Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần theo luậ...

Tài liệu Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp 2014

.PDF
128
313
74

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG VŨ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG VŨ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn luật học này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học rất nghiêm túc và nhiệt tình của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Như Phát. Những thông tin, trích dẫn và bản án trong luận văn là trung thực, được dẫn từ các nguồn tham khảo có thật. Các phân tích, bình luận, đánh giá, so sánh, gợi mở và kiến nghị trong công trình đều dựa trên một quá trình làm việc, tìm tòi, nghiên cứu một cách nghiêm túc của chính tác giả luận văn. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, học viên Trần Hoàng Vũ xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Trần Hoàng Vũ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ...................................................................6 1.1. Khái niệm về công ty cổ phần và đại diện công ty cổ phần ..........................6 1.1.1. Khái niệm Công ty cổ phần ........................................................................6 1.1.2. Người đại diện theo pháp luật ..................................................................10 1.2. Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần ...........12 1.3. Cơ sở hình thành mối quan hệ đại diện giữa người đại diện theo pháp luật với công ty cổ phần.............................................................................................17 1.4. Vai trò của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần ...............20 1.5. Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần ............................................................................................................21 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ......25 2.1. Xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật........................25 2.1.1. Điều kiện trở thành người đại diện theo pháp luật ..................................25 2.1.2. Các trường hợp xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật ............................................................................................................................29 2.2. Số lượng người đại diện theo pháp luật .......................................................32 2.3. Chức danh quản lý của người đại diện theo pháp luật ................................34 2.4. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật ....37 2.4.1. Quyền hạn, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật .........................37 2.4.2. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật ......................................42 2.5. Giới hạn thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật .............................47 2.6. Cơ chế giám sát thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật .................49 CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN ......57 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật .........................................................57 3.2. Những kiến nghị cụ thể ...............................................................................58 3.2.1. Kiến nghị về khái niệm người đại diện theo pháp luật ............................58 3.2.2. Kiến nghị về thời điểm phát sinh tư cách người đại diện theo pháp luật 59 3.2.3. Kiến nghị về công khai thông tin về người đại diện theo pháp luật ........62 3.2.4. Kiến nghị xây dựng án lệ về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật ......................................................................................................................63 KẾT LUẬN ..............................................................................................................65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CTCP Công ty cổ phần ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông GĐ Tổng giám đốc hoặc Giám đốc HĐQT Hội đồng quản trị LDN Luật Doanh nghiệp NĐDTPL Người đại diện theo pháp luật MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc tiếp nhận các học thuyết pháp lý điển hình vào việc xây dựng và ban hành pháp luật là một nhu cầu cần thiết, đặc biệt là lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp. Theo đó, học thuyết về đại diện đã được pháp luật công ty nhiều quốc gia tiếp nhận, phát triển các nguyên tắc của học thuyết vào mô hình quản trị công ty hiện đại, đặc biệt là sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, kiểm soát công ty. Việt Nam cũng là một quốc gia tiếp nhận gần như trọn vẹn học thuyết đại diện vào pháp luật doanh nghiệp. Việc chuyển giao vốn và quyền quản lý công ty từ cổ đông sang người quản lý, người đại diện chính là đặc trưng pháp lý nổi bật của công ty cổ phần (CTCP), từ đó đặt ra những vấn đề pháp lý cần phải giải quyết cho pháp luật doanh nghiệp, trong đó có vấn đề người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL) của CTCP. Bản thân CTCP là bộ phận cấu thành của nền kinh tế, là một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật. Tự bản thân công ty không thể đứng ra xác lập và thực hiện các giao dịch mà nó chỉ hành động thông qua những con người cụ thể. Cho nên, CTCP cần có NĐDTPL để nhân danh và vì lợi ích của công ty xác lập, thực hiện các giao dịch với các chủ thể khác trong xã hội. Chế định NĐDTPL là một trong những chế định quan trọng và có nhiều điểm mới trong Luật doanh nghiệp 2014 (LDN 2014) mang tính đột phá, thể hiện tư duy rất thoáng về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bản thân LDN 2014 và các văn bản pháp luật liên quan khi quy định về NĐDTPL cũng tồn tại nhiều quy định bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn đời sống kinh doanh của CTCP. Bên cạnh đó, quá trình làm ăn, giao thương với CTCP thì khách hàng, đối tác cũng rất khó khăn trong việc xác định đúng NĐDTPL của chính CTCP đó, trong nhiều trường hợp có thể tạo nên những rủi ro đe dọa bởi nguy cơ hợp đồng vô hiệu. Hiện nay, khoa học pháp lý rất cần những nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về NĐDTPL trong CTCP, đồng theo đề xuất các kiến nghị, giải pháp hữu ích để hoàn thiện các quy định của pháp luật doanh nghiệp. 1 Chính vì các lẽ đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay, chế định về NĐDTPL của doanh nghiệp đã được nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu, điển hình như các công trình như: Ngô Gia Hoàng – Nguyễn Thị Thương (2016), Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 (339). Bài viết trình bài khái quát về NĐDTPL của doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh; những điểm mới nổi bật về NĐDTPL của LDN 2014; đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật liên quan đến NĐDTPL. Tuy nhiên, bài tạp chí này chỉ tiếp cận ở góc độ hẹp trên tinh thần của quyền tự do kinh doanh mà chưa giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan; Nguyễn Hợp Toàn (2017), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần có nhiều người đại diện theo pháp luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9. Bài viết trình bày cơ bản về ý nghĩa của quy định có nhiều NĐDTPL của LDN 2014 và làm rõ cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty cổ phần có nhiều NĐDTPL; Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7. Bài viết khái quát về các khía cạnh pháp lý quan trọng về NĐDTPL của LDN 2014, từ đó có phân tích một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện; Nguyễn Thị Thanh (2016), Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề (tháng 8). Bài viết trình bày những ưu điểm của việc doanh nghiệp có nhiều NĐDTPL, từ đó có đề xuất các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật; Bùi Đức Giang (2015), Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp 2 luật của luật doanh nghiệp 2014, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6(326). Bài viết tập trung phân tích các quy định mới của LDN 2014 về chế định NĐDTPL, đặc biệt về việc chỉ định, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL cùng trách nhiệm dân sự của chức danh này. Bùi Thị Tâm (2017), Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ thực tiễn Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện khoa học Xã hội. Đề tài này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cũng như thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn của Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam về NĐDTPL. Phạm Lâm Hải Nguyên (2014), Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học – Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2005. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về chế định người đại diện của doanh nghiệp. Ngoài các công trình tiêu biểu trên, khoa học pháp lý còn tồn tại khá nhiều công trình nghiên cứu về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Mỗi công trình đều có phạm vi và mục đích nghiên cứu cụ thể. Tuy nhiên, các nghiên cứu về NĐDTPL trong CTCP, đặt trong đặc trưng của CTCP về vốn, quản trị nội bộ thì chưa có nhiều. Đây được xem là “khoảng trống” để tác giả lựa chọn và nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP. Từ đó, đề xuất các kiến nghị và giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về người đại diện công ty cổ phần. Để được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Một là, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về NĐDTPL trong CTCP; Hai là, phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng quy định của pháp luật doanh nghiệp về quyền 3 và nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP; làm rõ về cơ bản thực tiễn pháp luật về quyền quyết định về số lượng và thẩm quyền của NĐDTPL trong các CTCP; Ba là, tìm ra các kiến nghị và giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ NĐDTPL của LDN và văn bản liên quan. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014”, cụ thể là: (i) những vấn đề lý luận về đại diện trong pháp luật công ty, quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL; (ii) thực trạng quy định của LDN 2014 về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP; (iii) thực tiễn áp dụng LDN 2014 về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong các CTCP. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của LDN và các văn bản pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 về quyền quyết định của CTCP về số lượng và thẩm quyền của NĐDTPL, cũng như quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong CTCP. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng LDN 2014 về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL trong các CTCP. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để phục vụ nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ đạo sau: Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích bản án. Thứ nhất, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: đây là hai phương pháp nghiên cứu quan trọng của đề tài, được sử dụng ở cả 3 Chương của luận văn, nhằm phân tích, giải mã và đánh giá các quy định của LDN 2014 về quyền và nghĩa vụ của NĐDTPL. Phương pháp tổng hợp còn được sử dụng để tổng hợp và đúc rút kết quả của quá trình nghiên cứu; Thứ hai, phương pháp phân tích vụ việc: được sử dụng để phân tích, đánh giá và bình luận một số tranh chấp về thẩm quyền của NĐDTPL trong CTCP. Từ đó, tạo tiền đề để phát hiện các vấn đề liên quan, cũng như tạo ra các luận cứ quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài. 4 Thứ ba, phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh và đối chiếu các quy định của các văn bản pháp luật sau: (i) BLDS 2015 với BLDS 2005 về vấn đề đại diện trong quan hệ dân sự; (ii) LDN 2005 với LDN 2014 về chế định NĐDTPL của doanh nghiệp. Qua đó, tác giả đánh giá những vấn đề tương đồng và khác biệt để làm rõ những quy định tiến bộ, nhằm gợi mở, kiến nghị, đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc bổ sung vào lý luận nghiên cứu về NĐDTPL, cung cấp các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan Công trình có thể là tài liệu tham khảo đối với người học, doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà làm luật… 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương, cụ thể: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần; - Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần; - Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1. Khái niệm về công ty cổ phần và đại diện công ty cổ phần 1.1.1. Khái niệm Công ty cổ phần Công ty cổ phần là một mô hình kinh doanh phổ biến, được pháp luật doanh nghiệp của nhiều nước trên thế giới ghi nhận. Theo đó, CTCP là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Chính vì vậy, đã có nhà nghiên cứu đã cho rằng, “Công ty cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [4, Tr.18]. Trên thế giới, pháp luật các nước điều chỉnh loại hình CTCP có nhiều điểm khác biệt đáng kể, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống pháp lý và quan điểm pháp lý của các nhà lập pháp. Căn cứ vào khả năng huy động vốn từ công chúng thì được phân biệt giữa “private company” và “public company”, trong đó “public company” bao gồm “company limited by shares” và “company limited by guarantee and having a share capital”, còn “private company” là các loại công ty còn lại. Trong khi đó căn cứ chế độ trách nhiệm của thành viên thì được phân biệt giữa “limited company” và “unlimited company”, trong đó “limited company” có thể là “limited company byshares” hoặc là “limited company by guarantee”. Trong các loại công ty đó thì “company limited by shares” có các đặc điểm cơ bản tương tự với CTCP theo pháp luật Việt Nam. Loại công ty “joint stock company” trước đây được đăng ký theo các Joint Stock Companies Act nay được phép đăng ký lại dưới hình thức “company limited by shares”[37]. Ở Pháp có các loại hình CTCP như Société anonyme (SA), Société par action simplifiée unipersonnelle (SASU), Société par actions simplifiée (SAS); ngoài ra còn có société en commandite par 6 actions (SCA) là loại hình công ty kết hợp giữa đặc điểm đối nhân với đặc điểm đối vốn. Ở Đức CTCP có tên gọi là Aktiengesellschaft (AG); bên cạnh đó còn có loại công ty kết hợp giữa đặc điểm đối nhân với đặc điểm đối vốn là Kommanditgesellschaft auf Aktien (KGaA). Ở Mỹ có public corporation và close corporation với một số khác biệt ở luật của các bang khác nhau [32, Tr.246-249]. Ở Việt Nam hiện nay, CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, với một cơ chế pháp lý chặt chẽ, rõ ràng và minh bạch. Căn cứ vào các đặc trưng pháp lý cơ bản được ghi nhận trong LDN 2014 thì có thể định nghĩa về CTCP như sau: CTCP là một loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn, có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, trong đó phải có cổ phần phổ thông và có thể có các loại cổ phần ưu đãi khác nhau, cổ phần được tự do chuyển nhượng (trừ một số trường hợp ngoại lệ); công ty được phép phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa. Bên cạnh đó, pháp luật chuyên ngành cũng có những quy định đặc thù về CTCP, có nhiều điểm riêng biệt so với CTCP theo LDN, như pháp luật chứng khoán (công ty đại chúng, công ty niêm yết), pháp luật ngân hàng (ngân hàng hàng thương mại cổ phần). Về cơ bản, CTCP có các đặc tính cơ bản sau: - Thứ nhất, Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. CTCP là một trong bốn mô hình doanh nghiệp được pháp luật doanh nghiệp Việt Nam ghi nhận. Công ty cổ phần có đầy đủ những dấu hiệu của một doanh nghiệp, theo đó, CTCP là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập thông qua thủ tục đăng ký doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh. Cũng như công ty HD và công ty TNHH, CTCP có tư cách pháp nhân. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: i) được thành lập theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, luật khác có liên quan; ii) có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật Dân sự 2015; có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu 7 trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Theo LDN 2014, CTCP đáp ứng đầy đủ cả 4 điều kiện ở trên. Thời điểm CTCP được công nhận có tư cách pháp nhân? Khoản 2 Điều 110 LDN 2014 quy định: “CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. Như vậy, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có ý nghĩa là văn bản bằng chứng khai sinh ra doanh nghiệp. Kể từ thời điểm được cấp giấy này, CTCP trở thành một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế và được tự do tiến hành hoạt động kinh doanh một cách bình đẳng như mọi doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. - Thứ hai, vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Vốn điều lệ CTCP là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán các loại. Vốn điều lệ của CTCP tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi trong Điều lệ công ty. Như vậy, LDN 2014 phân biệt vốn điều lệ của CTCP theo thời điểm: thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp và thời điểm sau đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trong giai đoạn mới gia nhập thị trường, pháp luật doanh nghiệp cho phép nhà đầu tư có một khoảng thời gian nhất định để thực hiện việc góp vốn. Quy định như trên tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc chuẩn bị tài sản để góp vốn vào CTCP. Do đó, vốn điều lệ của CTCP tại thời điểm đăng ký thành lập doanh nghiệp chỉ là tổng giá trị mệnh giá cổ phần các loại đã được đăng ký mua chứ không phải là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán (vốn thực góp của cổ đông, tức là đã thanh toán tiền mua cổ phần cho công ty). Vốn điều lệ của CTCP được thể hiện bằng một chỉ số tiền đồng Việt Nam, chẳng hạn 10 tỷ đồng. Chỉ số này được chia thành nhiều phần bằng nhau, chẳng hạn 1 triệu phần, mỗi phần như vậy bằng 10.000 đồng. Một triệu phần đó được gọi là 1 triệu cổ phần; trị giá 10.000 đồng được gọi là mệnh giá cổ phần (pháp luật chứng khoán gọi là mệnh giá cổ phiếu). - Thứ ba, số lượng cổ đông ít nhất là ba và không bị hạn chế tối đa. Luật doanh nghiệp 2014 quy định: cổ đông tối thiểu là 03 xuất phát từ ý chí chủ quan và sự lựa chọn của nhà lập pháp Việt Nam. Còn việc không hạn chế số 8 lượng tối đa thực chất là xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của CTCP, là công ty đối vốn và có tính mở, kênh huy động vốn rộng rãi, việc xác lập tư cách cổ đông công ty rất dễ dàng. Nhà đầu tư khi sở hữu một, một số hoặc nhiều cổ phần của CTCP thì người đó là cổ đông của CTCP đó. Cho nên LDN 2014 không hạn chế số lượng cổ đông tối đa trong CTCP. - Thứ tư, Công ty cổ phần có chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn Đây là một đặc điểm giống với công ty TNHH. Theo đó, khi CTCP bị tuyên bố phá sản mà tổng tài sản của công ty không đủ để trả cho công ty thì các cổ đông không có nghĩa vụ trả nợ thay cho công ty. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi có nguồn gốc từ số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Do đó, đây là một ưu điểm nổi bật tạo ra tâm lý ưa chuộng của nhà đầu tư đối với mô hình kinh doanh này. - Thứ năm, cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Công ty cổ phần là mô hình công ty có tính mở. Yếu tố nhân thân trong CTCP không quan trọng mà vốn mới là yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời của mô hình công ty này. Mặt khác, việc chia vốn điều lệ của CTCP thành các phần nhỏ như vậy đã làm cho hoạt động của CTCP mang tính xã hội hóa cao. Bất kỳ nhà đầu tư nào, nhiều hay ít vốn, nếu không thuộc trường hợp bị cấm thành lập và góp vốn theo quy định của pháp luật thì đều có thể đầu tư vào CTCP thông qua việc mua cổ phần. Do đó, khác với công ty TNHH và công ty HD, cổ phần được tự do chuyển nhượng. Cần lưu ý là cổ phần được tự chuyển nhượng nhưng vẫn có những ngoại lệ (tức là không được chuyển nhượng): Một là: Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác (khoản 3 Điều 116 LDN 2014). Hai là: Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của ĐHĐCĐ (khoản 3 Điều 119 LDN 2014). Ba là: Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần (khoản 3 9 Điều 126 LDN 2014). Hạn chế chuyển nhượng trong trường hợp này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng. - Thứ sáu, CTCP được phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Đây là đặc điểm khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Cụ thể, doanh nghiệp tư nhân và công ty HD không được quyền phát hành bất cứ loại chứng khoán nào, còn công ty TNHH thì lại không được quyền phát hành cổ phần. Có thể kết luận rằng CTCP có kênh huy động vốn rộng rãi trong công chúng. Đặc điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho CTCP tham gia mạnh mẽ và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường chứng khoán. Như vậy, CTCP là mô hình tổ chức kinh doanh linh hoạt và hữu ích trong việc huy động vốn để phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh. Ngoài phát hành cổ phần các loại để huy động vốn thì CTCP được quyền phát hành các loại chứng khoán khác, phổ biến là trái phiếu. Việc phát hành trái phiếu làm cho công ty trở thành con nợ của người mua trái phiếu với rủi ro cao, trong khi đó vốn thu được từ việc phát hành là vốn tự có, vốn chủ sở hữu và vì vậy CTCP không phải chịu rủi ro khi thanh toán nợ. Nhìn chung, với bản chất là công ty đối vốn, CTCP được nhà đầu tư ưa chuộng, sử dụng để gia nhập thị trường, bởi các đặc thù quan trọng về chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn và các kênh huy động vốn rộng rãi, tạo điều kiện cho nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư vào nhiều công ty khác nhau, thúc đẩy sự ra đời của thị trường vốn. Tuy nhiên, mô hình công ty này tạo ra những rủi ro cho bên thứ ba, đặc biệt là khách hàng, đối tác do có chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn. Mặt khác, do số lượng cổ đông rất đông nên sự phân hóa các nhóm quyền lợi và quản lý điều hành trong công ty khá phức tạp. 1.1.2. Người đại diện theo pháp luật Công ty cổ phần là một thực thể pháp luật do pháp luật tạo ra, không có hình hài cụ thể, cho nên mọi hoạt động của pháp nhân thực hiện thông qua các hoạt động của những cá nhân cụ thể. Vậy nên, trong lý luận về công ty, thì công ty với tư cách là một pháp nhân - một thực thể pháp lý độc lập (a separate legal entity), tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con 10 người cụ thể – những người quản lý công ty. Cũng vì thế, công ty luôn cần có người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình [17, Tr. 16]. Trong hoạt động của công ty, NĐĐDTPL sẽ đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch vì lợi ích của công ty với các đối tác, khách hàng và với cơ quan Nhà nước. Theo từ điển luật học, đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền [15, Tr. 13]. Theo BLDS 2015 thì người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: i) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; ii) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; iii) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. NĐDTPL sẽ nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự [25]. Theo pháp luật dân sự, đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định [24]. Đại diện theo pháp luật là một chế định có vai trò rất quan trọng trong pháp luật dân sự lẫn pháp luật đầu tư kinh doanh. NĐDTPL là người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật doanh nghiệp 2005 không đưa ra định nghĩa thế nào là NĐDTPL mà chỉ xác định ai là NĐDTPL của từng loại hình doanh nghiệp. Trong thực tế, có quy ước chung là NĐDTPL có quyền đại diện đương nhiên cho doanh nghiệp về cả đối nội lẫn đối ngoại. NĐDTPL được quyền ký kết hợp đồng, thỏa thuận mà không cần ủy quyền hoặc chấp thuận nào. Nói cách khác, quyền của NĐDTPL của doanh nghiệp mang tính đương nhiên, gắn với sự tồn tại của doanh nghiệp. Trong nội bộ công ty, NĐDTPL khi nắm giữ các chức danh quản lý thì có quyền quyết định các vấn đề quan trọng như việc tổ chức và điều hành hoạt động kinh doanh, tổ chức nhân sự, quản lý, sử dụng tài khoản, con dấu của doanh nghiệp… Để nhất quán cách hiểu về người đại diện theo pháp luật, LDN 2014 đã đưa ra định nghĩa NĐDTPL, qua đó, xác định các nội dung đại diện của người này: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, 11 đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. LDN 2014 định nghĩa dựa trên việc xác định phạm vi và nội dung đại diện, bao gồm 2 chức năng quan trọng: (i) Đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp; và (ii) Đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, ở chức năng thứ nhất, LDN lại giới hạn phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ dừng lại ở “thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp” là không chính xác. Bởi vì, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, NĐDTPL sẽ thay mặt doanh nghiệp tiến hành các hoạt động đàm phán, thỏa thuận để ký kết các giao dịch, hợp đồng. Dù giao dịch của doanh nghiệp không phát sinh các quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp thì NĐDTPL vẫn là người được doanh nghiệp “ủy thác” để tiến hành hoạt động đó. Và khi NĐDTPL được doanh nghiệp “trao quyền” đại diện đứng ra đàm phán, thỏa thuận ký kết các giao dịch nhưng không thực hiện đúng các trách nhiệm của mình thì người đại diện này phải chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp. Tác giả luận văn cho rằng, việc LDN 2014 xác định phạm vi đại diện của NĐDTPL như vậy sẽ dẫn đến những hệ quả xấu cho việc tiến hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như việc xác định trách nhiệm của NĐDTPL. Dựa vào việc xác định hai khái niệm là CTCP và NĐDTPL, tác giả rút ra định nghĩa về NĐDTPL trong CTCP như sau: NĐDTPL trong CTCP là cá nhân đại diện cho CTCP trong việc xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của công ty; đại diện cho CTCP với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 1.2. Đặc điểm của ngƣời đại diện theo pháp luật trong công ty cổ phần Công ty cổ phần chỉ là một pháp nhân, một thực thể pháp lý do pháp luật tạo 12 ra, cho nên mọi hoạt động của công ty đều thực hiện thông qua những con người cụ thể, trong đó đặc biệt có người đại diện theo pháp luật (NĐDTPL). Về cơ bản, NĐDTPL trong CTCP có đặc trưng pháp lý như sau: Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật là người quản lý doanh nghiệp Người quản lý doanh nghiệp trong CTCP theo LDN 2014 bao gồm Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Điều lệ công ty sẽ quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2014 đã nhấn mạnh hơn nữa đặc điểm NĐDTPL của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp khi khẳng định các chức danh đó phải “có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty” là người quản lý công ty. Các chức danh quản lý phải có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch theo quy định tại Điều lệ thì mới được xem là người quản lý doanh nghiệp. Vô hình trung, quy định này đã thể hiện rằng người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp. Quy định như vậy là khá chặt chẽ, tạo cho việc quản trị doanh nghiệp được thống nhất. Bởi vì trao cho một người có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà không cho họ nắm quyền quản lý thì họ không thể chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó được. Thêm vào đó, NĐDTPL của doanh nghiệp là người quản lý có thể tối đa hóa những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho họ. Cần lưu ý rằng, NĐDTPL là người quản lý doanh nghiệp nhưng người quản lý doanh nghiệp chưa chắc là NĐDTPL. Chẳng hạn, trong trường hợp Điều lệ của CTCP A quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty; Giám đốc của CTCP A này cũng là người quản lý CTCP A nhưng không phải là NĐDTPL của CTCP A vì Điều lệ không quy định. Bên cạnh đó, NĐDTPL cũng khác với người đứng đầu các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ của CTCP. 13 Người đứng đầu các bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ là những người đứng đầu bộ phận chuyên trách trong CTCP như Giám đốc/Trưởng phòng kế toán – tài chính, Giám đốc/Trưởng phòng Nhân sự… Họ có năng lực tư vấn hoặc hỗ trợ bằng cách cung cấp cho người quản lý thông tin và đưa ra những lời tư vấn. Những người nhân viên quản lý doanh nghiệp này thường không được phép đưa ra những quyết định hay có quyền đại diện cho CTCP[36]. Thứ hai, người đại diện theo pháp luật phải là cá nhân cụ thể Bản thân CTCP chỉ là một pháp nhân được cổ đông thành lập để sản xuất, kinh doanh. Cho nên, các hoạt động nhân danh CTCP với các bên liên quan đều phải thực hiện thông qua những con người cụ thể. NĐDTPL phải là cá nhân, một con người cụ thể. Đặc trưng NĐDTPL là cá nhân được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 13 LDN 2014. NĐDTPL sẽ đại diện cho công ty xác lập và thực hiện giao dịch, cũng như đại diện cho CTCP trong các mối quan hệ với Nhà nước. Trong trường hợp như vậy, các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi đại diện của NĐDTPL sẽ thuộc về CTCP, chứ không phát sinh cho NĐDTPL. Trong trường hợp NĐDTPL vi phạm các nghĩa vụ của mình do pháp luật và CTCP quy định thì tự bản thân họ sẽ phải gánh chịu các trách nhiệm pháp lý phát sinh đối với CTCP và các bên liên quan. Thứ ba, người đại diện theo pháp luật là người đại diện cho CTCP thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty. Vai trò của NĐDTPL trong CTCP được thể hiện thông qua các chức năng quan trọng: (i) Đại diện cho CTCP xác lập các giao dịch: các giao dịch của CTCP chủ yếu là hợp đồng, là sự thoả thuận giữa CTCP với các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong quan hệ kinh doanh, thương mại. Các hợp đồng này do NĐDTPL nhân danh CTCP xác lập; (ii) Đại diện cho CTCP thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch, hợp đồng đã xác lập; (iii) Đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan