VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ XUÂN LANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ XUÂN LANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Trần Minh Đức. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hồ Xuân Lanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
.....................................................................................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất. ..........................................................................................................8
1.2. Nội dung Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ..16
1.3. Phương thức Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
...................................................................................................................................25
1.4. Các yếu tố tác động đến việc Quản lý Nhà nước về bồi thường , hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất .........................................................................................................29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH
QUẢNG NAM .........................................................................................................41
2. 1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng
Nam có liên quan đến việc Quản lý Nhà nước về bồi thường , hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất ..................................................................................................................41
2.2. Thực trạng bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ..................................43
2.3. Tình hình quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất ....48
2.4. Những ưu điểm và hạn chế, bấp cập trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước
về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất .........................................................57
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HIỆP ĐỨC, TỈNH QUẢNG NAM ........63
3. 1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam ......................63
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam ..........................66
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn của huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam ............................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
STT
Nghĩa đầy đủ
1
BT, HT, TĐC
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
2
BTNMT
Bộ tài nguyên môi trường
3
GS.TSKH
Giáo sư Tiến sĩ khoa học
4
GPMB
Giải phóng mặt bằng
5
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
6
NN
Nhà nước
7
NĐ-CP
Nghị định Chính phủ
8
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
9
PGS.TS
Phó giáo sư Tiến sĩ
10
SDĐ
Sử dụng đất
11
TP
Thành phố
12
UBND
Ủy ban nhân dân
13
UBMTTQVN
Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam
14
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai được coi là “tấc vàng” bởi nó là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá,
là tư liệu sản xuất đặt biệt không gì thay thế nổi của nhiều ngành sản xuất, thành
phần quan trong hàng đầu của môi trường sống và là nền tảng để xây dựng các cơ
sở kinh tế, khu dân cư, công trình văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi
quốc gia.
Dự án thu hồi đất đã mang lại một số kết quả tích cực đáp ứng yêu cầu đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng, đóng góp vào dịch chuyển cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và thương mại - dịch vụ; xây dựng các
công trình an sinh xã hội, góp phần cải thiện đời sống người dân.
Tuy nhiên vấn đề thu hồi đất và những chính sách hỗ trợ sau khi thu hồi tài
sản thuộc sở hữu toàn dân này lại là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp bởi nó đã
động chạm đến quyền lợi trực tiếp của người dân có đất bị thu hồi, nó tác động đến
mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn... Nên vấn đề thu
hồi đất hiện đang trở thành một vấn đề “nóng” mà mọi đối tượng đều quan tâm, kể
cả Nhà nước và xã hội. Hiện nay, công tác thu hồi đất và thực hiện các chính sách
bồi thường, hỗ trợ sau thu hồi gặp nhiều khó khăn, tồn tại nhiều vướng mắc, hiệu
quả thấp, kể cả việc thu hồi đất để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng
đồng dân cư có đất bị thu hồi. Không ít địa phương buộc phải điều chỉnh quy hoạch,
sửa đổi lại thiết kế dự án do công tác giải phóng mặt bằng không khả thi hoặc do
không đảm bảo cơ sở hạ tầng. Hệ quả kéo theo không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ,
làm thiệt hại kinh tế của các nhà đầu tư, nhà doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng đất,
mà còn làm cho tình hình bức xúc, gây bất ổn định chính trị - xã hội ở nhiều địa
phương. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng này, có nguyên nhân cơ bản
từ các vướng mắc ở những quy định về hỗ trợ, bồi thường, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Nhận thức được vấn đề này, Nhà nước ta đã liên tục sửa đổi, bổ sung và
từng bước hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất. Tuy nhiên, vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất hiện nay vẫn
là mảng đề tài “nóng bỏng” cần sự quan tâm của Nhà nước và của toàn xã hội. Do
đó, việc quan tâm nghiên cứu để hoàn thiện những quy định về hỗ trợ, bồi thường,
1
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là cấp thiết; qua đó đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả trong thực thi công tác là nhiệm vụ thường xuyên hiện nay ở nước ta.
Hiệp Đức là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam. Để có thể triển khai cơ
bản các mục tiêu vạch ra, huyện Hiệp Đức cần một quỹ đất đáng kể nhằm xây dựng
hệ thống công trình phục vụ những dự án kinh tế - xã hội, nâng cấp cơ sở hạ tầng,
tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ nhu cầu này đã và đang đặt ra đối với
chính quyền huyện phải giải bài toán lớn trong công tác hỗ trợ, bồi thường, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Hiệp Đức. Việc thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của huyện
và tác động lớn đến đời sống của nhân dân tại địa phương. Như vậy, Huyện ủy Hiệp
Đức và chính quyền huyện này cần có sự tính toán lỹ lưỡng và đồng bộ hóa cơ chế,
chính sách, thiết kế khả thi các phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất thích hợp để giải quyết tốt, phòng tránh các vướng mắc xảy đến, giảm thiểu hiệu
quả tình trạng các khiếu kiện liên quan đến hỗ trợ, bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất, hạn chế tình trạng bất ổn định về trật tự an toàn xã hội và an ninh
chính trị. Với ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” để
nghiên cứu làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
hành chính, qua những kiến thức lý luận và thực tiễn, tìm hiểu nguyên nhân và đóng
góp ý kiến nhằm xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Hiệp Đức.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Một trong nhiều chế định căn bản của pháp luật đất đai, đó là bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Một khi chế định này áp dụng trong thực
tiễn cuộc sống sẽ trực tiếp chạm đến quyền và lợi ích của đối tượng bị thu hồi đất,
lợi ích của các nhóm dân cư cộng đồng xã hội và lợi ích của giới đầu tư. Do đó, vấn
đề này vốn dĩ nhận sự quan tâm của giới nghiên cứu, nhà khoa học nghiên cứu
ngành pháp lý. Ở khía cạnh lý luận và thực tiễn, những năm qua đã có các công
trình, tài liệu sách, tạp chí nghiên cứu của các tác giả, điển hình là:
Kỷ yếu hội thảo đền bù và giải phóng mặt bằng các dự án xây dựng ở Việt
Nam của Hội khoa học kỹ thuât xây dựng Việt Nam, tổ chức ngày 12-13 tháng 9
năm 2002 tại Hà Nội. Một trong nhiều nội dung ở Kỷ yếu hội thảo này về cơ bản
2
thống nhất xác định rằng: Công tác đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng trong quá trình hiện nay không chỉ đơn thuần là sự đền bù về mặt vật chất
mà còn phải đảm bảo lợi ích của người dân phải di chuyển. Đó là họ phải có được
chỗ ở ổn định, điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi cũ, nhưng chắc chắn phải tốt
hơn nơi cũ về mọi mặt thì mới tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.
Tài liệu Báo cáo Điều tra nghiên cứu xã hội học năm 2003 của Tổng cục
Địa chính – Viện nghiên cứu địa chính về chính sách đền bù giải phóng mặt bằng
và tái định cư. Báo cáo này nghiên cứu đã xác định, trong số 6000 hộ được điều
tra thì chiếm tới 92,50% ý kiến cho rằng phương án đền bù bằng tiền vẫn là
phương án được áp dụng phổ biến. Cũng theo báo cáo chỉ ra, quỹ đất dành phục
vụ cho đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư ở mỗi địa phương là khác nhau,
quỹ đất quỹ đất công ích còn lại của đa số địa phương là không đáng kể nên
không đáp ứng được yêu cầu đền bù bằng đất và xây dựng khu TĐC. Hơn nữa,
với một số lượng lớn các hộ phải di chuyển để giải phóng mặt bằng và có nhiều
hộ có diện tích đất thu hồi lớn, nên việc bồi thường bằng đất cho họ có cùng giá
trị là rất khó khả thi. Vì vậy tỷ lệ đền bù bằng đất của các dự án ở nước ta rất
thấp 7,5%.
Công trình nghiên cứu năm 2008 “Xây dựng một số mô hình tạo việc làm
đối với lao động bị mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất” của tác giả Nguyễn Tiệp, Trường Đại học Công đoàn, Hà Nội. Nghiên
cứu này chỉ ra rằng, những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm cho lao
động tại các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp như: chuyển đổi nghề nghiệp gặp
khó khăn: do trình độ dân trí thấp; do ngoài độ tuổi tuyển dụng (nhiều tuổi) của
doanh nghiệp; do sự hỗ trợ của nhà nước chưa hiệu quả; do từ phía người dân
trong độ tuổi lao động có sự ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Bài nghiên cứu “Đo lường sự ảnh hưởng về kinh tế của chính sách giải tỏa đền
bù các hộ dân tái định cư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phạm Quang
Tín đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng – số 4 (39), 2010.
Theo nghiên cứu này, đối với thực tiễn thành phố Đà Nẵng, đất tái định cư là đất
đã có hạ tầng tốt hơn so với ban đầu và thực chất là chỉ để giải quyết được “ chỗ
ở” cho người dân mà thôi; trong khi vấn đề cốt lõi là lợi ích kinh tế trên đất sản
3
xuất của các hộ dân thì đã mất, chính điều này khiến cho các hộ dân sống nhờ
lợi ích từ sản xuất nông nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là bộ phận lao
động lớn tuổi rất khó thích nghi trong việc chuyển đổi nghề nghiệp.
Ngoài ra, cũng khá nhiều nghiên cứu khác có liên quan đến vấn đề Quản lý
Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: Luận văn Thạc sĩ
năm 1999 “Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất” của
Trịnh Thị Hằng Nga; Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2012 “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại Thành phố Hà
Nội) của Nguyễn Vĩnh Diện; Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2012 “Pháp luật về
bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực
tiễn áp dụng tại Nghệ An” của Hoàng Thị Thu Trang; Luận văn Thạc sĩ Luật học
năm 2013 Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước
– nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi” của Nguyễn Thị Tâm; Bài viết“Giải phóng
mặt bằng, còn nhiều khiếu kiện” của GS.TSKH. Đặng Hùng Võ đăng trên Báo Kinh
tế và Đô thị ngày 09/10/2006; Bài viết “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất” của TS.Trần Quang Huy đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2010; Bài viết
“Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất” của TS.
Nguyễn Quang Tuyến đăng trên Tạp chí Luật học số 3/2012;, Sách chuyên khảo
“Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam” do
TS.Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), NXB Tư pháp năm 2013. Ngoài ra còn có các
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Chuyên đề “Bình luận và góp ý đối với các
quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong dự
thảo Luật Đất đai sửa đổi” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến đăng trong Hội thảo
khoa học “Góp ý dự thảo Luật Đất đai sửa đổi” tổ chức tại Đại học Luật Hà Nội;
các nghiên cứu của GS.TSKH. Đặng Hùng Võ: “Cần sửa đổi, bổ sung gì cho Luật
Đất đai 2003”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 (148) tháng 6/2009 Các công
trình nghiên cứu của các tác giả đi trước là nguồn tài liệu quý giá để tác giả Luận
văn kế thừa và tiếp tục mở rộng nghiên cứu về vấn đề “bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất” trên các bình diện cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật và
trong thực tiễn thi hành.
Nhìn chung, những công trình được nêu trên nghiên cứu từ nhiều khía cạnh để
phân tích bình luận và đánh giá các quy định pháp luật nước ta về hỗ trợ, bồi
4
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nó có giá trị kế thừa và tham khảo
hữu ích để hoàn thiện các quy định hiện nay trong Luật Đất đai năm 2013 để nhằm
thuận tiện trong áp dụng thực tiễn. Song đối chiếu trên thực tế, chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này ở địa bàn cụ thể huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng
Nam dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Chính vì vậy đề tài này
không trùng lắp với các công trình đã công bố, việc thực hiện đề tài có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà nước
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh
Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích để làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý trong quản lý Nhà nước về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Tìm hiểu tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất tại huyện Hiệp Đức, đưa ra những kết quả đạt được và những tồn tại,
khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất nói chung và đi sâu nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật này
trên địa bàn huyện Hiệp Đức;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả Quản lý
Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn của huyện
Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng việc áp dụng pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Hiệp Đức nhằm làm rõ
mặt thành quả và mặt hạn chế, vướng mắc trong quá trình Nhà nước triển khai các
dự án thu hồi đất. Qua đó xác định các nguyên nhân chủ yếu làm cơ sở đề xuất giải
pháp gia tăng hiệu quả thực hiện pháp luật về hỗ trợ, bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: đề tài chủ yếu nghiên cứu pháp luật thực định, những
nguyên tắc pháp lý và những quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Luận văn phân tích đưa ra nhận định về
các quy định của Luật Đất đai 2013 và những văn bản dưới luật như: Nghị định
47/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013; Nghị định
số 44/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất. Ngoài
ra, Luận văn cũng nghiên cứu tham khảo những quy định pháp luật khác có liên
quan đến vấn vấn đề hỗ trợ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, cụ thể là: Luật
Quy hoạch đô thị 2009, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017.
Không gian nghiên cứu: địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2016 đến tháng 03 năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, Luận văn tiếp cận phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm
của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Bên cạnh đó, với mục tiêu tìm hiểu và đánh giá thực tiễn thi hành công tác bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: để phân tích làm rõ các dữ liệu, số liệu
được thu thập từ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện và ở các xã ở huyện Hiệp
Đức nhằm phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ, bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất.
- Phương pháp thống kê và so sánh: được sử dụng để thống kê so sánh đối
chiếu những quy định của pháp luật hiện hành so với thực tiễn thi hành nhằm tìm
chỉ ra những điểm chưa phù hợp, còn bất cập, thiếu thống nhất trong pháp luật về hỗ
trợ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
6. Ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở Luật đất đai năm 2013 quy định, các văn bản dưới luật hướng dẫn
6
cùng với thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, qua đó luận văn xác định nguyên nhân của thực trạng
về vấn đề này, nhằm góp phần tham vấn các giải pháp thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ khi thu hồi đất ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
7. Cơ cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, phần kết luận và mục tài liệu tham khảo, nội dung kết
cấu Luận văn có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý trong quản lý Nhà nước về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà
nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Hiệp Đức,
tỉnh Quảng Nam.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ
trợ khi nhà nước thu hồi đất.
Bồi thường là gì?
Trong hàng ngày, là Thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng phổ biến rộng rãi
trong đời sống thực tiễn dân sự khi tình huống diễn ra bởi hành vi của người này
gây ra dẫn đến thiệt hại cho người khác; và buộc họ có nghĩa vụ và trách nhiệm bồi
thường. “Bồi thường” - theo Từ điển tiếng Việt thông dụng, đó là sự “đền bù các
tổn hại gây ra”.
Ở phương diện pháp lý, trách nhiệm về bồi thường phát sinh khi hành vi của
một chủ thể trong xã hội vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho chủ thể khác. Trong
các ngành luật thường đề cập đến trách nhiệm bồi thường như: Trách nhiệm bồi
thường, đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng đối với lĩnh vực dân sự; trách nhiệm vật
chất bởi hành vi của người lao động gây nên đối với lĩnh vực pháp luật lao động;
trách nhiệm bồi thường oan, sai bởi hành vi của các cơ quan tố tụng gây nên đối với
lĩnh vực pháp luật hình sự;...
Thuật ngữ “bồi thường” ở lĩnh vực pháp luật đất đai đặt ra ở tình huống khi
Nhà nước thu hồi đất. Tại Chương II của Nghị định 151/TTg ngày 14 tháng 01 năm
1959 quy định về Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất đã chỉ rõ “Bồi thường
cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Năm 1970 có Thông tư 1792/TTg ngày 11
tháng 01 năm 1970 quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai,
cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở
rộng thành phố đã nêu ra việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Kể từ khi Luật
Đất đai 1987 ra đời, Hội động Bộ trưởng đã ban hành quyết định 186/HĐBT ngày
31/ tháng 5 năm 1990 quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất rừng khi
chuyển sang sử dụng vào mục đích khác, đã đề cập thuật ngữ “đền bù” thay thế cho
thuật ngữ “bồi thường”. Thuật ngữ “đền bù” cũng được sử dụng trong Luật Đất đai
1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1998 cùng với các văn
bản hướng dẫn thi hành, có thể kể đến như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994
8
của Chính phủ ban hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng;
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng Mặc dù pháp luật không đưa ra giải thích chính thức xong có
thể hiểu “đền bù thiệt hại” khi NN thu hồi đất là việc trả lại những thiệt hại do việc
thu hồi đất gây ra, tương xứng với giá trị hoặc công lao mà người sử dụng đất đã
đầu tư vào đất trong quá trình sử dụng. Khi sử dụng “đền bù” thiệt hại, phần lớn
thường cho rằng việc đền bù 100% giá trị của mảnh đất bị thu hồi. Còn khi sử dụng
“bồi thường”, người ta cho rằng Nhà nước chỉ bồi thường các giá trị về đất, tài sản
trên đất và những thiệt hại hợp lý cho người SDĐ một khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra, thuật ngữ “đền bù” có nội hàm dùng để chỉ công việc của Nhà nước trong
thu hồi đất về đền bù thiệt hại gây ra đối với người SDĐ mà không kèm theo việc
thực hiện chính sách tái định cư.
Bồi thường về đất theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai, đó là công việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất đối với diện tích đất đã
thu hồi.
Nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất
của người được nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng
đất vi phạm pháp luật về đất đai.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: Là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
Hỗ trợ, theo từ điển tiếng việt “hỗ trợ” là giúp đỡ nhau. Khi Nhà nước thu hồi
đất, các khoản hỗ trợ của Nhà nước, đó là: Ở trường hợp thu hồi đất ở, thì thực hiện
hỗ trợ di chuyển và hỗ trợ tái định cư; Ở trường hợp thu hồi đất nông nghiệp, thì hỗ
trợ ổn định sản xuất và đời sống, hỗ trợ về đào tạo chuyển đổi nghề và hỗ trợ tạo
việc làm; Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất vườn, ao không phải là đất ở; Hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trong khu vực dân cư; Hỗ trợ khác. Như vậy,
khác với bồi thường là việc trả lại một các tương xứng những giá trị bị thiệt hại, thì
hỗ trợ mang tính chính sách, trợ giúp thêm của Nhà nước, thể hiện trách nhiệm của
Nhà nước đối với sự hi sinh, mất mát của người bị thu hồi đất cho những lợi ích
chung của đất nước, của cộng đồng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, do việc bồi
9
thường chưa thực sự sòng phẳng nên các khoản hỗ trợ chưa thực sự đúng với ý
nghĩa mà nó được định nghĩa trong Luật đất đai và trong đa số trường hợp thì nó chỉ
là sự bù đắp vào khoảng thiếu hụt do việc bồi thường thiếu sòng phẳng gây ra; bên
cạnh đó một số khoản hỗ trợ thực chất là bồi thường như là hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm vì đây chính là những thiệt hại do việc thu
hồi đất gây ra.
Quản lý là gì?
Henry Fayol (1841-1925) là người đưa ra thuyết quản lý hành chính ở Pháp,
định nghĩa: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển,
phối hợp và kiểm tra”. Ông là người đầu tiên nêu một cách rõ ràng các yếu tố của
quá trình quản lý, cách thức phân tích một quá trình quản lý phức tạp thành các
chức năng tương đối độc lập và mang tính phổ biến gồm các chức năng: Dự đoán –
Lập kế hoạch; Tổ chức; Điều khiển; Phối hợp; Kiểm tra.
Nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chi thì cho rằng “Quản lý
là quá trình hoạt động nhằm đạt đến mục tiêu của tổ chức thông qua việc vận dụng
các chức năng chỉ đạo (lãnh đạo), kế hoạch hóa, tổ chức và kiểm tra”; “Quản lý là
sự tác động có chủ đích và có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để
đạt mục tiêu vạch sẵn”.
Còn với tác giả Đặng Bá Lãm xác định: “Quản lý là quá trình hoạt động có ý
thức của con người để phối hợp hành động của một cộng đồng người hoặc một
nhóm người có hiệu quả nhất nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra”.
Như vậy, quản lý là khái niệm dùng để chỉ sự tác động có hướng đích, có tổ
chức của chủ thể quản lý lên khách thể và đối tượng quản lý để sử dụng hiệu quả tối
đa các thời cơ, các nguồn lực của tổ chức trong môi trường và điều kiện biến động
nhằm đạt mục tiêu đã vạch ra”.
Quản lý Nhà nước là gì?
Kể từ khi xã hội loài người chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đánh dấu mốc
bắt đầu thời kỳ phân chia giai cấp, kéo theo nhu cầu quản lý xuất hiện. Sự phát triển
của xã hội trãi qua những thời đại khác nhau tương ứng với phương thức sản xuất
khác nhau và gắn liền với sự phát triển về trình độ quản lý. Với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ ngày nay, cùng với các yếu tố cơ bản là sức lao động,
trình độ lao động trong phát triển xã hội thì yếu tố quản lý là quan trọng hàng đầu.
10
Ngày nay, việc việc định nghĩa về quản lý có tính tương đối thống nhất.
Ngành khoa học quản lý nêu định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục có định
hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các phương diện
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… bằng hệ thống công cụ pháp luật, chính sách,
các quy định, các nguyên tắc và bằng những biện pháp cụ thể để tạo lập điều kiện
và môi trường ổn định, thuận lợi cho đối tượng Quản lý phát triển”. Do đó, quản lý
có thể hiểu phổ thông nhất, đó là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý bằng các công cụ quản lý để đạt mục tiêu xác định.
Quản lý Nhà nước là một dạng hoạt động đặc biệt trong quản lý xã hội do các
cơ quan trong hệ thống bộ máy Nhà nước thực hiện và sử dụng công cụ pháp luật,
chính sách để điều chỉnh hành vi của mọi cá nhân và tổ chức trên các mặt của đời
sống xã hội để phục vụ nhân dân và duy trì môi trường ổn định, phát triển xã hội.
Ở nghĩa đầy đủ, quản lý nhà nước có 3 chức năng căn bản là: Lập pháp do cơ
quan lập pháp đảm nhiệm; (2) Hành pháp do hệ thống cơ quan hành chính nhà nước
tổ chức thực thi; (3) Tư pháp do cơ quan tư pháp tổ chức thực hiện.
Song xét ở nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là hoạt động hành pháp (cơ quan
hành chính Nhà nước tổ chức thực thi quyền lực) nhằm quản lý, điều hành mọi mặt
của đời sống xã hội theo luật định.
Từ đó có thể hiểu Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất được hiểu là là sự tác động có tính hướng đích của Nhà nước thông qua
chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ cùng với tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ công chức để quản lý, điều hành quá trình đền bù giá trị đất và tài sản trên đất
của chủ sở hữu quyền sử dụng đất và tài sản trên đất nhằm kiến tạo cuộc sống cho
người dân bị di dời đến nơi ở mới theo hướng bền vững và đáp ứng yêu cầu quản lý
kiểm soát quá trình tăng trưởng ổn định theo mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà
nước.
Đặc điểm của quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
Thứ nhất, Quản lý Nhà nước về đất đai thuộc thẩm quyền của các cơ quan
quản lý, được quy định thống nhất từ trung ương đến địa phương. Qua đó, mỗi cơ
quan có những hoạt động khác nhau và trên phạm vi khác nhau.
Thứ hai, Quản lý, thực hiện pháp luật về hỗ trợ, bồi thường khi thu hồi đất là
quá trình các tổ chức, cá nhân và các chủ thể pháp luật quản lý việc tổ chức triển
11
khai thực hiện trên cơ sở nhận thức sáng tạo quy tắc xử sự chung của Nhà nước vào
tình huống cụ thể trong thu hồi đất mà quy phạm pháp luật đã dự kiến bằng hành vi
thực tế hợp pháp của mình.
Thứ ba, Quản lý đối với lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ là công việc phức tạp,
nhạy cảm, gắn liền đến lợi ích tài chính nên dễ bị cám dỗ, lạm dụng mà có những
hành vi phạm pháp để thu lợi bất chính. Yêu cầu Hội đồng thẩm định phải lên kế
hoạch và có nhiệm vụ thường xuyên trong theo dõi, thanh tra, kiểm tra quá trình
triển khai thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ; qua đó để phát hiện kịp thời các
dấu hiệu vi phạm pháp luật, sai phạm nhằm xử lý, tạo dựng niềm tin trong quần
chúng nhân dân.
Thứ tư, Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là
công bố công khai và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các
địa phương đã được phê duyệt và hoàn thành việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất
các cấp. Đồng thời, tiếp tục rà soát quy trình thủ tục và chấn chỉnh công tác thu hồi
đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đất đai.
Thứ năm, Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất là biện
pháp Quản lý hành chính trong công tác Quản lý đất đai; là một biện pháp pháp lý
quan trọng nhằm bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà nhà nước là đại
diện chủ sở hữu.
Thứ sáu, Đối với từng dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau có
điều kiện đặc điểm tự nhiên, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định. Đối với
khu vực nội thành, khu vực ven đô, khu vực ngoại thành, khu vực nông thôn, trình
độ dân trí khác nhau... mật độ dân cư khác nhau, ngành nghề đa dạng và đều hoạt
động sản xuất theo một đặc trưng riêng của vùng đó. Do đó, việc Quản lý Nhà nước
về bồi thường, hỗ trợ cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt.
Thứ bảy, Đất đai là vốn tài sản đặc biệt, có vai trò rất quan trọng đối với mọi
người dân và trong đời sống kinh tế - xã hội. Ở thành thị, đất đai có giá trị cực lớn.
Ở nông thôn, đất đai vốn dĩ là tư liệu sản xuất rất quan trọng, dân cư chủ yếu sống
nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan
trọng, song trình độ sản xuất hiện nay của nông dân là thấp, yếu về khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp, nên tâm lý nông dân là giữ được đất để sản xuất, họ xem việc mất
12
tư liệu sản xuất là mất đi nguồn sống chính. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác
tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này.
* Chủ thể và khách thể của quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu
hồi đất
Chủ thể của quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất: đó là cơ
quan quản lý nhà nước mà trực tiếp ở địa phương: cấp tỉnh, có UBND tỉnh Quảng
Nam cùng với đội ngũ nhân sự là cán bộ công chức cùng cấp; cấp huyện có UBND
huyện Hiệp Đức cùng với đội ngũ nhân sự là cán bộ công chức cùng cấp; và cấp xã
có UBND các xã, thị trấn cùng với đội ngũ nhân sự là cán bộ công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Hiệp Đức là cơ quan Nhà nước quản lý điều hành trực tiếp công tác
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo phân cấp.
Khách thể của quản lý nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất: đó là
lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Hiệp Đức
đang quản lý.
* Vai trò của quản lý Nhà nước về hỗ trợ, bồi thường khi thu hồi đất
Công tác Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có
vai trò hết sức quan trọng để phục vụ lợi ích của Nhà nước, của xã hội hoặc xử lý
hành vi hành chính vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất.
Thứ nhất, Vai trò quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là định ra và tổ chức thực thi chính sách thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ
hợp lý, đáp ứng được nguyện vọng và đảm bảo những quyền cơ bản của người dân
bị thu hồi đất (nhất là đảm bảo quyền con người, quyền công dân…); cũng như đáp
ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ quản lý phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng
bền vững.
Thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất đúng theo quy định của pháp luật được thực hiện đảm bảo ở các cấp
chính quyền địa phương; triển khai thực hiện việc xây dựng chiến lược quy hoạch,
thu hồi, bồi thường hợp lý đảm bảo quyền lợi cho người dân và Nhà nước. Thường
xuyên kiểm tra, theo dõi việc phê duyệt các dự án, trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ cho các hộ dân nằm trong dự án; giám sát, kiểm tra lộ trình thực hiện
dự án, hạn chế các dự án treo, các công trình xây dựng kéo dài nhiều năm ảnh
13
hưởng đến đời sống nhân dân, gây thất thoát kinh phí của Nhà nước.
Việc thu hồi đất, hỗ trợ, bồi thường cũng được thực hiện theo trình tự, thủ tục
chặt chẽ, dựa trên những cơ sở pháp lý xác định nhằm đảm bảo quyền lợi lợi ích
hợp pháp cho người sử dụng đất, để phục vụ cho mục đích quốc phòng an ninh, cho
việc xây dựng cở sở hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội hay phát triển công nghiệp, đô
thị là một phần tất yếu để phát triển đất nước. Qua đó, làm tăng thêm khả năng thu
hút đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, nhằm đảm bảo giải quyết hài
hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người bị thu hồi đất.
Việc thu hồi đất của Nhà nước đối với người sử dụng đất để sử dụng vào các
mục đích khác nhau sẽ gây ra những thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của những người bị thu hồi đất. Nếu công tác bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu
hồi đất không được thực hiện tốt thì sẽ khiến người bị thu hồi đất đối mặt với tình
trạng khó khăn về đời sống và sản xuất. Do đó vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất phải giải quyết hài hòa vừa để đảm bảo nhu cầu sử dụng đất đai,
vừa bảo vệ quyển lợi và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, bồi hoàn cho họ
những thành quả lao động, kết quả đầu tư bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Thứ hai, Vai trò của công tác Quản lý Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ với
mục tiêu không chỉ là làm thế nào để thực hiện thu hồi đất một cách nhanh chóng
mà phải tạo ra được bài toán ổn định và phát triển bền vững cho những người dân
sau khi bị thu hồi đất.
Bồi thường và hỗ trợ trong quản lý Nhà nước đóng góp vào duy trì tính ổn
định chính trị và an toàn xã hội. Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất có vai
trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Các công trình phục vụ mục đích an
ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, mục đích phát triển kinh tế đều cần tới mặt bằng.
Nhờ sự Quản lý chặt chẽ nên công tác bồi thường, hỗ trợ được thực hiện nhanh,
hiệu quả; bồi thường, hỗ trợ và thu hồi đất nhưng không ảnh hưởng trực tiếp tới đời
sống của người dân tại thời điểm thu hồi đất và sau này.
Giải quyết tốt tình trạng thiếu việc làm, người dân không có thu nhập, thực
hiện chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo nghề cho những người có đất bị thu hồi, tránh
sự nhàn rỗi, thất nghiệp dẫn đến tình trạng ăn tiêu lãng phí, tệ nạn xã hội. Việc thu
hồi không đúng mục đích, các dự án treo dẫn đến mất sản xuất, người dân không có
việc làm đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dân bị kích
14
- Xem thêm -