Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội theo quy định trong bộ luật tố tụng hình...

Tài liệu Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội theo quy định trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015​

.PDF
108
116
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI BÁ THÀNH QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘITHEO QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI BÁ THÀNH QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘITHEO QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI – 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, tính chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn đều được rút ra từ kết quả nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Bùi Bá Thành i MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng Danh mục hình MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...... 7 1.1 Khái niệm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự...... 7 1.1.1. Tự bào chữa là quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế .. 7 1.1.2. Chủ thể của quyền tự bào chữa trong TTHS ....................................... 12 1.1.3. Nội dung quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự ............................. 15 1.1.4. Cơ chế đảm bảo thi hành quyền tự bào chữa trong TTHS ................... 16 1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật TTHS20 1.2.1. Cơ sở của việc quy định quyền tự bào chữa trong luật TTHS ............. 20 1.2.2. Ý nghĩa của quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội ..... 23 1.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS một số nước.................................. 26 1.3.1. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Trung Quốc ............................... 26 1.3.2. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Nhật Bản ................................... 26 1.3.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức ........... 28 1.3.3. Quyền tự bào chữa trong luật TTHS Australia .................................... 29 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................... 31 CHƯƠNG 2: QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................. 32 2.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trước năm 2015 .. 32 2.1.1 Pháp luật về quyền tự bào chữa từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành................................ 32 ii 2.1.2. Quyền tự bào chữa trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Bộ luật TTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành đến năm 2003. ................................... 35 2.1.3. Quyền tự bào chữa từ từ khi có Bộ luật TTHS năm 2003 đến trước khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực ............................................................ 36 2.2. Pháp luật về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật TTHS năm 2015...................................................................................................... 37 2.2.1. Quyền tự bào chữa của người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ....................................................................................................... 37 2.2.2. Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ ............................................ 39 2.2.3. Quyền tự bào chữa của bị can ............................................................. 43 2.2.4. Quyền tự bào chữa của bị cáo ............................................................. 51 2.2.5. Quyền tự bào chữa của người dưới 18 tuổi ......................................... 57 2.2.6. Trách nhiệm bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ................................... 61 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................... 64 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................................................ 65 3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................ 65 3.1.1. Thực tiễn bảo đảm quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .............................................. 66 3.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền tự bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự .................................... 76 3.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tôi.................................... 76 3.2.2. Phương hướng hoàn thiện quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tội.. 78 iii 3.2.3. Các kiến nghị pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền tự bào chữa đối với người bị buộc tội ........................................................... 80 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................... 92 KẾT LUẬN ................................................................................................. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 96 iv DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa v DANH MỤC BẢNG STT 1 2 Bảng Nội dung Bảng 3.1 Tình hình thụ lý, giải quyết VAHS trong cả nước giai đoạn 2016-2018 Bảng 3.2 Một số nguyên nhân từ chối quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo do luật sư cung cấp vi Trang 65 72 DANH MỤC HÌNH STT Hình Nội dung 1 Hình 3.1 2 Hình 3.2 Tỉ lệ nhu cầu tự bào chữa của bị can, bị cáo Biều đồ tỉ lệ các vụ án đã được thụ lý, giải quyết giai đoạn 2016 - 2019 vii Trang 66 71 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự bào chữa là một trong những nội dung cơ bản của quyền bào chữa một quyền cơ bảncủa người bị buộc tội. Bào chữa là quyền con người được nhà nước đảm bảo bằng pháp luật tố tụng hình sự thông qua các quy định và các biện pháp thực thi có hiệu quả quyền bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều đó cũng có ý nghĩa rằng, việc bảo đảm quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự có vai trò quan trọng, và cũng là một bộ phận cấu thành của các thiết chế bảo đảm quyền con người, tiêu chí cơ bản trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhiều văn bản phản ánh các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta khẳng định tầm quan trọng của quyền bào chữa nói chung và quyền tự bào chữa nói riêng trong hoạt động tố tụng hình sự. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa” [1]; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020khẳng định “nâng cao chấtlượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạtđộng tư pháp” [2]. Quyền tự bào chữa được xác định là quyền con người của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng, đồng thời là bộ phận không thể tách rời của 1 quyền bào chữa tạo thành thể thống nhất được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta từ 1945 đến nay, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013. Việc đảm bảo thực thi có hiệu quả quyền tự bào chữa đóng góp to lớn vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội; giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện và chính xác. Tuy vậy, thực tiễn TTHS cho thấy việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội còn có những chế, bất cập, chưa bảo đảm đầy đủ hoạt động tự bào chữa trong các giai đoạn tố tụng hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc vi phạm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội còn xảy ra, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ tội dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan thậm chí còn làm oan người vô tội. Những hạn chế, bất cập này cần phải được khắc phục nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người trong TTHS, góp phần thực thi có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, học viên chọn đề tài: “ Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội theo quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015” làm luận văn thạc sĩ của mình. Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận quyền để tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ về mặt khoa học các quy định của pháp luật TTHS về quyền tự bào chữa, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS có liên quan. Thông qua đó, bằng những nhận định khoa học và đánh giá thực tiễn đưa ra đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về quyền tự bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người, góp phần xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được yêu cầu bảo vệ các 2 quyền tự do, dân chủ của công dân. Vấn đề tự bào chữa trong TTHS được ghi nhận trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới như Nga, Đan Mạch... Ở Việt Nam, quyền tự bào chữa không được quy định thành những chương, điều cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ được quy định rải rác ở một số điều luật trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 (điều 11), Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2014. Mặc dù về kỹ thuật lập pháp,quyền tự bào chữa vẫn còn nhiều hạn chế, tuy nhiên, việc ghi nhận quyền tự bào chữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, phản ánh tư tưởng nhân văn trong chính sách đối với người bị buộc tội. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành nghiên cứu về đề tài này như: - Nguyễn Ngọc Chí: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự - yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 221-239. - Hoàng Thị Sơn: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong luật TTHS Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, năm 2003. - Hoàng Thị Sơn: Thực trạng thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 4/2002. - Hoàng Thị Sơn: Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học, số 5/2000. - Trần Văn Bảy: Người bào chữa và vấn đề bảo đảm quyền của người bào chữa trong TTHS Việt Nam, Tạp chí KHPL, số 1/2001. - Nguyễn Duy Hưng (2006): Bị can và bảo đảm quyền của bị can trong BộluậtTTHS năm 2003 - thực trạng và định hướng hoàn thiện. Tài liệu hội thảo đềtài khoa học cấp bộ Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự ViệtNam, Tp. Hồ Chí Minh. 3 - Phạm Hồng Hải: Những điểm mới về trách nhiệm, nghĩa vụ của người bào chữa trong Bộ luật TTHS năm 2003, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2004. - Lê Hồng Sơn: Vấn đề thực hiện quyền của người bào chữa trong TTHS, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2002. Các công trình, bài viết nêu trên chỉ đề cập đến quyền bào chữa chứ chưa thực sự nghiên cứu quyền tự bào chữa như một chế định độc lập. Mặc dù là một bộ phận không thể tách rời của quyền bào chữa, nhưng quyền tự bào chữa cũng có sự độc lập tương đối trong mối tương quan với các quyền khác được pháp luật quy định. Thêm nữa, trong các công trình nghiên cứu kể trên, các tác giả cũng chỉ nghiên cứu pháp luật thực định, đi sâu vào các nội dung quyền bào chữa mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về quyền tự bào chữa. Hiện nay chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu chuyên sâu về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội ở cấp độ luận văn thạc sỹ. Bên cạnh đó, một số công trình được công bố cách đây khá lâu khi một số quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền tự bào chữa chưa được ghi nhận trong pháp luật thực định, vì vậy, chúng ta cần được tiếp tục nghiên cứu tổng quát, toàn diện hơn trên tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp và thực tiễn áp dụng hiện nay để đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn nhất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, nội dung của quyền tự bào chữa, chỉ ra những kết quả và những bất cập còn tồn tại khi thực hiện quyền tự bào chữa ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự bào chữa trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, góp phần giải quyết vụ án hình sự khách quan, trung thực và hiệu lực, hiệu quả. 4 Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặtra là: 1. Nghiên cứu khái quát quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS như: khái niệm, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nguyên tắc. 2. Phân tích các nội dung cơ bản của quyền tự bào chữa giành cho người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam 3. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng, qua đó rút ra kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế. 4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa, người viết đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam. 4. Phạm vi –ý nghĩa nghiên cứu Với đề tài này, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào quyền tự bào chữa của người bị buộc tội dưới góc độ lý luận, phân tích những quy định của pháp luật đặc biệt là những quy định trong BLTTHS năm 2015 về nội dung của quyền này và chỉ ra vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật của quyền tự bào chữa. Đề tài đưa ra những luận cứ đồng thời phân tích các quy định hiện hành của bộ luật TTHS năm 2015, làm kết quả để hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời đề tài đưa ra những lý luận chặt chẽ để các chủ thể tham gia tố tụng nhận thức đúng vai trò về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần giải quyết vụ án khách quan công bằng, hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm qua đó xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về cải cách tư pháp. Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh, phân tích và phương pháp tổng hợp kết hợp với việc phân tích thực tiễn áp dụng quyền tự bào chữa thông qua báo cáo công tác của các cơ quan tư pháp và minh họa với các vụ án cụ thể, điều luật cụ thể để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu. Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp lịch sử; kết hợp với việc phân tích thực tiễn. 6. Bố cục của Luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Chương 2: Quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam 6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự 1.1.1. Tự bào chữa là quyền con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế Tự bào chữa là tự mình sử dụng lập luận, chứng cứ để bênh vực cho hành vi của bản thân đang bị xem là phạm pháp hoặc đang bị lên án, đang bị buộc tội.Theo từ điển tiếng Việt: “Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước tòa án hoặc cho một việc làm đang bị lên án” còn “tự bào chữa là tự mình thực hiện” [45]. Trong khoa học pháp lý TTHS, khái niệm quyền bào chữa được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Quyền tự bào chữa là một bộ phận không tách rời của quyền bào chữa và là một chuẩn mực bắt buộc trong quyền được xét xử công bằng và được xem là một trong những quyền cơ bản của con người. Theo nhiều nhà nghiên cứu, quyền bào chữa có lịch sử phát triển lâu đời với những cách hiểu và quy định khác nhau từ thời Trung cổ ở Châu Âu. Để quyền tự bào chữa được thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực thi trên thực tế thì quyền này phải được quy định trong các văn bản pháp lý mang tính bắt buộc thi hành. Trước hết, quyền tự bào chữa phải được xây dựng dựa trên cơ sở, chuẩn mực quốc tế, sau đó, được nội luật hóa bằng các quy định pháp luật trong từng quốc gia cụ thể, với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Khi nghiên cứu về quyền tự bào chữa, chúng ta bắt buộc phải nghiên cứu chế định này trong mối tương quan với quyền bào chữa. Với quá trình hình thành và phát triển lâu đời, hiện nay, quyền tự bào chữa đã được công nhận như là một 7 chuẩn mực mang tính toàn cầu, được tất cả các quốc gia trên thế giới công nhận. Để có cái nhìn tổng quát về quyền tự bào chữa, chúng ta có thể tham khảo những quy định đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR) đã xác định những quyền cơ bản của một người khi phải đối mặt với những cáo buộc hình sự. Tại Điều 10 của UDHR ghi nhận “Mọi người đều bìnhđẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ”[38]. Điều 11 của Tuyên ngôn xác định“Bất cứ ai bị cáo buộc về một hành vi phạm tội đều được quyềnsuy đoán vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội trước một phiên tòa công khai, nơi mà anh ta được cung cấp những bảo đảm cần thiết cho việcbào chữa”[37]. Với cách quy định này, Tuyên ngôn không quy định trực tiếp thế nào là quyền tự bào hay quyền tự bào chữa cho một người chữa nhưng Tuyên ngôn đã ghi nhận một trong những tiêu chí cơ bản của xét xử công bằng là quyền được có những bảo đảm hợp lý cho việc bào chữa của người bị buộc tội. Theo tinh thần chung của UDHR thì các quy định về bảo đảm quyền bào chữa nói chung trong đó có quyền tự bào chữa đã được ghi nhận và cụ thể hóa ở nhiều văn kiện quốc tế khác. Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc có hiệu lực ngày 23/3/1976; Việt Nam gia nhập Công ước vào ngày 24/9/1982, tạikhoản 3 Điều 14 của Công ước quy định các quyền cơ bản hay những bảo đảm tối thiểu mà một người được hưởng trong quá trình tố tụng nhằm bảo đảm việc xét xử công bằng, trong đó có quyền tự bào chữa. Với những quy định này, trong quá trình xét xử hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những quyền cơ bản như: 8 “(a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; (b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; (c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; (d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả; (e) Được đối chất hoặc yêu cầu đối chất những nhân chứng buộc tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tham gia; (f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà; (g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.” [38] Quyền tự bào chữa có vai trò đặc biệt do đây là quyền đầu tiên và không thể bị tách rời, mang tính chất bảo đảm cho các quyền khác của con người được thi hành trong quá trình tố tụng. Khoản 3 Điều 14 ICCPR khẳng định trong quá trình xét xử hình sự, mọi người phải được đáp ứng những bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền tự bào chữa. Các quyền đó bao gồm quyền được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh chóng, được đối chất với người làm chứng...Để có thể thực hiện việc bào chữa, người bị buộc tội phải được thông báo về lý do buộc tội (điểm a). Trong bộ Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới bấtkỳ hình thức nào (1988)được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 tiếp tục nhấn mạnh quyền được 9 thông báo này của người bị bắt giữ, theo đó “Bất kỳ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo ngay khi bị bắt giữ về lý do của việc bắt giữ, và phải được thông báo ngay về bất kỳ lời buộc tội nào đối với họ”[47]. Bên cạnh quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa (điểm b), bị cáo lại có quyền được xét xử nhanh chóng, quyền tự bào chữa và quyền nhờ luật sư, quyền được có phiên dịch. Bị can, bị cáo không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về bên buộc tội. Những quy định này được cụ thể hóa tại Bình luận chung số 32 của Ủy ban giám sát thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị về quyền bình đẳng trước Tòa án và quyền được xét xử công bằng đã hướng dẫn cụ thể về các bảo đảm tối thiểu được quy định tại Điều 14 Công ước. Thuật ngữ “thời gian đầy đủ (hay thời gian thích đáng)” được giải thích là : thời gian đầy đủ” cho việc chuẩn bị phụ thuộc vào từng vụ việc.... Tòa án chỉ có thể ra quyết định hoãn xét xử khi bị đơn bị kết tội hình sự nghiêm trọng và cần thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa. Các điều kiện đầy đủ bao gồm: quyền tìm kiếm các tài liệu, chứng cứ khác; việc tiếp cận này bao gồm các tài liệu liên quan đến việc khởi tố và thông tin có thể dùng để bào chữa.Bình luận chung số 32 hướng dẫn cụ thể một số quy định như: bị cáo có quyền có mặt trong khi bị xét xử, nhưng trong một số trường hợp bị cáo có thể vắng mặt nếu sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến công lý và bị cáo đã được cơ quan tư pháp thông báo kịp thời cho họ về thời gian, địa điểm xét xử và yêu cầu họ tham gia trước đó nhưng họ vẫn từ chối thực hiện quyền có mặt trong phiên tòa (Đoạn 36). Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Việc tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa của bị cáo phải được cơ quan có thẩm quyền thông báo. Cá biệt ở một số trường hợp, tòa án có thể chỉ định một luật sư không theo ý muốn của bị cáo. Nhưng, việc hạn chế ý muốn 10 tự bào chữa của bị cáo phải thực sự “có mục đích hợp lý và khách quan và không vượt quá sự cần thiết thực thi công lý” [48]. Cơ quan điều tra không được can thiệp hoặc gây áp lực tâm lý đối với người bị tình nghi hay bị can nhằm ép họ nhận tội. Đối với những lời khai hoặc lời nhận tội có được bằng phương thức tra tấn, thì không được coi là chứng cứ, trừ khi chúng được sử dụng làm bằng chứng của việc tra tấn hoặc những đối xử khác trái với quy định (Đoạn 41 Bình luận chung số 32). Như vậy quy định tại Điều 14 đã xác định nội dung của quyền bào chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Ngoài ra quyền tự bào chữa còn được ghi nhận và bảo đảm ở nhiều văn bản pháp lý khác có liên quan như “Các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của Luật sư”, “Quy chế Roma về Tòa án hình sự quốc tế”, Công ước Châu Âu về quyền con người (ECHR), Công ước Châu Mỹ về quyền conngười (AmCHR) và Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền các dân tộc (AfCHPR), tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua bằng Nghịquyết 43/173 ngày 9/12/1988. Công ước Châu Âu về quyền con người (EHRC) cũng có các quy định về quyền tự bào chữa cho người bị cáo buộc về hình sự. Theo đó bất kỳ ai khi bị cáo buộc phạm tội hình sự có các quyền tối thiểu sau: “…(a) Được thông báo kịp thời bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu chi tiết về bản chất và lý do buộc tội mình; (b) Có đủ thời gian và điều kiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; (c) Được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý do người đó lựa chọn; hoặc nếu họ không có đủ khả năng chi trả cho người bào chữa, họ sẽ được cung cấp sự trợ giúp pháp lý miễn phí vì lợi ích của công lý; 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan