thông tin của báo chí; Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo; Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí; Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí và Tổ chức khen thưởng; thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động báo chí. Về không gian: Luận văn nghiên cứu QLNN đối với HĐBC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh Quảng Nam. Về thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về báo chí cách mạng và QLNN đối với HĐBC trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5 Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, lôgíc, so sánh đối chiếu, khoa học dự báo để hình thành các khái niệm khoa học, đánh giá pháp luật, thực hiện pháp luật về QLNN trong lĩnh vực báo chí. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn tổng quan góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN đối với HĐBC; được vận dụng trong QLNN đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Phân tích làm rõ thực trạng HĐBC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Phân tích đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động của báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; Phân tích phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với hoạt động của báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập và cho các nhà quản lý liên quan đến báo chí. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về QLNN đối với HĐBC; Chương 2: Thực trạng QLNN đối với HĐBC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam; Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hoạt động QLNN đối với báo chí trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ 1.1. Khái quát về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí 1.1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Báo chí là phương tiện thông tin, tuyên truyền. Trong xã hội có giai cấp, báo chí là công cụ đấu tranh giai cấp. Theo các nhà nghiên cứu, báo chí là một mặt của đời sống xã hội, từ khi ra đời đến nay đã tồn tại song hành cùng quá trình phát triển của loài người. Trong quá trình đó, báo chí có những tác động to lớn đối với xã hội loài người được thể hiện trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống… [27, tr.32] Luật Báo chí năm 2017 có 6 chương, 61 điều, trong đó có 32 điều mới, 29 điều sửa đổi. Luật Báo chí năm 2017 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 5.4.2016 và Chủ tịch nước công bố Luật ngày 29.4.2016. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2017. Kết cấu các chương của Luật Báo chí lần này đã bỏ chương QLNN về báo chí, thay đổi kết cấu chương III (Nhiệm vụ quyền hạn của báo chí), chương IV (Tổ chức báo chí và nhà báo) của Luật Báo chí 1999 thành chương III (Tổ chức báo chí) và chương IV (HĐBC) trong Luật Báo chí mới. Ở Điều 4, Luật Báo chí 2017 định nghĩa báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng cơ quan nhà nước tổ chức chính trị - xã hội tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp tổ chức xã hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân” [34] 7 HĐBC: Nguyên tắc là cơ sở lý luận – phương pháp luận của HĐBC. Tính chất lý luận của nó thể hiện ở chỗ, HĐBC đòi hỏi phải nắm vững những quy luật của bản thân nền báo chí với tư cách là một hoạt động chính trị - xã hội, quy trình của quá trình tiếp nhận, truyền tải và phổ biến thông tin, quy luật của lĩnh vực sáng tạo tinh thần. Tính chất phương pháp luận của nguyên tắc báo chí thể hiện ở chỗ, nhà báo chẳng những hiểu biết, nắm vững các quy luật nói trên mà còn phải tích cực vận dụng chúng,biến chúng thành những quy tắc và chuẩn mực nghề nghiệp, nền tảng của những phương pháp sáng tạo ra các tác phẩm báo chí. Tại Điều 3, Luật Báo chí 2017 định nghĩa: HĐBC là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí sản phẩm báo chí sản phẩm thông tin có tính chất báo chí; cung cấp thông tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thông tin trên báo chí; xuất bản in phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn phát sóng báo nói báo hình [34]. Hiện nay báo chí nước ta được chia thành 4 loại hình báo chí như sau: Báo in: Được hiểu là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in. Đây là hình thức truyền thống và lâu đời nhất của báo chí và được sử dụng rộng rãi phổ biến; hiện nay đang được nâng cao chất lượng cả về hình thức và nội dung, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của người dân. Báo in có những đặc điểm riêng của nó, quan trọng là chuyển tải nội dung thông tin qua văn bản in. Báo nói: Là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau. Ưu điểm của phát thanh là tốc độ và đơn giản. Mọi người nghe tin tức phát thanh khi họ cần biết một cách nhanh chóng điều gì đang diễn ra, phát thanh đơn giản và ngắn gọn nên thông tin sẽ nhanh hơn. Báo nói có đặc điểm 8 là tỏa sóng rộng khắp, thông tin nhanh tiếp nhận đồng thời, sống động và sử dụng âm thanh tổng hợp. Tuy nhiên, báo nói có hạn chế là thông tin lại phụ thuộc vào thời gian, tức là người nghe phải nghe chương trình một cách tuần tự từ đầu đến cuối một cách hoàn toàn bị động. Báo hình: Là thông tin được truyền tải dưới dạng hình ảnh và âm thanh thông qua thiết bị máy phát hình và máy thu hình tạo cho người xem cảm giác sống động của hiện thực cuộc sống. Nói cách khác, báo hình là loại báo chí sử dụng hình ảnh là chủ yếu, kết hợp tiếng nói, âm thanh, chữ viết, được truyền dẫn, phát sóng trên các hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ khác nhau. Báo điện tử: Báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử. Báo điện tử còn gọi là internet truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, clip... Ngày nay, báo điện tử chiếm ưu thế với khả năng cập nhật thông tin nhanh, phong phú cùng một lúc có thể cập nhật tin tức của nhiều tờ báo khác nhau gần như mức độ nhanh và chính xác ngày càng cao. QLNN đối với HĐBC Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác liên quan đến QLNN đối với báo chí. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung được nội hàm của cụm từ này, chúng ta đi từ khái niệm quản lý. Nói đến QLNN đối với báo chí là nói đến những hoạt động của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho HĐBC được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình gây mất an ninh chính trị và trật tự trong nước” [26, tr.16]. 9 Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu QLNN đối với báo chí là tổng thể những hoạt động của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những quy định của pháp luật đảm bảo cho báo chí thực hiện được nhiệm vụ thông tin của mình và chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và HĐBC do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước phát triển các mối quan hệ xã hội thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân. 1.1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về báo chí ở Việt Nam Với một thể chế chính trị rất đặc thù là chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam. Và theo quy định Hiến pháp năm 2013 thì Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội (trong đó có báo chí) [31]. Chính vì vậy, hoạt động QLNN về báo chí bên cạnh những điểm chung như ở nhiều nước khác có thể chế chính trị khác nhau thì cũng có những đặc thù riêng. Một là, có sự phối hợp trong hoạt động lãnh đạo, quản lý báo chí giữa Đảng và Nhà nước. Thực tế, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết để định hướng phát triển cho báo chí, trong những thời điểm, báo chí có những xu hướng, biểu hiện đi chệch định hướng thì Đảng cũng có những chỉ thị, nghị quyết để chấn chỉnh và định hướng lại. Hai là, Nhà nước thực hiện quản lý báo chí thông qua Luật Báo chí. Hệ thống pháp luật liên quan đến HĐBC đã được xây dựng khá đầy đủ, từ Láo chí đến các văn bản quy phạm pháp luật khác; về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động quản lý. Đây được coi là một đặc thù bởi không phải quốc gia nào cũng quản lý HĐBC bằng một đạo luật riêng về báo chí. 10 Ba là, QLNN đối với từng loại hình báo chí ở Việt Nam hiện nay có những đặc điểm riêng. Thứ nhất, đối với báo in: hoạt động quản lý đã có truyền thống kinh nghiệm, tuy nhiên một trong những điểm yếu cần khắc phục ngay hiện nay là công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch. Thứ hai, đối với phát thanh - truyền hình: ngoài các nội dung quản lý vốn đã có từ trước. QLNN đối với lĩnh vực này cần thường xuyên có sự cập nhật công nghệ phát thanh - truyền hình mới; cần tăng cường quản lý ở những nội dung nhạy cảm và có độ “mở” như các chương trình liên kết. Thứ ba, đối với báo chí điện tử: là hình thức báo chí mới, hoạt động quản lý còn lúng túng, việc cấp phép cần được kiểm soát kỹ lưỡng, ngoài các tiêu chí chung chỉ cấp phép cho các CQBC điện tử khi đã có đầy đủ các tiêu chuẩn về đảm bảo an ninh mạng. Bên cạnh sự thiếu thốn về trang thiết bị như hệ thống mạng, các thiết bị, phương tiện hiện đại, những hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý về khả năng sử dụng ngoại ngữ, công nghệ cũng đang là một rào cản, hạn chế hiệu quả quản lý đối với lĩnh vực này. 1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí 1.1.2.1. Mục tiêu quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Hoạt động QLNN đối với báo chí có mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, một trong những mục tiêu của quản lý HĐBC là sắp xếp hệ thống báo chí, khắc phục tình trạng chồng chéo, đầu tư dàn trải, buông lỏng quản lý, hoạt động xa dời tôn chỉ mục đích... Rõ ràng mục tiêu này đã phần nào phản ánh một số hạn chế của báo chí hiện nay. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý về báo chí. Trong xu thế phát triển của báo chí, của khoa học công nghệ như hiện nay, đôi khi có những văn bản vừa mới ban hành ra đã xuất hiện sự không phù hợp với hiện 11 tại. Chẳng hạn như Luật báo chí vừa mới ban hành 2016 bắt đầu đã có biểu hiện lạc hậu. Có những cái chúng ta chưa quy định rõ ràng, chẳng hạn như: tạp chí điện tử là như thế nào, báo điện tử là như thế nào, những quy định trong nội dung liên kết sản xuất chương trình là như thế nào... chúng ta có quy định đó nhưng chưa rõ ràng. Cho nên có hiện tượng lách luật, dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý và mục tiêu của QLNN đối với HĐBC là xây dựng một hệ thống văn bản quản lý ổn định, toàn diện nhằm định hướng cho HĐBC phát triển. Thứ ba, quản lý, chắt lọc các thông tin xuất hiện trên các loại hình chí. Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, người làm báo hiện nay có nhiều lợi thế, nhất là trong khai thác thông tin, chỉ vài phút vào Internet là có thể biết cả thế giới có việc gì đang diễn ra; do sự phát triển của các loại hình báo chí mà chúng ta có thể lựa chọn sử dụng bất kỳ một sản phẩm báo chí nào. Điều ấy trong thời kỳ kháng chiến trước đây không thể nào có được. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển về quy mô, tính chất, mang nhiều tiện ích đến cho người đọc, người xem, người nghe, thì lòng tin vào báo chí cũng có mặt đang bị giảm sút đáng lo ngại. Đó là do không ít thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay thiếu trung thực, phiến diện một chiều, thậm chí là xuyên tạc, sai sự thật. Thứ tư, xây dựng một đội ngũ nhà báo chân chính, hoạt động đúng tôn chỉ và tinh thần của người làm báo. Trong thời gian vừa qua, các sai phạm của báo chí thường tập trung vào các báo của một số tổ chức hội. Một trong những lý do là báo của hội phản ảnh sai tôn chỉ mục đích, nói tất cả những vấn đề khác, vấn đề của hội mình không nói, do đó phải đưa về tạp chí. Tạp chí chỉ tập trung nghiên cứu và thông tin những hoạt động của hội đó thì sẽ phù hợp hơn. Nếu để tình trạng như hiện nay thì bản thân uy tín của các hội, cơ quan chủ quản cũng bị giảm sút. 12 1.1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Sau đây là những nguyên tắc cơ bản trong QLNN đối với báo chí. Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí tự do ngôn luận của công dân Tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí là một nguyên tắc hiến định. Theo quy định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 thì công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tiếp cận thông tin. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định [31]. Có thể hiểu quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin là quyền của mỗi người được tự do bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan điểm; tự do trao đổi các thông tin trên hệ thống báo chí, xuất bản, Internet, trong các cuộc hội họp…theo quy định pháp luật. Bằng việc ban hành các bộ luật: Luật xuất bản, Luật báo chí, Luật công nghệ thông tin…, những quy định của Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin đã được cụ thể hóa. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định [31]. Các quyền tự do ngôn luận, báo chí đã được khẳng định ngay trong Điều 10, Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của Nhà nước Việt Nam, sau đó được tiếp tục ghi nhận trong các bản Hiến pháp sau này. Các quyền hiến định đó được thể chế hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Như vậy, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí có nội dung rõ ràng, cụ thể và được công bố một cách hệ thống. Thứ hai, nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả HĐBC một cách bình đẳng của tất cả công dân Bằng hoạt động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế và định hướng dư luận xã hội một cách tích cực. Nhiều nước trên thế giới đã khai thác triệt để hiệu quả HĐBC nhằm phục 13 vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội thịnh vượng, công bằng, dân chủ và văn minh thông qua sự điều tiết của pháp luật. Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 17, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 đã quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách, tạo điều kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến với nhân dân các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” [33]. Thứ ba, kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí tự do ngôn luận làm trái pháp luật Từ khi ra đời cho đến ngày nay, báo chí luôn có những ảnh hưởng nhất định đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi tính quần chúng của nó. Nhà nước ta luôn luôn đề ra kim chỉ nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là kiên quyết đấu tranh và đấu tranh đến cùng để chống lại các hành vi đầy mưu đồ này. Vì vậy, trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp 2013, Điều 4 Luật Báo chí 2016 một mặt khẳng định sự tôn trọng quyền tự do báo chí của công dân, mặt khác đã tạo ra hành lang pháp lý ngăn chặn triệt để những âm mưu này khi quy định: “báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức cá nhân nào được hạn chế cản trở báo chí nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước tập thể và công dân” [34]. Để bảo đảm nguyên tắc này, Nhà nước kiên quyết loại trừ những hành vi, HĐBC phương hại đến độc lập dân tộc và an ninh trật tự xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng luôn đề ra nhiều phương pháp để hướng HĐBC đi đúng quy định của pháp luật, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và xã hội. 14 1.1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ở địa phương Ở Việt Nam, việc xác định cơ quan QLNN đối với báo chí mang tính lịch sử, bởi lẽ từ khi ra đời, nước ta đã 5 lần ban hành Hiến pháp: gồm Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013. Ở đây chúng ta không thể đi ngược lại lịch sử để đi tìm hiểu cơ quan QLNN đối với báo chí qua từng thời kỳ khác nhau mà chỉ tìm hiểu cơ quan có thẩm quyền QLNN đối với báo chí từ Hiến pháp 1992 và Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 2017 . Theo quy định của Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 2017 quy định các cơ quan QLNN về báo chí ở Trung ương và địa phương được quy định như sau: Ở địa phương, trách nhiệm QLNN đối với báo chí thuộc về UBND các cấp tỉnh theo sự phân cấp của Chính phủ. Đây là các cơ quan Nhà nước có sự can thiệp một cách trực tiếp, sâu sắc nhất đối với việc QLNN đối với báo chí thông qua các Sở Thông tin - Truyền thông và các bộ phận trực thuộc. Đối với báo chí, Sở Thông tin - Truyền thông có nhiệm vụ và quyền hạn: Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về HĐBC trên địa bàn;Tổ chức kiểm tra báo chí lưu chiểu và quản lý báo chí lưu chiểu của địa phương; Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động bản tin cho các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh; Trả lời về đề nghị tổ chức họp báo đối với các cơ quan, tổ chức của địa phương; Tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và đề nghị các cấp có thẩm quyền cấp thẻ nhà báo, cấp phép HĐBC, giấy phép xuất bản các ấn phẩm báo chí, ấn phẩm thông tin khác theo quy định của pháp luật cho các CQBC và các cơ quan, tổ chức khác của địa phương; Xem xét cho phép các CQBC của địa phương khác đặt văn phòng đại diện, văn phòng liên lạc, cơ quan thường trú trên địa bàn của địa phương mình; Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp phát thanh, truyền hình của địa phương sau 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan