MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều
rủi ro tiềm ẩn như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng
thanh toán… Vì vậy, việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt
động yếu kém là điều khó tránh khỏi đối với nền kinh tế, việc xử lý những
hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các TCTD không đơn
giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay tổ chức kia mà trước hết, nó làm
tổn thương đến niềm tin của dân chúng. Nếu không có những biện pháp giải
quyết phù hợp thì tình trạng này còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh
tế, chính trị, xã hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng và tạo ra tâm
lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bên
cạnh sự ổn định về chính trị, xã hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế phát
triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối
với mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, vào khoảng những năm 1988 đến 1990, hàng loạt các
hợp tác xã tín dụng đô thị bị đổ vỡ trên toàn quốc gây ra những bất ổn về kinh
tế và chính trị. Đặc biệt, niềm tin của dân chúng đối với hệ thống tài chính
ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lấy lại niềm tin của công chúng đối
với hệ thống tài chính ngân hàng trong bối cảnh như vậy là yêu cầu quan
trọng đặt ra để tránh tình trạng người dân có tích lũy không gửi tại ngân hàng
hoặc mua vàng cất giữ tại nhà. Chính những hành động như vậy đã ảnh hưởng
đến quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế. Vì vậy, rút kinh
nghiệm về sự kiện đó, khi triển khai mô hình Quỹ tín dụng nhân dân theo
Quyết định 390/QĐ-TTg ngày 27/07/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Quy tắc
bảo hiểm trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi
có kỳ hạn đã được ban hành kèm theo Quyết định số 101/TCQĐ-BH ngày
1
01/02/1994 của Bộ Tài chính. Theo quyết định này Bảo Việt đã triển khai
nghiệp vụ BHTG, đây là khởi đầu của hoạt động BHTG tại nước ta.
Tuy nhiên, hoạt động BHTG do Bảo Việt thực hiện đã thể hiện những
hạn chế về nhiều mặt như số lượng Quỹ tín dụng nhân dân tham gia bảo hiểm
ít, chỉ có khoảng 162 quỹ (1995) chiếm 33,22% tổng số dư tiền gửi trong cả
nước tại thời điểm đó. Đến năm 1997 có 370 Quỹ tín dụng nhân dân tham gia
BHTG với số tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là 322 tỷ VNĐ. Đối tượng
tham gia BHTG thời điểm này chỉ hạn chế ở Quỹ tín dụng nhân dân, còn các
tổ chức có huy động tiền gửi khác không tham gia [16].
Hoạt động BHTG do Bảo Việt tiến hành không đảm bảo các điều kiện
cho sự thành công của một tổ chức BHTG như chỉ thực hiện việc chi trả tiền
gửi khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, việc tham gia BHTG là tự
nguyện...Vì vậy, hoạt động đó thiếu tính chuyên nghiệp và không theo thông
lệ quốc tế, không đảm bảo các điều kiện hoạt động thành công của tổ chức
BHTG. Trong khi đó, do thực hiện chính sách kinh tế mở và nền kinh tế phát
triển theo hướng thị trường, hệ thống tài chính ngân hàng của nước ta phát
triển mạnh mẽ và thực hiện đổi mới về nhiều mặt đã làm gia tăng rủi ro và
yêu cầu kiểm soát rủi ro cũng như bảo vệ người gửi tiền là rất quan trọng.
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á năm 1997 không ảnh
hưởng nhiều đến nền kinh tế của Việt Nam nhưng cũng tác động đến hoạt
động ngân hàng Việt Nam. Trong quá trình xử lý khủng hoảng tài chính ngân
hành thì BHTG là công cụ tài chính được một số Chính phủ ở Châu Á sử
dụng hữu hiệu trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng như lấy lại
niềm tin của công chúng. Đồng thời, nhiều quốc gia nhìn nhận rằng nếu có tổ
chức BHTG thì có thể tránh cho quốc gia của họ những cuộc khủng hoảng tài
chính. Hơn thế nữa, cũng trong thời kỳ này, xu hướng phát triển hệ thống
2
BHTG trên thế giới phát triển mạnh mẽ và xu hướng đó cũng tác động đến
Việt Nam.
Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để bảo vệ người gửi tiền
và đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, tạo nền
tảng cho sự phát triển bền vững cần có một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện
các nghiệp vụ BHTG. Trong xu thế hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới,
thị trường tài chính của nước ta có nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng tiềm
ẩn nhiều rủi ro và thách thức. Để hạn chế những rủi ro đó và bảo vệ được
người tiêu dùng nói chung và ngưởi gửi tiền nói riêng thì sự ra đời của tổ
chức BHTG là hết sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu khách quan của thị
trường tài chính cũng như toàn bộ nền kinh tế. Tại Khoản 1 Điều 10 Luật Tổ
chức tín dụng 2010 quy định “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy
định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo
hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh”, đây là cơ sở quan trọng để tổ
chức BHTG ra đời. Và điều đó có thể khẳng định BHTG Việt Nam ra đời là
sản phẩm của nền kinh tế thị trường [16].
Để bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, tạo lập
và củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, các quốc gia sử
dụng nhiều biện pháp khác nhau như: quy định điều kiện thành lập và hoạt
động ngân hàng chặt chẽ; quy định các giới hạn, các tỷ lệ an toàn mà các ngân
hàng phải tuân thủ trong quá trình hoạt động; thiết lập hệ thống thanh tra,
giám sát ngân hàng hiệu quả; thực hiện các biện pháp hỗ trợ khả năng thanh
toán…
Thiết lập cơ chế bảo hiểm tiền gửi cũng góp phần nhất định vào việc
bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. BHTG được thành lập với mục tiêu trực
tiếp là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm, người
3
gửi tiền sẽ cảm thấy yên tâm và tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng, khả
năng rút tiền ồ ạt tại ngân hàng sẽ giảm thiểu. Từ đó, hệ thống ngân hàng hoạt
động ổn định và an toàn hơn.
Trong những năm gần đây, sự bùng nổ về quy mô hoạt động cũng như
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng tại Việt Nam bên cạnh những mặt tích
cực đã làm gia tăng rủi ro, đặt ra nhiều thách thức... Trước tình hình này,
Chính phủ đã phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn
2011-2015” và đây được coi như một động thái góp phần ngăn chặn rủi ro hệ
thống, duy trì năng lực phát triển và khả năng thích nghi của các ngân hàng
trước những diễn biến phức tạp của thị trường, đồng thời củng cố vững chắc
niềm tin người gửi tiền. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao niềm tin công
chúng là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan chức năng, trong đó có
BHTGVN.
Chính sách và tổ chức BHTG đã được hình thành và hoạt động tại
Việt Nam từ năm 1999 đã phát huy tác dụng trong thực tiễn, từng bước góp
phần nâng cao niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng, góp phần
duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và đã thực hiện bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền khi một số tổ chức quỹ tín dụng nhân dân mất khả năng
thanh toán. Sau 12 năm hoạt động, khung pháp lý cho hoạt động BHTG đã
hình thành, bên cạnh những ưu điểm, khung pháp lý này đã bộc lộ nhiều mặt
hạn chế. Chính vì vậy, Luật BHTG năm 2012 đã ra đời, tạo môi trường pháp
lý cho hoạt động BHTG ở Việt Nam đạt được hiệu quả, thực hiện được mục
tiêu trọng tâm là bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và giảm thiểu rủi ro cho thị
trường tài chính. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia BHTG được quy
định tại Chương II – Luật BHTG, về cơ bản, các quy định này đã chỉ rõ quyền
và nghĩa vụ của người được BHTG, quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia
BHTG, quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG. Tuy nhiên, để phân tích những
4
ưu điểm cũng như những mặt hạn chế của các quy định trên khi áp dụng vào
thực tiễn, chúng ta cần nghiên cứu để chỉ ra thực trạng, từ đó có những giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ thể trong quan hệ BHTG ở Việt Nam.
Với lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong hoạt động BHTG theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn cao
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm tiền gửi là một lĩnh vực mới xuất hiện ở Việt Nam. Việc
nghiên cứu pháp luật BHTG nói chung và tổ chức bảo hiểm tiền gửi nói riêng
ở nước ta nhìn chung chưa nhiều. Các công trình nghiên cứu nước ngoài được
dịch ra tiếng Việt còn ít. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và nguồn tư
liệu bao quát được, tôi nhận thấy một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:
Năm 2004, TS.Nguyễn Thị Kim Oanh xuất bản cuốn Bảo hiểm tiền gửi
- Nguyên lý, thực tiễn và định hướng (Nxb Lao động xã hội). Đây có thể xem
là công trình đầu tiên trình bày một cách tương đối hệ thống một số vấn đề
liên quan đến Bảo hiểm tiền gửi, từ nguyên lý đến thực tiễn, từ đó đề xuất một
số định hướng mang tính pháp lý cho vấn đề bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Bốn năm sau, năm 2008, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản
cuốn Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam của PGS.TS Lê Thị Thu
Thủy. Đây là công trình mang tính chuyên sâu, đề cập đến mọi vấn đề của
BHTG, cung cấp nhiều kiến thức lý luận và thực tiễn về BHTG ở Việt Nam
và trên thế giới. Cuốn sách không chỉ có giá trị tham khảo mà còn được dùng
phổ biến như một giáo trình chính thức về bảo hiểm tiền gửi trong các trường
đại học luật. Tuy nhiên, do được xuất bản từ năm 2008, trước khi Luật BHTG
năm 2012 được ban hành 5 năm, nên cuốn sách đã không thể cập nhật được
những quy định pháp luật hiện hành. Cùng năm đó, Ths.Lê Thị Thúy Sen xuất
5
bản cuốn Quy chế pháp lý về bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam (Viện Nhà nước
và Pháp luận ấn hành). Cuốn sách chủ yếu tập trung trình bày những quy chế
pháp lý và hoạt động nghiệp vụ giám sát, kiểm tra, tiếp nhận và xử lý, phí Bảo
hiểm tiền gửi.
Năm 2013, TS. Hoàng Thu Hằng xuất bản cuốn Pháp luật về hoạt động
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia). Cuốn sách đã phân
tích những điểm cụ thể về hoạt động BHTG, cung cấp nhiều kiến thức lý luận
và thực tiễn về hoạt động BHTG, cuốn sách cũng đã cập nhật những quy định
pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi.
Bên cạnh những công trình kể trên còn có một số bài viết của các
chuyên gia pháp lý, chuyên gia kinh tế, ngân hàng về những vấn đề liên quan
đến Bảo hiểm tiền gửi đăng tải trên các báo, tạp chí. Trong đó, đáng chú ý là
các bài viết, như: Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền theo pháp luật về Bảo
hiểm tiền gửi tại Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện của
GS.TSKH Đào Trí Úc (Thông tin BHTG số 03; 4/ 2007); Quản lý nhà nước
về bảo hiểm tiền gửi của Đặng Dung, (Báo điện tử Vietnamnet, 03/3/2010).
Ngoài ra còn có một số Luận văn, Luận án ở những mức độ khác nhau đã đề
cập đến vấn đề Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Điểm lại một số công trình, bài viết có liên quan, có thể thấy nhiều vấn
đề liên quan đến Luật BHTG ở Việt Nam đã được đề cập. Tuy nhiên, kể từ
khi Luật BHTG số 06/2012/QH13 ra đời đến nay chưa có công trình nào đặt
vấn đề nghiên cứu một cách tổng quát quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam. Thực tế đó cho
thấy, việc nghiên cứu đề tài Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt
động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam là cần thiết, hữu ích và có
tính khả thi.
6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Hơn 12 năm (1999-2012) ra đời và phát triển, hệ thống BHTG Việt
Nam đã góp phần tích cực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền
và duy trì ổn định cho hệ thống tài chính, ngân hàng. Ngày 01/01/2013, Luật
BHTG năm 2012 đã có hiệu lực.
Với đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động
BHTG theo pháp luật Việt Nam” luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về
BHTG, quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia BHTG; phân tích những quy
định của Luật BHTG năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành, những bất
cập còn tồn tại, những thiếu sót về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong
hoạt động BHTG, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và cải thiện thực trạng đã nêu trên.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn hướng tới việc giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của BHTG và
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia BHTG;
- Phân tích những quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động BHTG;
- Nêu ra thực trạng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ thể trong hoạt động BHTG ở Việt Nam nhằm làm rõ những bất cập cũng
như nguyên nhân của những thực trạng về quyền và nghĩa vụ của chủ thể
trong hoạt động BHTG;
- Qua đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong hoạt động BHTG ở
Việt Nam.
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu những quy phạm pháp luật hiện hành
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động BHTG ở Việt
Nam, trong đó nhấn mạnh tới Luật BHTG năm 2012…qua đó phân tích
những mặt tích cực, hạn chế của những quy phạm pháp luật này. Từ đó, luận
văn đánh giá được thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam và đưa ra
những kiến nghị, phương hướng góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của chủ thể trong hoạt động BHTG ở Việt Nam.
- Các chủ thể tham gia hoạt động BHTG bao gồm: Tổ chức BHTG, Tổ
chức tham gia BHTG và người gửi tiền. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của
luận văn chỉ giới hạn và tập trung phân tích các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG và tổ chức tham gia
BHTG, đánh giá thực trạng những quy định này dựa trên cơ sở khoa học, thực
tiễn vận hành và so sánh với pháp luật về BHTG của một số quốc gia trên thế
giới và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể tham gia BHTG Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp khoa học được sử dụng trong toàn bộ luận văn là
phương pháp luận, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
để đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong hoạt động BHTG ở Việt Nam và sự phát
triển của hệ thống các quy phạm này.
Ngoài ra, để hoàn thành mục đích nghiên cứu, luận văn cũng sử dụng
nhiều phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể...
để làm rõ các luận điểm nghiên cứu trong đề tài.
8
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
Đề tài luận văn có tính mới, thể hiện ở những điểm sau đây:
- Đề tài làm rõ hệ thống những quy phạm mới nhất được ban hành
điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động BHTG theo
pháp luật Việt Nam, chỉ ra những bất cập và hướng cần phải tiếp tục hoàn
thiện trong thời gian tới;
- Đề tài phân tích một cách tổng thể, toàn diện những quy định về chủ
thể, đặc biệt là những quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia
BHTG và tổ chức BHTG.
- Trên cơ sở phân tích những tồn tại, bất cập, đề tài nêu ra một số kiến
nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong hoạt động BHTG ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo;
Nội dung của Luận văn được chia làm ba chương, cụ thể:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về BHTG và quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia hoạt động BHTG
Chƣơng II: Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong hoạt động BHTG ở Việt Nam
Chƣơng III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả trong việc thực thi các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể trong hoạt động BHTG ở Việt Nam
9
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHTG VÀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA CHỦ THỂ THAM GIA
HOẠT ĐỘNG BHTG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của BHTG
1.1.1. Khái niệm
Theo định nghĩa trong Luật BHTG Hoa Kỳ năm 1933 thì “Tiền gửi
được hiểu là số dư tiền hoặc giá trị tương đương chưa được thanh toán đã
được nhận hoặc giữ bởi một ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm trong hoạt
động kinh doanh thông thường và từ đó nó cấp hoặc có nghĩa vụ cấp tín dụng,
dù là có điều kiện hay không có điều kiện cho một tài khoản thương mại, séc,
tiết kiệm, không kỳ hạn, hoặc được chứng minh bằng giấy chứng nhận tiền
gửi, chứng nhận tiết kiệm, chứng nhận đầu tư, chứng nhận nợ, hoặc những
giấy tờ có tên tương tự, hoặc séc hay hối phiếu rút ra từ tài khoản tiền gửi và
được chứng nhận bởi ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm, hoặc thư tín dụng
hoặc séc du lịch mà ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm có nghĩa vụ đầu tiên”
[3]. Theo định nghĩa trên, ta có thể hiểu tiền gửi không chỉ là các khoản tiền
nhàn rỗi của công chúng gửi tại các tổ chức tín dụng nhằm hưởng lãi mà còn
có thể thực hiện những mục đích khác như đầu tư, tiết kiệm hay một khoản
ứng trước để đặt cọc, ký quỹ cho một giao dịch mua bán...
Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam 1997 lần đầu tiên cũng quy định
“tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại các tổ chức tín dụng dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình
thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải được
trả cho người gửi tiền”. Theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam 2010,
Khoản 3 Điều 4 quy định: nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức,
cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
10
kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận
tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi
tiền theo thỏa thuận.
Vậy khái niệm tiền gửi có thể hiểu là khoản tiền của khách hàng gửi
tại các tổ chức tín dụng để phù hợp với mục đích và yêu cầu của các người
gửi tiền cũng như tổ chức tín dụng và tuân thủ những hình thức mà pháp luật
quy định.
Với tư cách là trung gian về nguồn vốn, các tổ chức tín dụng chịu
nhiều tác động từ các yếu tố luôn luôn biến động và cũng luôn chịu tác động
từ nền kinh tế thế giới như các cơ chế, chính sách kinh tế; các điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội... Mặt khác, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng cũng cho thấy, trong chừng mực nhất định, do hạn chế về kiến thức
chuyên môn cũng như khả năng phân tích, nắm bắt thông tin của người gửi
tiền và sự mạo hiểm, quá chú trọng đến lợi nhuận mà một số tổ chức tín dụng
đã có những bước đi sai lầm dẫn đến phá sản và không còn khả năng bồi hoàn
lại các khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân. Vì vậy, để có biện pháp kiểm
soát và đảm bảo an toàn đối với hoạt động sử dụng tiền gửi của khách hàng
cũng như tăng cường sự cẩn trọng của các tổ chức tín dụng trong việc sử dụng
vốn, BHTG đã ra đời và thiết lập những quy tắc điều chỉnh hoạt động nhận
tiền gửi của các tổ chức tín dụng.
BHTG đã ra đời khá lâu trên thế giới, tuy nhiên, cho đến gần đây vẫn
có khá nhiều cách tiếp cận, nhận định khác nhau của các học giả trên thế giới.
Carl Johan Lindgren cho rằng BHTG “là một cơ chế có giới hạn nhưng chính
thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các khoản gốc (và thường
là cả lãi) của các khoản tiền gửi”. Sau này học giả Choi J.B đã đưa ra một
khái niệm cụ thể hơn về BHTG như sau: BHTG là chính sách bảo đảm tất cả
hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được
11
thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất
khả năng thanh toán, theo cơ chế hợp đồng hoặc cam kết công khai.
BHTG có thể hiểu là một loại hình bảo hiểm với những đặc điểm
riêng khác với các loại hình bảo hiểm khác. Hiện nay pháp luật về BHTG một
số nước (Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan…) không đưa ra khái niệm về BHTG nói
chung mà chỉ xác định mục tiêu, mô hình BHTG, liệt kê các hoạt động của tổ
chức BHTG. Tại Việt Nam, Khoản 1 Điều 4 Luật BHTG năm 2012 của Việt
Nam định nghĩa về BHTG như sau:
“BHTG là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm
tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc
phá sản”.
Hay nói cách khác, BHTG là việc tổ chức BHTG cam kết với tổ
chức tham gia BHTG về việc sẽ thanh toán một khoản tiền (hạn mức chi trả
bảo hiểm tùy theo quy định pháp luật của mỗi nước) cho người gửi tiền,
khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán và chấm dứt hoạt
động. Cam kết này được thực hiện bằng hợp đồng bảo hiểm. Trong quan hệ
này bao gồm ba chủ thể đó là: người được BHTG, tổ chức tham gia BHTG
và tổ chức BHTG.
1.1.2. Đặc điểm của BHTG
BHTG là loại hình bảo hiểm có tính đặc thù, so với hoạt động của các
loại hình bảo hiểm thương mại, hoạt động BHTG có những điểm khác biệt:
Thứ nhất, hoạt động BHTG không hướng đến mục tiêu lợi nhuận mà
nhằm thực hiện mục tiêu công của mỗi nhà nước trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, trong đó chủ yếu là bảo vệ quyền và lợi ích của các cá nhân đơn lẻ
gửi tiền tại các tổ chức tín dụng tham gia BHTG . Vì vậy, việc tham gia
BHTG mang tính bắt buộc tại hầu hết các quốc gia, trong khi đó các loại hình
12
bảo hiểm khác thường là bảo hiểm thương mại và tự nguyện.
Thứ hai, do mục tiêu cơ bản của BHTG gắn với các chính sách công
của nhà nước nên chủ thể thực hiện các nghiệp vụ BHTG thông thường là các
tổ chức tài chính đặc thù trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ Tài chính của mỗi
quốc gia. Theo đó, các tổ chức BHTG này không chỉ thực hiện các nghiệp vụ
BHTG mà còn giúp cho nhà nước giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng
khi các tổ chức này tham gia bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động giám sát này của
tổ chức BHTG còn có sự hỗ trợ của các tổ chức giám sát tài chính và ngân
hàng khác cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong lĩnh vực tài chính.
Thứ ba, về các loại chủ thể tham gia hoạt động BHTG, khác với quan
hệ bảo hiểm thông thường là mối quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm (thường đồng thời cũng là người hưởng thụ
bảo hiểm), quan hệ BHTG luôn là quan hệ ba bên giữa: tổ chức BHTG, tổ
chức tham gia BHTG, người được BHTG.
Thứ tư, xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng, các
tổ chức nhận tiền gửi là tổ chức huy động nguồn vốn từ công chúng nhằm
thực hiện các hoạt động tín dụng và các hoạt động kinh doanh khác nhằm
kiếm lợi nhuận; trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi gặp rủi ro trong kinh
doanh thì tất yếu sẽ gây ra thiệt hại về kinh tế cho người gửi tiền tại các tổ
chức nhận tiền gửi này. Vì vậy, pháp luật của mỗi quốc gia quy định việc tổ
chức tín dụng, tổ chức nhận tiền gửi bắt buộc phải tham gia BHTG sẽ là một
biện pháp đảm bảo về mặt pháp lý đối với quyền lợi hợp pháp của người gửi
tiền trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro hay bị phá sản.
Thứ năm, mặc dù không phải đóng bất cứ khoản phí bảo hiểm nào
nhưng cá nhân, tổ chức có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức nhận tiền gửi
tham gia BHTG lại là chủ thể được thụ hưởng từ hoạt động BHTG. Thực chất
13
quan hệ giữa cá nhân, tổ chức có tiền gửi tại các tổ chức tín dụng là quan hệ
giữa người cho vay và bên vay vốn trong quan hệ dân sự thông thường, trong
trường hợp bên vay tiền – tổ chức tín dụng nhận tiền gửi mất khả năng thanh
toán hay bị đổ vỡ thì tổ chức BHTG sẽ thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền BHTG
cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tín dụng, hay nói cách khác,
đảm bảo quyền và lợi ích kinh tế cho người gửi tiền.
Thứ sáu, trong hoạt động BHTG, để đảm bảo an toàn cho hoạt động
tài chính và ổn định nền kinh tế, mỗi quốc gia sẽ căn cứ trên thực tiễn hoạt
động ngân hàng và điều kiện kinh tế, xã hội của mình để đưa ra những quy
định pháp luật về BHTG như địa vị pháp lý của tổ chức BHTG, mức phí
BHTG cũng như hạn mức chi trả bảo hiểm cho các tổ chức, cá nhân có tiền
gửi được bảo hiểm tại các tổ chức tín dụng khi có sự kiện BHTG xảy ra...
1.1.3.Vai trò của BHTG
Thứ nhất, BHTG góp phần bảo vệ người gửi tiền và nâng cao niềm tin
của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Hoạt động BHTG là nhằm bảo
vệ quyền lợi của người gửi tiền, đảm bảo và duy trì tính an toàn của hoạt động
ngân hàng trong một quốc gia. Do vậy, nhiều nước trên thế giới đã ban hành
và đưa vào thực thi hàng loạt biện pháp, chính sách nhằm củng cố, đảm bảo
sự an toàn của hệ thống ngân hàng, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.
Một trong số đó là hoạt động BHTG đối với người gửi tiền tại các tổ chức
nhận tiền gửi.
Về thực chất, tổ chức BHTG đã giúp ngân hàng gặp khó khăn tiếp tục
thực hiện phần cơ bản của chức năng thanh toán của họ là thanh toán cho
người gửi tiền. Mặc dù, đối với ngân hàng bị đóng cửa và phải yêu cầu cần
được chi trả tiền bảo hiểm, việc duy trì lòng tin của công chúng đối với ngân
hàng lúc này không còn là yếu tố quan trọng nữa. Song điều đó lại rất quan
trọng đối với uy tín của các ngân hàng khác đang hoạt động tốt và rộng hơn là
14
đối với phần còn lại của hệ thống ngân hàng quốc gia. Điều này sẽ được đảm
bảo khi có can thiệp kịp thời và hiệu quả của tổ chức BHTG. Chính hoạt động
này đã có ý nghĩa to lớn trong việc duy trì lòng tin của người gửi tiền đối với
hệ thống ngân hàng.
Thực tế đó cho thấy, một khi quyền lợi của người gửi tiền được bảo
đảm thì lòng tin của công chúng đối với ngân hàng cũng được tăng thêm.
Điều này được thể hiện thông qua việc BHTG đưa ra cách xử lý các khoản nợ
- tiền gửi của từng ngân hàng và hạn chế sự lây lan của ngân hàng này sang
ngân hàng khác. Thông qua đó bảo đảm cho hệ thống tài chính ổn định, tạo
điều kiện cho các giao dịch tài chính giữa các ngân hàng và chủ thể khác
trong nền kinh tế được thực hiện có hiệu quả hơn.
Thứ hai, hoạt động BHTG tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân
hàng, tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng phát triển. Hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, cũng vì thế mà luôn có sự
cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Hiện nay, để hỗ trợ các ngân hàng Việt
Nam trong hoàn cảnh còn có nhiều bất lợi trong cạnh tranh, một số điều kiện
về hạn chế cho vay và cung cấp dịch vụ ngân hàng đang được áp dụng đối với
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. Có
thể nói, hoạt động BHTG đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh cho các ngân
hàng, nếu như không có hoạt động BHTG các ngân hàng nhỏ sẽ khó có cơ hội
thu hút được nhiều khách hàng vì khi hoạt động BHTG được triển khai, nó đã
tạo sự an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng, tiền gửi sẽ được bảo hiểm như
nhau tại các ngân hàng. Các ngân hàng mới gia nhập thị trường tiền tệ cũng sẽ
có cơ hội phát triển, có khả năng cạnh tranh và các ngân hàng sẽ phải nâng
cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả kinh doanh nhằm thu hút khách hàng. Bên
cạnh đó thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát đối với tổ chức tham gia
BHTG, tổ chức BHTG đưa ra những cảnh báo sớm về những nguy cơ và tình
15
trạng khó khăn mà các ngân hàng gặp phải. Điều này sẽ giúp họ có sự điều
chỉnh kịp thời, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động để tránh nguy cơ phá sản,
mất khả năng thanh toán.
Nói cách khác, BHTG giúp đỡ các ngân hàng thực sự yếu kém, không
thể duy trì được hoạt động có thể rút khỏi môi trường kinh doanh một cách có
trật tự, kỷ cương và không gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các ngân
hàng khác. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình như kiểm tra, giám
sát tổ chức BHTG có thể đánh giá được thực trạng của các ngân hàng tham
gia bảo hiểm, từ đó phát hiện kịp thời những ngân hàng hoạt động yếu kém.
Một khi nhận thấy ngân hàng đó không thể duy trì hoạt động một cách bình
thường thì tổ chức BHTG có thể tiến hành những biện pháp nhất định nhằm
hỗ trợ và đưa ra những phương án sáp nhập, thực hiện chi trả bảo hiểm cho
người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, tham gia vào công tác quản lý,
thanh lý tài sản...Qua đó, các ngân hàng không có năng lực tồn tại có thể
nhanh chóng, rút lui khỏi thị trường mà không gây bất cứ xáo trộn, khủng
hoảng và ảnh hưởng xấu đến các ngân hàng khác.
Thứ ba, BHTG góp phần tích cực cho việc huy động tiền gửi tạo nền
tảng vững chắc cho việc đầu tư phát triển. Tổ chức BHTG với các hoạt động
của mình thực chất là tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả để
ngân hàng có thể cung cấp các điều kiện thuận lợi và thỏa đáng đối với người
gửi tiền. Hơn thế nữa, nếu ngân hàng thực sự gặp khó khăn, tổ chức BHTG
với những hoạt động bảo vệ người gửi tiền thực chất là cung cấp bảo đảm cho
người gửi tiền. Như vậy, tổ chức BHTG đã tạo ra các yếu tố gián tiếp để tạo
điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong huy động tiền gửi. Thực tiễn hoạt
động BHTG ở nhiều nước cho thấy mô hình hoạt động BHTG mà ở đó đưa ra
cơ chế bảo hiểm theo loại tiền gửi thì tốc độ huy động loại tiền gửi thuộc đối
tượng được bảo hiểm sẽ có xu hướng tăng và ngược lại. Đối với hệ thống
16
pháp luật về BHTG không phân biệt loại tiền gửi thuộc đối tượng được bảo
hiểm thì tổng số tiền gửi tại các tổ chức được bảo hiểm sẽ có xu hướng tăng.
Thứ tư, hoạt động BHTG góp phần tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, việc cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng là
điều không tránh khỏi và sự đào thải những ngân hàng yếu kém là điều tất
yếu. Tuy nhiên, sự đổ vỡ dây truyền khác với sự đổ vỡ cá biệt, sự đổ vỡ của
một vài ngân hàng có thể ảnh hưởng xấu đến hệ thống ngân hàng của một
quốc gia. Do vậy, cơ chế tiếp nhận và xử lý các ngân hàng “đổ vỡ” của
BHTG đảm bảo cho quá trình “chọn lọc tự nhiên” trên thực tế của các ngân
hàng diễn ra suôn sẻ mà cũng không ảnh hưởng đến an ninh của nền kinh tế
cũng như giảm thiểu sự rối loạn của thị trường tài chính.
Thứ năm, BHTG còn góp phần vào việc xử lý khủng hoảng tài chính,
ngân hàng. Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên nhân gây ra khủng
hoảng tài chính, ngân hàng là xuất hiện hiện tượng rút tiền hàng loạt. Trong
khi đó hoạt động tài chính ngân hàng là hoạt động mang tính nhạy cảm và lan
truyền cao, do vậy hiện tượng đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào và đôi khi chỉ vì
những tin đồn thất thiệt chứ không hề xuất phát từ nguyên nhân do tổ chức tín
dụng đó hoạt động yếu kém. Với tình huống này, BHTG có thể phát huy tác
dụng triệt để giúp ngăn chặn hiện tượng đó. Như ta thấy, ở một quốc gia, nếu
hệ thống BHTG hoạt động hiệu quả thì việc xử lý khủng hoảng tài chính ở
quốc gia đó sẽ tốt hơn và ngược lại.
Như vậy, có thể thấy vai trò của hoạt động BHTG đối với huy động
tiền gửi tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đặc biệt,
nhất là đối với những nước có nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn trong khi
vốn huy động tiết kiệm còn hạn chế.
17
1.2. Các chủ thể tham gia hoạt động BHTG
Như đã nêu ở trên, hoạt động BHTG được thực hiện với ba chủ thể: tổ
chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền.
Điều 4 Luật BHTG năm 2012 quy định:
“...2. Người được BHTG là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ
chức tham gia BHTG.
3. Tổ chức tham gia BHTG la tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận
tiền gửi của cá nhân.
4. Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định
của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của hoạt động ngân hàng...”
1.2.1. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức BHTG được pháp luật quy định có tư cách pháp nhân, có các
quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật BHTG. Các quyền và
nghĩa vụ pháp lý này được quy định trong văn bản pháp luật về hoạt động
BHTG.
Tùy theo quy định pháp luật của các quốc gia, tổ chức BHTG có thể chỉ
thực hiện hoạt động bảo hiểm thuần túy hoặc tổ chức còn có quyền kiểm tra,
giám sát tổ chức tham gia BHTG, cảnh báo sớm những rủi ro có nguy cơ xảy
ra đối với tổ chức tham gia BHTG, hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia
BHTG...
* Mô hình tổ chức và hoạt động của tổ chức BHTG
Quá trình hình thành và phát triển của BHTG trên thế giới ta có thể
thấy hiện nay có các mô hình tổ chức BHTG: 1) mô hình tổ chức BHTG độc
lập của Nhà nước và được cấp vốn điều lệ ban đầu khi thành lập; 2) mô hình
18
quỹ BHTG không có vốn điều lệ khi thành lập và 3) doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm thực hiện nghiệp vụ BHTG.
Một hệ thống BHTG có thành công hay không thì việc đầu tiên là nó
phải có đủ khả năng tài chính để chi trả các khoản tiền gửi khi tổ chức tín
dụng bị phá sản và phải có được lòng tin của dân chúng, vì vậy một tổ chức
BHTG do tư nhân quản lý với nguồn vốn có hạn nhiều khi rơi vào tình trạng
không có khả năng xử lý các khoản nợ tiền gửi có quy mô lớn. Hơn nữa, để
thực hiện hiệu quả nghiệp vụ BHTG, các tổ chức BHTG còn có quyền hạn
như một cơ quan trực thuộc Chính phủ và có thẩm quyền ban hành các quy
định mang tính pháp lý, có tính bắt buộc tuân thủ áp dụng cho tất cả các chủ
thể tham gia BHTG; vì vậy doanh nghiệp tư nhân không thể có được những
ưu thế này.
Tổ chức BHTG ở hầu hết các quốc gia hiện nay đều là tổ chức có vị
trí độc lập, trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội và chịu sự kiểm soát của một
trong hai chủ thể này. Ví dụ Tổng công ty BHTG Indonesia (IDIC – Thành
lập năm 2005) là tổ chức trực thuộc Chính phủ; hay như Tổng công ty BHTG
Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) là tổ chức hoạt động độc lập với Chính phủ và chịu
sự kiểm soát của Quốc hội. Việc tổ chức, quản trị và điều hành của các tổ
chức BHTG này được thực hiện theo mô hình công ty và tuân theo các quy
định của Luật công ty [33]. Các công ty BHTG này đều mang bản chất của
một định chế tài chính thực hiện kinh doanh; tuy nhiên, xét về giác độ kinh tế
thì các công ty này không bắt buộc phải theo đuổi mục đích lợi nhuận trong
hoạt động của mình. Có một điểm khác biệt trong tổ chức hoạt động của các
tổng công ty BHTG trực thuộc nhà nước này đó là vấn đề vốn điều lệ. Có thể
phân biệt thành hai loại hình Tổng công ty: mô hình Tổng công ty được cấp
vốn điều lệ khi thành lập và mô hình Tổng công ty không được cấp vốn điều
lệ mà chỉ được quản lý quỹ.
19
- Tổ chức BHTG được cấp vốn điều lệ ban đầu khi thành lập và vẫn
duy trì nguồn vốn này để hoạt động. Hoạt động theo mô hình tổ chức này có
thể kể đến Công ty BHTG của Đài Loan, được thành lập ngày 27/09/1985,
với vốn điều lệ ban đầu là 2 tỷ Đài tệ (NT$), khoảng 63 triệu USD. Đến tháng
07/1992 số vốn này đã tăng lên 5 tỷ NT$ và 10 tỷ NT$ vào tháng 10/1995.
- Tổ chức BHTG không có vốn điều lệ: theo đó, tổ chức BHTG khi
thành lập không có vốn điều lệ mà chỉ được giao quản lý quỹ BHTG do nhà
nước cấp vốn ban đầu và quỹ này được bổ sung hàng năm từ nguồn thu phí
của các tổ chức tham gia BHTG. Ta có thể thấy mô hình này được thực hiện
rộng rãi ở khá nhiều nước như Hàn Quốc, Mỹ, Canada... Khi mới thành lập
năm 1967, Công ty BHTG Canada (CDIC) được Chính phủ Canada cấp cho
10 triệu đô la Canada. Tuy nhiên, đến năm 1977, Công ty này đã hoàn trả
được toàn bộ số vốn điều lệ này cho Chính phủ. Hay như Bảo hiểm tiền gửi
Liên bang Mỹ (FDIC) cũng được thành lập năm 1933 với số vốn ban đầu là
289 triệu USD và đã hoàn trả toàn bộ số vốn này cho Chính phủ trong hai
năm 1947 - 1948.
Ta có thể thấy rằng, để thành lập và đưa vào hoạt động một tổ chức
BHTG không nhất thiết phải có nguồn vốn điều lệ cố định mà chỉ cần cấp một
nguồn vốn hợp lý hỗ trợ cho những hoạt động ban đầu và nguồn vốn này sẽ
sớm được hoàn trả khi công ty BHTG có nguồn thu từ các khoản phí.
* Vai trò và chức năng của tổ chức BHTG
Để hoàn thành mục tiêu và thực hiện đúng ý nghĩa của hoạt động
BHTG, một tổ chức BHTG phải đảm bảo thực hiện ba chức năng đối với các
đối tượng và mục tiêu như sau: 1) lợi ích của người gửi tiền nhỏ lẻ; 2) tổ chức
tham gia BHTG và hệ thống ngân hàng; và 3) xử lý khủng hoảng tài chính –
ngân hàng và góp phần phát triển kinh tế - bình ổn xã hội.
20
- Xem thêm -