Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các bài tập phát triển n...

Tài liệu Skkn biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ tại lớp mẫu giáo 3 4 tuổi

.PDF
38
223
142

Mô tả:

MỤC LỤC Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ 02 1. Lý do chọn đề tài. 02 2. Mục đích nghiên cứu. 03 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. 03 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 03 5. Phạm vi nghiên cứu. 04 6. Biện pháp nghiên cứu. 04 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 03 1. Cơ sở lý luận. 04 2. Thực trạng. 05 3. Các biện pháp thực hiện 07 4. Hiệu quả 33 C. KẾT LUẬN 36 1. Bài học kinh nghiệm 36 2. Kiến nghị 37 Phụ lục của đề tài 39 Phụ lục 1 39 Phụ lục 2 41 Tài liệu tham khảo 45 Một số hình ảnh minh chứng 48 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài a) Lý do về mặt lý luận Thực hiện Chỉ thị số 3008/CT-BGDĐT ngày 18/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ gồm: giúp trẻ nhận thức về bản thân: sự tự tin, tự lực, thực hiện những quy tắc an toàn thông thường, biết làm một số việc đơn giản, biết tự phục vụ; hình thành và phát triển các kỹ năng xã hội cần thiết: thể hiện tình cảm, sự chia sẻ, hợp tác, kiên trì, vượt khó; hình thành một số kỹ năng ứng xử phù hợp với gia đình, cộng đồng, bạn bè và môi trường.... Trong đó tự phục vụ được xem là một trong những kỹ năng quan trọng trong nội dung đổi mới giáo dục mầm non hiện nay. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 3-4 tuổi nói riêng rất thích khẳng định mình, muốn được làm người lớn, bên cạnh đó sự tự ý thức ở trẻ bắt đầu xuất hiện, trẻ lên ba bắt đầu có những nguyện vọng độc lập. Trẻ muốn tự mình làm một số công việc như: tự thay quần áo, tự xúc ăn, tự chọn quần áo mà trẻ thích, muốn phụ giúp mẹ việc nhà, tự chọn đồ chơi, tự chọn sách mà trẻ thích… Trẻ thường nói “để con làm”, “con tự ăn được”, “con biết mặc áo…” mà không muốn có sự can thiệp hay giúp đỡ của người lớn. Tuy nhiên sự phát triển của cơ tay và các cơ ngón tay chưa thực sự khéo léo cho nên trẻ dễ làm hỏng hoặc đổ, vỡ. Muốn điều này được cải thiện thì trẻ cần phải được tập luyện thường xuyên, cần có những đồ dùng phù hợp để trẻ được trải nghiệm liên tục. b) Lý do về mặt thực tiễn Trong thực tế, việc cho trẻ rèn luyện kỹ năng tự phục vụ đã duy trì thường xuyên song chưa thực sự đạt hiệu quả, trẻ chưa có nhiều kỹ năng, trẻ thực hiện như một nhiệm vụ chứ chưa xuất phát từ nguyện vọng, chủ yếu là từ mong muốn của người lớn, trẻ chỉ hưởng ứng theo. Đa phần các cháu còn rất vụng về, thao tác của các ngón tay, bàn tay chưa nhuần nhuyễn, khéo léo do trước đây các cháu thường được các cô giáo và người thân làm giúp nên khi giao một số công việc đơn giản trẻ cũng hết sức ngỡ ngàng. 2 Đối với giáo viên do tâm lý sợ trẻ làm hỏng, làm đổ vỡ đồ dùng nên giáo viên hạn chế cho trẻ được trải nghiệm trên đồ dùng mà chủ yếu là làm quen qua hình ảnh, video…điều này hạn chế trẻ được thực hành, chỉ được nhìn chứ không được sờ, được thử nên lâu dần trẻ không còn hứng thú. Đối với gia đình hầu hết đều vì nghĩ các cháu còn nhỏ để tự mình làm những công việc tự phục vụ nên thường làm giúp con, nuông chiều hoặc không tin vào khả năng của trẻ, thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, “sốt ruột” và thường làm thay trẻ cho nhanh, từ đó tạo cho trẻ tâm lý sợ sai, mất tự tin ở bản thân. Với các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ này trẻ không chỉ được quan sát mà còn được trực tiếp sử dụng, trải nghiệm trên đồ dùng. Từ thực tế đó với mong muốn là làm thế nào để các cháu ở lớp tôi có nhiều kỹ năng tự phục vụ bản thân, trẻ biết làm một số công việc đơn giản thông qua chơi tập trên đồ dùng đồ chơi nên tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra đề tài: Biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ tại lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi A trường Mầm non 8/3, Nha Trang. 2. Mục đích nghiên cứu Trẻ được trải nghiệm với các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ để rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay, cơ tay. Đây là yếu tố quan trọng giúp trẻ thực hiện một số công việc tự phục vụ được tốt hơn. Trẻ thực hiện được một số công việc tự phục vụ đơn giản như: buộc dây giày, cài và cởi cúc áo, xâu, buộc dây, kéo khóa, tập mặc quần, phơi quần áo.. . Trẻ chủ động thực hiện một số công việc tự phục vụ, không còn ỷ lại người thân và cô giáo, biết giúp cô và các bạn một số công việc đơn giản. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo bé 3 - 4 tuổi Đối tượng nghiên cứu: Các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ nhằm rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề; 3 Khảo sát đánh giá thực trạng của vấn đề; Đề xuất những biện pháp (giải pháp) ứng dụng cải tạo hiện thực liên quan; 6. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi nghiên cứu: Nội dung: Thiết kế các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ nhằm rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ Thời gian: Từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2017 Không gian: Lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi A - Trường Mầm non 8/3- Nha Trang Đối tượng khảo sát : trẻ 3 - 4 tuổi A 7. Phương pháp nghiên cứu Quan sát và thực hành: Cho trẻ trực tiếp quan sát cách thực hiện và thực hành trên bộ đồ dùng vừa quan sát. Mục đích sử dụng phương pháp để làm gì? Giúp trẻ hứng thú với hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ và thực hiện các công việc tự phục vụ hàng ngày một cách khéo léo. Cách thức triển khai phương pháp đó như thế nào? Lựa chọn một số bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ nhằm rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, lồng ghép các hoạt động và trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, phụ huynh ít có thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái mà chủ yếu là làm giúp trẻ cho nhanh, chính vì vậy trẻ thường hay ỷ lại và không thể tự lo cho bản thân. Khi gặp khó khăn là chúng sẽ tìm ngay đến người lớn mà không tự mình tìm cách giải quyết, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức và tính cách sau này của trẻ. Vì vậy điều cần thiết là phải trang bị cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản, trong đó đáng phải quan tâm chính là kỹ năng tự phục vụ. 4 Vậy kỹ năng tự phục vụ là gì? Một đứa trẻ như thế nào được cho là có kỹ năng tự phục vụ? Theo từ điển tiếng Việt thì tự phục vụ là tự mình làm lấy những việc nhằm đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của bản thân, không cần người khác giúp đỡ, can thiệp hoặc nhắc nhở. Kỹ năng này có được nhờ vào sự rèn luyện và học hỏi, trẻ biết phục vụ bản thân thì trẻ sẽ có khả năng tự lập, mạnh dạn, tin vào khả năng của bản thân, thiếu kỹ năng tự phục vụ trẻ sẽ lười biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì thế, muốn trẻ nên người, chúng ta cần rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ngay từ những bậc học nhỏ nhất. Nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống và hình thành kỹ năng sống tích cực, giúp trẻ cân bằng cuộc sống về các mặt: thể trạng, tâm hồn, trí tuệ. 2. Thực trạng vấn đề 2.1 Thuận lợi - Nhà trường quan tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên. - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất cho giáo viên trong các hoạt động dạy. Khuyến khích các cán bộ giáo viên nhân viên sáng tạo trong việc lựa chon phương pháp mới vào giảng day. - Theo dõi động viên góp ý, triển khai thí điểm rút kinh nghiệm trong tổ chuyên môn và trong nhà trường thường xuyên để giáo viên nắm bắt kịp thời. - Bản thân được Phòng giáo dục đào tạo Nha Trang cử tham gia lớp tập huấn về dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non do trường Đại học Huế kết hợp với Sở giáo dục đào tạo Khánh Hòa tổ chức trong dịp đầu năm học nên việc áp dụng cũng dễ dàng hơn. 2.2 Khó khăn - Về phía trẻ Nhiều trẻ không tin tưởng vào khả năng của bản thân, luôn sợ sai, sợ mình không làm được, tâm lý e dè, nhút nhát, khi được giao một nhiệm vụ nào đó thì 5 trẻ thường tìm ngay đến cô giáo hoặc các bạn để được giúp đỡ, trẻ tỏ ra rất lo lắng vì sợ làm không được hoặc làm không kịp các bạn. Một số trẻ được nuông chiều quá mức ở nhà nên lên lớp trẻ còn có tính thụ động, phụ thuộc vào cô giáo và các bạn. Trẻ chưa hào hứng tham gia vào hoạt động tự phục vụ vì hầu hết trẻ chưa có kỹ năng, - Về phía gia đình Các em được nuông chiều quá mức, do kinh tế gia đình khá giả; một số em thiếu sự quan tâm sâu sát của gia đình do bố mẹ lo làm ăn buôn bán; các em thiếu hụt về mặt tình cảm gia đình. Trẻ chưa được trang bị những kỹ năng cần thiết để ứng phó với những tình huống thường ngày. - Về phía giáo viên Bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, khi tổ chức hoạt động Cài cúc, cởi cúc, xâu, buộc giây, mặc áo quần, kéo khóa quần thì giáo viên lúng túng do phương tiện tổ chức không có sẵn, thường thu mượn áo quần trang phục của trẻ để tổ chức và khi thực hiện thì trẻ thao tác khó khăn. Khi phối hợp nghiên cứu khảo sát thực tế 32 trẻ lớp mẫu giáo bé mới từ nhà trẻ lên, tôi khảo sát đầu vào về thực trạng thực hiện kỹ năng tự phục vụ và có kết quả như sau: + BẢNG 1 BẢNG KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ĐẦU NĂM CỦA TRẺ THÁNG 10/2016 (chưa áp dụng) - Số trẻ khảo sát: 32 trẻ STT TIÊU CHÍ THÁNG 10/2016 Đạt Số lượng 01 Trẻ tập mang và cất giày 13/32 Chưa đạt Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 40,6% 19/32 59,4% dép, ba lô 6 02 Trẻ tập bê ghế, sử dụng 07/32 21,8% 25/32 78,2% 50% 16/32 50, % 46,8% 17/32 53,2% 12,5% 28/32 87,5% 25% 24/32 75% muỗng, tự rót nước. 03 Trẻ biết kéo khóa áo khoác, 16/32 gài nút áo, gài khuy quần. 04 Trẻ tập quàng khăn, mang 15/32 tất 05 Trẻ tập xếp quần áo, mặc 04/32 quần áo 06 Trẻ tập đội mũ bảo hiểm 08/32 Nhận xét: Thời gian đầu, khi mới nhận lớp, tôi nhận thấy khả năng tự phục vụ của trẻ đa số còn hạn chế (bảng 1). Có nhiều cháu chưa biết một số thói quen tự phục vụ đơn giản như: một số trẻ có nhu cầu đi vệ sinh nhưng lại không biết tự cởi quần nên bị tè dầm ra quần 59,4%, có 59,4% trẻ trong lớp không biết tự mang giày dép khi ra sân chơi, trong đó nhiều trẻ còn mang giày dép trái …bên cạnh đó còn có nhiều cháu chưa hiểu các hiệu lệnh của cô “các con hãy xếp quần áo bỏ vào cặp” chính vì chưa hiểu nên trẻ không biết làm. Tuy nhiên có một số trẻ kỹ năng tự phục vụ tương đối tốt nhưng lại không tự giác 87,5%, phải chờ cô giáo hoặc người lớn nhắc nhở thì trẻ mới làm.. Qua bản khảo sát thực trạng khả năng tự phục vụ tổng hợp có một nội dung kết quả đạt được trên 50%. Những nội dung còn lại đa số đều chưa đạt 50%. Thậm chí có một số nội dung như: trẻ tập rót nước, xếp quần áo số trẻ đạt chưa đến 30%. Điều đó cho thấy khả năng tự phục vụ của trẻ lớp bé mới lên còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn về khả năng kết hợp giữa tay và mắt, khả năng kết hợp của ngón trỏ và ngón cái khó khăn khi thao tác cởi cúc, buộc dây. Bên cạnh đó phương tiện thực hành chưa đồng đều, kích thước chưa thống nhất nên việc thực hiện cũng tương đối khó khăn. Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên, qua thời gian công tác ứng dụng đề tài vào việc giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhằm khắc phục những hạn chế như sau: III. Các biện pháp thực hiện 7 Biện pháp 1. Lập kế hoạch xây dựng các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ nhằm rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ theo từng thời điểm của năm học theo trình tự từ dễ đến khó. STT Thời gian Nội dung bài tập Mục đích- yêu cầu 01 Tháng 10/2016 Trẻ tập mang và cất Dạy trẻ biết cách cởi, cất ba lô giày dép, cất ba lô đúng cách và cất ba lô đúng nơi đúng nơi quy định. qui định. Trẻ biết cách lấy nước đúng 02 cách, không làm đổ nước ra Tháng 11/2016 - Trẻ tập bê ghế, sử ngoài. dụng muỗng, tự rót Biết lấy lượng nước vừa đủ để nước. uống. Rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay. Trẻ biết cách kéo khóa áo 03 - Trẻ tập kéo khóa áo Tháng 12/2016 khoác, gài khuy quần gài nút áo khoác, gài khuy quần, gài nút áo đúng cách. Rèn luyện sự khéo léo, phối hợp tay, mắt, trẻ có ý thức tự phục vụ bản thân. Trẻ biết quàng khăn theo nhiều 04 Tháng 01/2017 Trẻ tập quàng khăn, mang tất cách khác nhau, biết cách mang tất. Trẻ biết tự phục vụ bản thân, tự quàng khăn, mang tất…… Trẻ biết gấp quần áo đúng theo 05 Tháng 02/2017 Trẻ tập xếp quần áo, trình tự. mặc quần áo Rèn luyện sự khéo léo của đôi tay. 8 Rèn trẻ tính tự lập và gọn gàng ngăn nắp. Trẻ biết cách đội và gài mũ 06 Tháng 3/2017 - Trẻ tập đội mũ bảo đúng cách. hiểm Trẻ biết ý nghĩa của việc đội mũ bảo hiểm. Biện pháp 2: Thực hiện kế hoạch 2.1. Rèn cho trẻ kỹ năng tự phục vụ thông qua các bài tập phát triển nhóm cơ nhỏ. Nhiều nhà giáo dục học nổi tiếng đã chứng minh thực tế là 60% chất lượng giờ dạy tốt là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị soạn giáo án, kế hoạch hoạt động còn lại 40% là tùy thuộc vào năng lực sư phạm và kinh nghiệm của người giáo viên. Vì vậy là giáo viên muốn giảng dạy tốt và chất lượng thì phải nghiêm túc trong việc biên soạn giáo án. Theo tôi, đây là một kỹ năng quan trọng giúp cho giáo viên chủ động hơn trong việc giáo dục trẻ và lựa chọn được phương pháp dạy học phù hợp với nội dung và khả năng của trẻ, phát huy được tính chủ động sáng tạo, của người học, nhận thức được điều này nên bản thân tôi luôn chú trọng vào việc xây dựng kế hoạch cho từng hoạt động nhằm đảm bảo mục tiêu đã đề ra. Là một giáo viên mầm non, thì luôn luôn phải sáng tạo, linh hoạt trong mọi hoạt động. Luôn tìm những cái hay, cái mới lạ để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động mà mình tổ chức. Đối với việc rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cũng vậy, bản thân tôi cũng phải tìm tòi rất nhiều để làm sao trẻ thích thú, bên cạnh việc lựa chọn các nội dung hướng dẫn, các phương pháp để giúp trẻ nắm vững các kỹ năng tôi còn lựa chọn và sáng tạo nhiều trò chơi để trẻ được trải nghiệm và tập luyện. Sau khi sưu tầm, lựa chọn và vận dụng các trò chơi phát triển vận động nhóm cơ nhỏ cho trẻ vào các thời điểm trong ngày, bản thân tôi nhận thấy trẻ đều rất hứng thú, đắm mình vào các trò chơi một cách thoải mái, vui vẻ, đôi khi trẻ quên đi là mình đang học, đang rèn luyện. Không những thế 9 những trẻ thường không tự giác trong một số công việc tự phục vụ thì nay đã ý thức hơn vì sợ không biết làm sẽ không được tham gia vào trò chơi, sợ thua đội bạn, thua các bạn chính vì vậy các trò chơi thu hút số lượng trẻ tham gia ngày càng nhiều hơn. Thời gian qua tôi đã sáng tạo nên các trò chơi như “Thi buộc dây giày”, “Thi gấp quần áo”, “Thi múc nước đổ vào chai”, “Thi gấp khăn” “Thi ai nhanh hơn ?” những trò chơi này giúp rèn luyện sự khéo léo nhưng cũng đòi hỏi trẻ phải nhớ được từng bước và thực hiện một cách thuần thục. Không chỉ thi đua trong lớp mà còn rủ các lớp khác thi đua với lớp mình để nhân rộng việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Các trò chơi này được lồng ghép phù hợp với từng nội dung hoạt động trong ngày của trẻ. Các kế hoạch được soạn theo trình tự của kế hoạch đã lập ở trên 1. Trẻ tập mang và cất giày dép, cất ba lô 2. Trẻ tập bê ghế, sử dụng muỗng, tự rót nước. 3. Trẻ tập kéo khóa áo khoác, gài nút áo, gài khuy quần. 4. Trẻ tập quàng khăn, mang tất 5. Trẻ tập xếp quần áo, mặc quần áo 6. Trẻ tập đội mũ bảo hiểm Kế hoạch 01: Trẻ tập mang và cất giày, dép, ba lô (hoạt động này được thực hiện trong giờ đón trả trẻ, hoạt động góc vào tháng 10/2016) Vì vào đầu năm học trẻ chưa có nề nếp, trẻ thường được bố mẹ bế lên cầu thang và cởi bỏ ba lô, giày dép, nhiều trẻ chưa nhớ vị trí ngăn tủ cá nhân của mình do bố mẹ trẻ làm dùm, buổi sáng trẻ đến lớp liên tục trong khoảng thời gian từ 7h00 đến 7h15, nhiều phụ huynh vì bận đi làm liền cho kịp giờ nên không kịp hỗ trợ thì trẻ sẽ loay hoay mãi để cất ba lô, cởi bỏ giày dép khiến cho khu vực phía trước cửa lớp luôn lộn xộn, vì vậy tôi đã chú trọng lựa chọn hoạt động này để cho trẻ tập luyện ngay từ đầu năm. Để phụ huynh yên tâm vì con em mình có thể tự làm những công việc đơn giản khi không có bố mẹ bên cạnh. 1. Đón trẻ: - Mục đích – Yêu cầu. 10 + Trẻ biết cách cởi và cất giày, dép, ba lô lên kệ, lên tủ, nhớ ngăn tủ của mình và để đúng nơi quy định. + Trẻ tự cất ba lô, cởi và cất giày dép vào đúng ngăn tủ cá nhân của mình. + Trẻ lễ phép với cô giáo, trẻ biết chào cô, chào ông bà, bố mẹ trước khi vào lớp. - Chuẩn bị: + Phòng học sạch sẽ, thông thoáng, kệ dép, tủ để ngay ngắn trước cửa lớp. - Tiến hành + Cô đứng ở cửa đón trẻ với thái độ niềm nở, thể hiện sự quan tâm đến trẻ, trao đổi nhanh với phụ huynh về tình hình của trẻ. + Cho trẻ chào bố mẹ, nhắc trẻ tự cởi giày dép, cất giày dép lên kệ, để ba lô vào trong ngăn tủ cá nhân của mình. Những trẻ chưa nhớ chỗ cất ba lô cô đến động viên trẻ tìm lại và cất vào cho đúng, khen ngợi khi trẻ biết tự cởi giày dép và để ba lô đúng nơi quy định. + Cuối buổi đón trẻ cô tặng cho những trẻ biết tự cởi giày dép, để ba lô đúng vào ngăn tủ một gương mặt cười dán lên bàn tay. Những trẻ còn vụng về cô giáo sẽ hướng dẫn thêm trong giờ hoạt động góc hoặc các hoạt động khác. 2. Kế hoạch tổ chức hoạt động góc I. Mục đích: 1. Kiến thức - Biết mang và xếp giày dép lên kệ gọn gàng, ngăn nắp - Trẻ trải nghiệm các vai trò khác nhau: bán hàng, gia đình… Để hiểu được một số nghề trong xã hội và mối quan hệ giữa mọi người với nhau. - Trẻ biết trang trí giày, dép bằng xốp bitis, giấy màu, hột, hạt, tô màu những đôi giày 2. Kỹ năng - Trẻ biết thể hiện một số hành động phù hợp với vai chơi của mình. - Trẻ trang trí được những đôi giày dép bằng cách phết hồ, xé, dán, tô, nặn, 11 - Trẻ lựa chọn được đôi giày, dép phù hợp và mang vào chân của mình - Trẻ biết sắp xếp, trưng bày phù hợp với buổi sinh nhật: cắm hoa, bày bánh, sắp xếp nhà cửa, bày trí các món ăn… 3. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ - Trẻ có ý thức tự phục vụ bản thân: biết tự mang giày dép, cất dép lên kệ, tự chuẩn bị trang phục, đầu tóc, giày dép, trang điểm … để dự tiệc sinh nhật. - Kỹ năng thiết lập mối quan hệ với người khác: biết mang sản phẩm của mình tặng bạn sinh nhật kèm lời chúc mừng: tặng cho bạn những đôi giày, dép mà mình đã trang trí … - Làm những công việc vừa sức để chuẩn bị cho bữa tiệc sinh nhật của bạn II. Chuẩn bị: - Trang trí các góc phù hợp với chủ điểm, phù hợp với góc chơi, - Bảng đăng kí góc chơi. - Dán tên bạn sinh nhật. - Máy vi tính cài nhạc bài “Chúc mừng sinh nhật” - Một số kiểu dáng giày dép được làm bằng vải, xống bitis, vải nỉ và giày dép thật. - Lược, gương, dây cột tóc, phấn son, nước hoa, vương miện, chỗ thay đồ…. - Kệ để giày dép, hộp gói quà.. - Khung thêu, vải, kim, chỉ thêu, kéo.. - Nan giấy màu - Bánh , bình hoa, đĩa, ly, bàn ghế, khăn lau tay, lồng đèn, dây kim tuyến, mẹt hoa, hoa thật, bình cắm hoa, … - 1 chai sirô dâu, 1 chai sirô cam, 1 chai si rô bạc hà. - Phễu, vỏ chai nhựa - Nước sôi để nguội. ca, thìa - Tạp giề, nhãn mác. - Bột bánh in đã được trộn sẵn, khuôn bánh, đĩa, thìa… 12 Môi trường: - Sạch sẽ, thoáng mát, các góc được sắp xếp gọn gàng, trẻ dễ lấy III. Tiến hành: 1. Dự kiến thời điểm và hình thức chọn góc: - Trong thời gian đón trẻ cô nhắc từng trẻ chọn góc và cắm thẻ của mình vào góc mà mình đã chọn 2. Định hướng cho trẻ vào góc: - Cô nói: Cô và trẻ hát bài “Mừng sinh nhật”. hôm nay là sinh nhật bạn Trang, gia đình bạn Trang muốn tổ chức buổi liên hoan sinh nhật. Chúng ta hãy cùng xây một ngôi nhà và trang trí thật đẹp để mừng sinh nhật bạn. Bạn nào muốn trang trí nhà nào? - Bố mẹ và các các con sẽ cùng nhau làm nhiều món ăn ngon để mừng sinh nhật bé, ai muốn đóng vai bố, mẹ và các con? - Các bạn sẽ làm gì để tặng bé vào ngày sinh nhật? (hỏi trẻ ở góc tạo hình và góc âm nhạc) - Các bạn góc bán hàng sẽ bán những mặt hàng nào? khi khách hàng tới mua giày dép thì nhân viên bán hàng sẽ làm gì? - Hỏi ý định trẻ sẽ làm gì tặng bạn nhân dịp sinh nhật. - Hỏi trẻ: Khi chơi trong nhóm các con phải thế nào? - Cho trẻ về góc chơi mà trẻ đã chọn và tự dọn đồ chơi. 3. Trẻ thực hiện: - Trẻ tự lấy đồ dùng, đồ chơi đi về 3 góc chơi : 3.1. Góc phân vai: + Tiệm bán giày dép, quà lưu niệm cho bạn đi dự sinh nhật: nhân viên bán hàng tập xếp giày dép lên kệ ngay ngắn, mọi người tới thử giày dép và mua quà sinh nhật… + Gia đình: Bố mẹ dẫn con đi mua giày, dép mới để đi dự sinh nhật bạn, xếp giày dép lên kệ cho ngay ngắn, gói quà để tặng sinh nhật, pha nước giải khát, làm bánh, xếp trái cây…. 3.2. Góc sinh nhật: 13 Trang trí cho buổi tiệc sinh nhật 3.3. Góc tạo hình: + In hình bạn sinh nhật, trang trí hình bằng nhiều nguyên vật mở + Trang trí những đôi giày, dép để tặng sinh nhật bạn… + Thêu khăn - Hỏi trẻ ý đồ chơi, gợi ý cho trẻ tự phân vai, phân nhóm chơi. - Cô gợi ý để cho trẻ nhập vai chơi của mình, thể hiện được lời nói, ứng xử phù hợp với vai mình đảm nhận. - Trong quá trình chơi cô gợi ý mở rộng nội dung chơi cho trẻ, mở rộng mối quan hệ chơi cho trẻ giữa các nhóm chơi khác nhau - Cô quan sát giúp đỡ trẻ khi cần thiết, tham gia cùng chơi với trẻ, quan sát xem góc chơi nào chưa thực hiện được thì hướng dẫn cho trẻ, ví dụ: góc phân vai trẻ chưa biết mang giày dép thì giáo viên đến và hướng dẫn lại cho trẻ, nhắc trẻ sau khi mang giày dép thì cất gọn lên kệ. - Gợi ý cho trẻ nói lời chúc mừng sinh nhật bạn. (Ở góc làm bánh in và pha chế nước giải khát cô nhắc trẻ rửa tay sạch trước khi làm) - Sau khi trẻ thực hiện xong cô gợi ý cho các nhóm mang quà đến chúc mừng sinh nhật bạn, tại góc sinh nhật. - Gợi ý cho trẻ giới thiệu buổi sinh nhật của mình, giới thiệu tên, tuổi, sở thích, - Cho trẻ tặng quà bạn và kèm theo lời chúc. - Bạn Khánh Linh sẽ múa hoặc hát tặng các bạn 1 bài. - Tập thể hát bài “Chúc mừng sinh nhật” - Liên hoan- Dọn dẹp, vệ sinh gọn gàng, xếp giày dép lên kệ ngay ngắn. - Bạn Khánh Linh gửi tặng cho mỗi người khách đến dự một đôi giày, mọi người cùng mang vào chân để chụp hình lưu niệm, mọi người mang giày xong thì cất lên kệ để cùng vào liên hoan. Kế hoạch 02: Bé tập xếp ghế, sử dụng chén, muỗng, tự rót nước (thực hiện vào tháng 11/20016) 14 Mỗi hoạt động để rèn luyện cho trẻ đều nhằm mục đích giúp trẻ có kỹ năng tự phục vụ bản thân và có nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày, vì vậy tôi luôn lồng ghép vào trong chế độ sinh hoạt một ngày ở trường của trẻ, với nội dung này tôi áp dụng trong hoạt động tổ chức bữa ăn cho trẻ hoặc cho trẻ tập luyện trong hoạt động góc và bé tập làm nội trợ. 1.Trẻ tập xếp ghế. (trẻ thực hiện trước hoạt động tổ chức bữa ăn hoặc giờ hoạt động góc) - Mục đích- yêu cầu: + Trẻ nói được cách xếp ghế để chuẩn bị bàn ăn, bàn học, ý nghĩa của việc xếp ghế ngay ngắn gọn gàng trước giờ ăn, giờ học. + Trẻ bê ghế và đặt vào đúng vị trí, xếp số lượng ghế phù hợp, biết xếp chồng ghế lên nhau khi không sử dụng. + Trẻ có ý thức tự bê và xếp ghế cho bản thân để chuẩn bị bàn ăn, bàn học. - Chuẩn bị: + Mỗi trẻ 01 chiếc ghế, 6 chiếc bàn được kê sẵn. + Video bàn ăn nhà Gấu Mi sa + Địa điểm: phòng ăn thoáng mát, sạch sẽ. - Tiến hành: Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ Thu hút: Cô và trẻ cùng xem video về bàn ăn của - Trẻ xem video và nghe cô bạn Gấu Mi Sa, cô vừa cho trẻ xem hình ảnh vừa kể chuyện. kể cho trẻ nghe: Chuyện kể rằng: có một bạn gấu tên là Mi sa, Bạn - Trẻ lắng nghe cô kể Gấu rất thích ăn uống nhưng lại lười biếng, không chịu xếp bàn ghế vào mỗi bữa ăn, lúc nào cậu ta cũng đợi mọi người xếp sẵn rồi ngồi vào bàn. Một hôm mọi người trong nhà đi vắng, cậu ấy đã bày biện đồ ăn ra nhà mà không thèm kê bàn ghế cho 15 gọn gàng, sạch sẽ, lúc ăn cậu nhảy lên bàn và ngồi ăn say sưa, lúc ăn do không để ý nên gấu bị té xuống nền nhà...... - Cô trò chuyện với trẻ: + Vì sao bạn Gấu Mi Sa bị té ? Trẻ trả lời theo suy nghĩ + Để không bị té ngã nữa thì bạn gấu nên làm gì trước khi ăn ? Hoạt động 2: Trẻ tập xếp bàn ghế - Cô cho trẻ ra phòng ăn và tập xếp bàn ghế. - Trẻ đi ra phòng ăn và tập - Cô làm mẫu cách bê và xếp ghế vào bàn ăn, cô xếp ghế vừa thực hiện vừa giải thích cho trẻ cách thực hiện. - Quan sát cô làm mẫu. Bước 1: Đi lại chồng ghế lấy 01 chiếc ghế ở trên cùng, cầm ghế bằng 02 tay và nhấc ghế lên phía trên. Bước 2: Bê ghế di chuyển tới bàn, lựa chọn vị trí và đặt ghế vào chỗ trống, lưng ghế thẳng so với mặt bàn. Bước 3: Sắp xếp mỗi bên 02 chiếc ghế có khoảng cách bằng nhau và cân đối. - Mời một vài trẻ thực hiện và cho trẻ nhận xét, cô - Trẻ thực hiện sửa sai cho trẻ. - Cho trẻ về thực hiện xếp ghế vào bàn ăn theo - Trẻ xếp ghế theo nhóm nhóm, cô theo dõi và hướng dẫn sửa sai cho trẻ. - Cho cả lớp cùng nhận xét về kết quả của từng nhóm. - Cô tuyên dương trẻ Hoạt động 2: Thi xếp bàn ghế Cách chơi: Chia lớp thành 06 nhóm, mỗi nhóm có - Trẻ chia thành sáu nhóm một chiếc bàn đã kê sẵn, và từ năm, sáu chiếc ghế và cùng xếp bàn ghế theo 16 để bên ngoài. Khi nghe hiệu lệnh của cô: “Xếp hình thức thi đua. ghế, xếp ghế”, trẻ hỏi lại: “Xếp bao nhiêu ghế?”, cô trả lời “Xếp bốn, năm, sáu chiếc ghế vào một bàn” các nhóm nghe theo yêu cầu của cô. Luật chơi: trong khoảng thời gian một bản nhạc nhóm nào xếp đúng số ghế như cô yêu cầu và đẹp mắt nhất thì nhóm đó chiến thắng. 2. Kế hoạch tổ chức bữa ăn (Bé tập sử dụng muỗng, chén và tự rót nước uống) I. MỤC TIÊU: - Trẻ biết tên món ăn, biết giá trị dinh dưỡng có trong món ăn. - Biết cách xúc cơm ăn, tự rót nước uống sau khi ăn xong, biết sử dụng chén và muỗng trong khi ăn. - Trẻ có kỹ năng tự phục vụ, không làm rơi vãi thức ăn, biết một số thói quen hành vi văn minh (mời cô và các bạn trước khi ăn, ăn nhai kĩ, không nói chuyện, đùa nghịch, khi hắt hơi biết che miệng …) - Vệ sinh sạch sẽ (lau tay, miệng, uống nước,....). cất bát thìa sau khi ăn đúng nơi nhẹ nhàng, cất ghế gọn gàng. Không chạy nhảy sau khi ăn. - Trẻ có ý thức tự phục vụ trong bữa ăn, biết ăn hết xuất ăn, ăn đủ chất. II. CHUẨN BỊ: 1. Chuẩn bị của cô: - Mặc quần áo công tác, khẩu trang. - Dụng cụ đựng, chia thức ăn. - Bài hát mời bạn ăn - Nhạc cho trẻ nghe trong khi ăn. 2. Chuẩn bị của trẻ: - Bàn, ghế (đủ 4- 6 trẻ một bàn) - Bát, thìa (đủ theo số lượng trẻ) - Đĩa đựng khăn lau ẩm, đĩa đựng thức ăn rơi. 17 - Khăn lau miệng, cốc uống nước. III. HƯỚNG DẪN Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ I. Gây hứng thú: Giúp trẻ tỉnh táo - Cho trẻ hát bài “Mời bạn ăn” - Trẻ hát cùng cô - Trò chuyện về bài hát - Trẻ trò chuyện cùng cô - Giáo dục trẻ phải ăn uống đầy đủ chất và giữ gìn vệ sinh cơ thể chăm tập thể dục thì cơ thể mới khỏe mạnh thông minh. * Chuẩn bị trước khi ăn. - Cô cho trẻ xếp hàng lần lượt đi rửa tay sạch sẽ - Trẻ kê ghế vào bàn ăn vẩ bàn ngồi. - Rửa tay sạch bằng xà - Hôm nay các cô nhà bếp cũng có chuẩn bị một phòng món ăn mới, rất ngon và có nhiều chất dinh dưỡng cho các con. * Trong khi ăn. - Chia cơm: - Trẻ chú ý nghe cô giới + Cô chia đồ ăn mặn đều ra tất cả chén. thiệu + Chia muôi cơm vào trong chén, trộn đều và bê đến bàn cho trẻ ăn kết hợp giới thiệu món ăn. - Cho trẻ ăn: + Cô đến từng bàn động viên trẻ ăn hết suất, nhắc trẻ cách cầm muỗng bằng tay phải, cầm chén - Trẻ nghe cô nói bằng tay trái, lấy một lượng thức ăn vừa đủ bằng muỗng và đưa vào miệng, ngồi ngay ngắn, nhai kỹ, không nói chuyện, không bốc thức ăn, không làm rơi vãi thức ăn, không bỏ thức ăn sang chén bạn, ăn gọn - Trẻ tự xúc cơm ăn gàng + Khi trẻ ăn hết chén thứ nhất cô mang chén về 18 lấy thêm cơm và canh trộn đều, để trên khay và mang đến tận bàn cho trẻ ăn. + Đối với những trẻ ăn chậm cô cho trẻ ngồi riêng một bàn để quan tâm và xúc cho trẻ ăn, động - Cất bát thìa đúng nơi viên trẻ ăn hết suất, trong quá trình trẻ ăn cô đi lại và quy định và uống nước quan sát nhắc nhở trẻ. Động viên trẻ tự xúc cơm ăn. • Sau khi ăn: - Trẻ cất đồ dùng - Cô nhắc trẻ mang chén, thìa bỏ vào đúng nơi quy định, nhắc trẻ lau miệng, lau tay và tự rót nước uống, rót lượng nước vừa đủ vào trong ly, vặn vòi nước lại, uống từ từ không để bị sặc. - Nhắc trẻ đánh răng sau khi ăn, không đùa nhiều hoặc chạy, nhảy mạnh sau khi ăn dễ bị nôn thức ăn. Kế hoạch 03: Trẻ tập mang tất, quàng khăn (thực hiện trong hoạt động vui chơi theo ý thích trong các buổi chiều vào tháng 12/2016 1. Trẻ tập mang tất I. Mục đích – yêu cầu - Trẻ biết tất dùng để đi vào chân để giữ ấm cho cơ thể. - Trẻ biết mang tất đúng cách, có thói quen tự mang tất khi trời lạnh. - Trẻ hứng thú tham gia hoạt động mang tất, có ý thức tự phục vụ. II. Chuẩn bị - Mỗi trẻ 1 đôi tất. - 1 hộp quà. - 4 rổ nhựa. III. Tiến hành Hoạt động của cô Hoạt động của trẻ 19 Ổn định tổ chức - Cô và trẻ cùng nhảy theo vũ điệu đôi chân: khi nhạc nhẹ nhàng thì bàn chân đi nhón nhẹ nhàng, - Trẻ cùng nhảy theo điệu nhạc. khi nhạc đều và mạnh thì trẻ đi theo điệu hành quân, khi nhạc vui tươi thì nhảy chân sáo, khi nhạc mạnh thì trẻ nhảy nhanh và mạnh. Hoạt động 1: Trẻ tập mang tất - Trẻ trả lời. - Cô đàm thoại cùng với trẻ: Mỗi buổi sáng, sau khi đánh răng, rửa mặt, thay đồ đẹp, mẹ mặc - Trẻ trả lời. thêm cho chúng ta những gì để giúp ta ấm áp hơn khi - Trẻ trả lời. đi đến trường? (cho trẻ kể: áo ấm, quàng khăn, đội mũ len, mang tất). - Hôm nay cô sẽ tập cho các con biết cách tự mang tất vào chân của mình. - Cô nhắc lại kỹ năng tự mang tất cho trẻ biết: “Các con cầm tất, cuộn tất vào 2 tay, sau đó trùm tất qua 5 đầu ngón chân, kéo tất qua bàn chân, kéo tất qua gót chân, kéo tất qua cổ chân, kéo tất tơi bắp Trẻ tập mang tất vào chân. chân - Sau đó cô tập cho trẻ mang tất vào chân cho đến khi tất cả trẻ đều đi được tất vào chân - Tạo tình huống: cho trẻ chơi trò chơi “Nu na nu nống” để trẻ tháo tất ra và tiếp tục hoạt động. Hoạt động 2: Đội nào nhanh - Cô chia lớp làm 2 đội để cùng thi đua mang Trẻ cùng chơi trò chơi tất. Mỗi đội tự đi tới lấy rổ đựng tất của đội mình, cả đội ngồi xung quanh rổ, khi nghe nhạc trỗi lên, cả 2 đội mang tất thật nhanh vào chân. Trẻ nào mang xong thì đúng lên, khi nhạc kết thúc, đội nào mang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan