Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng...

Tài liệu Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

.PDF
80
113
58

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC PHÒNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. PHẠM HỒNG THÁI HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu trong luận văn “Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Văn Cường MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG ............................................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng ...................... 7 1.2. Nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước đối với quốc phòng .................... 9 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về quốc phòng .................. 15 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ....................................................................................................................... ..21 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Cẩm Lệ ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với quốc phòng ...................................................................... 21 2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn quản lý nhà nước đối với quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019 .................... 29 2.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019.............................. 46 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT, TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................................. 52 3.1. Một số dự báo và quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng .............................................. 52 3.2. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nướcvề quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng .................................................................. 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 HĐND Hội đồng nhân dân 2 KVPT Khu vực phòng thủ 3 UBND Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc quản lý nhà nước về quốc phòng là một vấn đề hết sức quan trọng đối với nước ta cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế mà việc quản lý nhà nước về quốc phòng phải được chú trọng để đảm bảo độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình và an ninh trên toàn thế giới. Các thế lực thù địch hiện nay đang thực hiện nhiều âm mưu, nhiều thủ đoạn nhằm kìm hãm sự phát triển của đất nước, phá hoại sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa...Các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng mọi sơ hở của nhà nước ta để làm suy yếu nội bộ để “tự diễn biến”, tạo nên các tình huống phức tạp, bất ngờ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn lật đổ hoặc bất ngờ tiến hành chiến tranh xâm lược. Quản lý nhà nước về quốc phòng là lĩnh vực trực tiếp diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hết sức quyết liệt, phức tạp, bản thân quốc phòng mang bản chất chính trị, giai cấp sâu sắc. Cẩm Lệ là một quận mới của thành phố Đà Nẵng được thành lập theo Nghị định 102/NĐ-CP ngày 05/8/2005 của Chính phủ, có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của thành phố Đà Nẵng. Những năm qua, Ban Chỉ huy Quân sự quận Cẩm Lệ đã chủ động tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác Quốc phòng - Quân sự địa phương, chủ động phối hợp với các lực lượng giữ gìn an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, duy trì nghiêm túc chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, quán triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của các cấp. Tổ chức, ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, cơ sở thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ, làm tốt công tác xây dựng lực lượng, tổ chức huấn luyện, chế độ chính sách hậu phương Quân đội được quan tâm; tích cực đẩy mạnh tăng 1 gia sản xuất, xây dựng củng cố doanh trại, quản lý tốt vũ khí trang bị, chấp hành nghiêm túc các quy định của Nhà nước, Quân đội, đơn vị. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, công tác quốc phòng trên địa bàn còn có những thiếu sót, bộc lộ những bất cập đã làm hạn chế chất lượng cũng như hiệu quả của quản lý nhà nước về quốc phòng của quận: sự quản lý về quốc phòng chưa đạt được sự thống nhất, đồng thuận thực sự giữa các bộ phận, ban, ngành liên quan, nên có những trường hợp vi phạm pháp luật không được xử lý nghiêm túc, làm mất lòng tin của dân. Có những đồng chí nhận thức về công tác này chưa đầy đủ, chưa đúng tầm.., nên khi thực hiện các biện pháp công tác còn đơn thuần, mang nặng tính chất hành chính, do đó công tác xử lý chưa kiên quyết, triệt để, công minh với những trường hợp vi phạm pháp luật trên địa bàn quận. Với những đặc điểm chung của đất nước, tình hình cụ thể tại quận Cẩm Lệ, đề tài được tiến hành nghiên cứu, nhằm đánh giá thực tiễn, khắc phục những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm, tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận. Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, lý luận quản lý nhà nước về quốc phòng đã được đề cập đến nhiều trong các giáo trình dành cho chuyên ngành pháp luật như: Quản lý nhà nước về an ninh, quốc phòng của tác giả Nguyễn Xuân Yêm, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội – 2010. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng - an ninh trong giai đoạn hiện nay (Lê Thị Quỳnh Trang, 2016); Vấn đề tăng cường quốc phòng trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Trần Thái Bình: Mấy vấn đề về xây dựng chiến lược quốc phòng Việt Nam trong tình hình mới, tạp chí Quốc 2 phòng toàn dân (website: tapchiquốc phòng toàn dân.vn), ngày 5-5-2011; Trần Đăng Bộ (Chủ biên): Một số vấn đề về đấu tranh quốc phòng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012; Nguyễn Đức Độ (Chủ biên): Một số vấn đề về kết hợp kinh tế với quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010; Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng (Chủ trì): Xây dựng và phát triển bền vững nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới, đề tài cấp nhà nước, Hà Nội, 2016; Nguyễn Mạnh Hưởng (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005… Lê Quốc Dũng (2013), Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển – Mấy vấn đề cần quan tâm, tạp chí Quốc phòng toàn dân (website: tapchiquốc phòng toàn dân.vn), ngày 21-5-2013; Đồng Đức (2011), Tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, tạp chí Quốc phòng toàn dân (website: tapchiquốc phòng toàn dân.vn), ngày 24-8-2011; Nguyễn Tiến Hải (2012), Xây dựng thế trận lòng dân trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, tạp chí Quốc phòng toàn dân (website: tapchiquốc phòng toàn dân.vn), ngày 20-1-2012;Dương Thanh Liêm (2019). Tuy vậy, nghiên cứu kết quả từ những công trình nghiên cứu trên, tác giả luận văn nhận thấy vấn đề quốc phòng chủ yếu được các nhà khoa học xem xét từ góc độ chính trị xã hội, cũng chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu, xem xét cụ thể một cách toàn diện hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận, huyện, đặc biệt từ góc độ Luật Hiến pháp và Luật hành chính trên một địa bàn cụ thể là quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình nghiên cứu các hoạt động thực tiễn lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước đối với quốc phòng, nội dung, chủ thể hình thức, phương pháp, khái niệm, vấn đề quản lý bằng pháp luật đối với quốc phòng… vẫn còn những vấn đề được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau và là vấn đề chưa thống 3 nhất, cần được nghiên cứu xem xét, vì vậy nghiên cứu “Quản lý nhà nước về quốc phòng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế của quản lý nhà nước về quốc phòng cùng với những nguyên nhân của thành công và hạn chế, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững an ninh - quốc phòng tại địa phương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng. - Phân tích đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, chỉ ra những ưu diểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế, thiếu sót. - Qua việc phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về quốc phòng, hoạt động quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ của lực lượng quản lý quân sự (UBND quận, phường, Ban chỉ huy quận sự quận, phường) trên địa bàn quận Cẩm Lệ trong thời gian từ 2014 đến 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước về quốc phòng, quản lý nhà nước về quốc phòng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố, sách, giáo trình liên quan đến quản lý nhà nước về quốc phòng. Thu thập những tài liệu, báo cáo tổng kết và khảo sát thực tế về tình hình an ninh, quốc phòng và quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá, nhận xét về những ưu điểm và hạn chế của quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luậnquản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận, huyện. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập, cho cán bộ, sĩ quan, Dân quân tự vệ trên địa bàn quận Cẩm Lệ tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn quận. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với quốc phòng. 5 Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật, tăng cường thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI QUỐC PHÒNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng 1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về quốc phòng 1.1.1.1. Quốc phòng Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học… của Nhà nước để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện trong đó sức mạnh quân sự là nòng cốt để giữ vững hoà bình, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động chống đối của kẻ thù, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới bất cứ hình thức và quy mô nào [41]. Trong công tác quốc phòng phải đặc biệt chăm lo xây dựng lực lượng lực lượng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Hai khái niệm an ninh và quốc phòng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì an ninh, quốc phòng là hai mặt của sự nghiệp bảo vệ đất nước. Quốc phòng mạnh là điều kiện tốt nhất để giữ vững an ninh bên trong, ngược lại an ninh tốt là điều kiện để ổn định chính trị, xã hội, củng cố quốc phòng [41]. Quản lý nhà nước về quốc phòng là vấn đề hệ trọng đối với một quốc gia độc lập có chủ quyền, nhằm bảo vệ Tổ quốc XHCN bằng sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng [40]. Nội dung này thể hiện tổng hợp chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung bảo vệ Tổ quốc XHCN bao gồm các nội dung sau: 7 - Thực hiện việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội của quốc gia. - Bảo vệ thành công Tổ quốc XHCN là bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN của Việt Nam. - Thực hiện việc bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. 1.1.1.2. Quản lý nhà nước về quốc phòng Quản lý nhà nước về quốc phòng là quá trình điều hành bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ khác của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động xã hội, có quan hệ đến việc giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương tiến hành theo chức năng nhiệm vụ, phạm vi quyền hạn của mỗi cơ quan. Toàn dân và các đoàn thể quần chúng tích cực tham gia các hoạt động trong nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng dưới nhiều hình thức khác nhau trong mối quan hệ tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” một cách nhịp nhàng, hiệu quả. Lĩnh vực quốc phòng là một trong những lĩnh vực có những nét đặc thù riêng như: tính khẩn trương, tính thống nhất, tập trung, tính bí mật cao, tính biến động, phức tạp lớn, tính đối kháng quyết liệt, tính mệnh lệnh cao. 1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về quốc phòng Một là, quản lý nhà nước về quốc phòng nhằm thoả mãn hai mục tiêu là: ngăn chặn đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, giữ vững hoà bình; đồng thời phải đáp ứng mọi yêu cầu của chiến tranh, sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc. 8 Hai là, quản lý nhà nước về quốc phòng không phải chỉ là quản lý lực lượng vũ trang và lĩnh vực quân sự; mà quản lý nền quốc phòng toàn dân trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, quân sự, an ninh và đối ngoại... Ba là,quản lý nhà nước về quốc phòng không lấy việc tạo ra sản phẩm kinh tế dân sinh là chủ yếu, nhưng tham gia lao động, sản xuất tích cực góp phần phát triển kinh tế - xã hội, không hạch toán kinh doanh nhưng phải tính toán chi phí hiệu quả, lấy việc hoàn thành nhiệm vụ quốc phòng là chính. Bốn là, quản lý nhà nước về quốc phòng phải vừa bảo đảm tập trung thống nhất, bí mật cao, vừa thực hiện được dân chủ rộng rãi. Quốc phòng của ta là quốc phòng toàn dân, là sự nghiệp của nhân dân. Hiến pháp 2013 quy định: “Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của Nhà nước” [31]. Sự kết hợp đó thể hiện tính đồng bộ của quản lý nhà nước nói chung, trong chỉ đạo chiến lược, trong hệ thống pháp luật, trong từng chủ trương, chính sách cụ thể, trong mối quan hệ giữa các ngành, các cấp, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân trên cơ sở quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. 1.2. Nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước đối với quốc phòng 1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về quốc phòng Thứ nhất, nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân, đến sự mất còn của dân tộc. Một sự nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì không đạt được kết quả. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại 9 đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh” [12, tr.119]. Gần đây nhất, tại Đại hội lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh.”[16, tr. 235]. Trong quá trình lãnh đạo quản lý nhà nước về quốc phòng, các cấp ủy Đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với chức năng quản lý của cơ quan Nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng thành các cơ quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng cũng không khoán trắng cho chính quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách, bằng công tác cán bộ và công tác tổ chức, bằng công tác vận động quần chúng và công tác giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này. Thứ hai, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Quá trình quản lý nhà nước về quốc phòng đòi hỏi các chủ thể phải dựa trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Do vậy, tăng cường pháp chế trong quản lý nhà nước về quốc phòng là hết sức quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nướcquốc phòng đòi hỏi quá trình xây dựng các văn bản pháp luật về quốc phòng phải kịp thời, thống nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu của công tác quốc phòng đặt ra. Thứ ba, nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ Đây là một nguyên tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan xuất phát từ đặc điểm quản lý quốc phòng, từ mô hình tổ chức và thực tiễn hoạt động quản lý quốc phòng của lực lượng quân sự. Ở Trung ương, Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng Quản lý nhà nước về quốc phòng trên phạm vi cả nước. 10 Ngoài việc, Nhà nước thực hiện việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch quản lý tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Quốc phòng còn phải trực tiếp tiến hành các hoạt động bảo vệ Tổ quốc, quản lý, đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch trên mọi mặt trận. Các lực lượng quân sự các cấp được tổ chức theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Ban chỉ huy quân sự cấp trên theo đúng quy định của pháp luật. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm, đặc trưng về chuyên môn nghiệp vụ của công tác quốc phòng, cũng như từ nguyên tắc song trùng, nên trong quản lý nhà nước về quốc phòng cần phải quán triệt nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, trong đó quản lý theo ngành là chủ yếu. 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng Quốc phòng được thể hiện ở nhiều nội dung, nhiều công việc.Đây là lĩnh vực trực tiếp diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc hết sức quyết liệt, phức tạp. Bản thân quốc phòng mang bản chất chính trị, giai cấp sâu sắc. Vì vậy, quản lý nhà nước về quốc phòng cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Đó là bản chất của giai cấp công nhân, do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, bản chất đó được biểu hiện ở mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội” [16]. Đây vừa là định hướng chiến lược quốc phòng, an ninh, vừa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, 11 trong đó xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu là sự cụ thể hoá mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược. Điều đó thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chiến lược quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với đặc điểm nổi lên là: tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt,... Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái” [16]. Tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng gắn với xây dựng vào bảo vệ đất nước là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của các nhân tố chính trị, tinh thần, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Với quan điểm đó, Đảng ta đã kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng 12 Nội dung quản lý nhà nước về quốc phòng ở địa phương thể hiện thông qua việc: - Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp và các nhiệm vụ do cấp có thẩm quyền giao về quốc phòng ở địa phương. Để đảm bảo tính bền vững của luật và xây dựng các VBQPPL về quốc phòng thành một hệ thống vững chắc, trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không làm thay Nhà nước. Đảng thể hiện sự lãnh đạo không chỉ bằng đường lối, chủ trương và các nghị quyết của Đảng, mà còn trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc soạn thảo, ban hành luật và đưa văn bản luật đó vào cuộc sống. Còn đối với Nhà nước, đến lượt mình, Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa cơ quan ban hành luật (Quốc hội) với cơ quan tổ chức thực hiện luật (Chính phủ) và đối tượng thi hành luật (các tổ chức và công dân) để đảm bảo tính khả thi của luật. Bộ Quốc phòng phải tăng cường công tác tham mưu cho Nhà nước về việc soạn thảo, ban hành luật. Một vấn đề nữa cần quan tâm, đó là việc thể hiện nội dung của luật và kỹ thuật soạn thảo. Hiện nay, nhiều khái niệm hay thuật ngữ của luật chưa có sự thống nhất, chưa mang tính phổ thông và không ít trong số đó không được định nghĩa hay giải thích rõ ràng. Có mục, điều, khoản của luật thay vì phải thể hiện đó là những quy định buộc mọi công dân phải tuân thủ, lại diễn đạt chung chung. - Tổ chức tuyên truyền, giáo dục quốc phòng và thực hiện công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ các cấp và giáo dục quốc phòng cho học sinh, sinh viên theo quy định của pháp luật. Đi đôi với xây dựng nội dung, chương trình thì việc kết hợp nhiều phương thức tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng là rất cần thiết. Phương thức tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng chủ yếu là thông qua các phương tiện truyền thông. Do đó, báo chí cần dành dung lượng (với báo 13 viết), thời lượng (với đài phát thanh và truyền hình) đủ ở mức cần thiết, với cách biểu hiện sinh động để tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng. Tất nhiên, bên cạnh phương thức đó, thì việc vận dụng các phương thức khác, như: thi tìm hiểu (tốt nhất là bằng phương pháp trắc nghiệm), mở diễn đàn, thi kể chuyện, in “tờ rơi”, lập tủ sách pháp luật..., cũng mang lại hiệu quả tốt. Xung quanh việc tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng, trên thực tế, nhiều địa phương đã làm tốt công tác này bằng cách gắn với nhiệm vụ và thời điểm cụ thể, nhất là vào trước các thời điểm: gọi thanh niên nhập ngũ, diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập trị an, diễn tập chuyên ngành, diễn tập phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Nhờ coi trọng tuyên truyền và biết chọn tuyên truyền đúng thời điểm, nên kết quả của việc tuyên truyền đã góp phần rất quan trọng vào thành công của các cuộc diễn tập. Đó cũng là những kinh nghiệm cần được chúng ta tăng cường trao đổi, học tập để việc tuyên truyền, phổ biến các VBQPPL về quốc phòng đạt hiệu quả thiết thực, tránh phô trương, hình thức, hoặc tổ chức cồng kềnh, tốn kém. - Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng - an ninh; gắn quốc phòng với an ninh; quốc phòng - an ninh với kinh tế; xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh toàn diện làm nòng cốt để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; quản lý, bảo vệ các công trình quốc phòng, căn cứ hậu phương và các khu vực quân sự ở địa phương. Sự phát triển “nóng” về kinh tế (điều khó tránh khỏi của những quốc gia đang phát triển) đang có những tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực QP-AN. Vì vậy, đẩy mạnh công tác quy hoạch về quốc phòng cần phải được coi là một trong những nội dung trọng tâm của quản lý nhà nước về quốc phòng hiện nay. Đề cập đến vấn đề quan trọng này, trước hết, chúng ta cần rà soát, đánh giá một cách nghiêm túc, khách quan và đầy đủ về các yếu tố vật chất của nền quốc phòng. Trên cơ sở đó, cần lập “Bản đồ quy hoạch tổng thể về quốc 14 phòng”. Mục tiêu của việc lập bản đồ này là nhằm đảm bảo cho các vấn đề căn cốt của QP-AN không bị chi phối, suy chuyển, bất luận trong trường hợp nào. Tờ bản đồ này còn cần được xem như một VBQPPL và được phổ biến rộng rãi tới tất cả các bộ, ngành, địa phương và các thành phần kinh tế để tạo sự thống nhất cho việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng. Cùng với xác định mục tiêu thì yêu cầu của việc lập quy hoạch cũng phải rõ nội dung. Các yêu cầu chủ yếu xung quanh vấn đề này là: đạt được tính tổng thể, đáp ứng với tình hình cả trước mắt lẫn lâu dài; hài hòa giữa KT-XH với QP-AN; về thế trận, việc quy hoạch phải đảm bảo cho cả nước thành một thế trận chung, liên hoàn, khó bị chia cắt cả về chiến lược và bộ phận, phù hợp với yêu cầu chống chiến tranh xâm lược, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. - Thực hiện các biện pháp về xây dựng, bảo vệ tiềm lực quốc phòng của địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong khu vực phòng thủ; động viên nền kinh tế quốc dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng của địa phương và cả nước trong mọi tình huống. - Chỉ đạo, tổ chức xây dựng, huấn luyện và bảo đảm hoạt động tác chiến của bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên; thực hiện công tác tuyển quân và động viên theo quy định của pháp luật. - Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết về công tác quốc phòng ở địa phương hàng năm và từng thời kỳ. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về quốc phòng 1.3.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của cấp trên Quan điểm của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị và được hoàn thiện qua các 15 kỳ đại hội Đảng. Đại hội XII xác định mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Cấp uỷ các cấp ở địa phương có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo trực tiếp mọi mặt công tác quân sự, quốc phòng trên địa bàn. Những năm qua, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của công tác quân sự địa phương, các cấp uỷ đảng đã quan tâm, tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Nhờ đó công tác quân sự, quốc phòng địa phương có nhiều chuyển biến quan trọng. Quy trình lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng địa phương nói chung và các mặt công tác quân sự, quốc phòng địa phương có nhiều tiến bộ, phát triển đúng hướng và thu được kết quả khá toàn diện. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc nhận thức về sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương đối với công tác quân sự, quốc phòng địa phương chưa thật đầy đủ và thống nhất. Khả năng và mức độ quan tâm lãnh đạo của tập thể cấp uỷ và cá nhân cấp uỷ viên chưa thật sự chú trọng và ngang bằng với các mặt công tác khác. Công tác đảng, công tác chính trị trong công tác quân sự, quốc phòng địa phương có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm thường xuyên. 1.3.2. Sự hoàn thiện của pháp luật về quốc phòng Để cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm trên, những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, như “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”; “Chiến lược Quân sự Việt Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan