Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn giáo dục công dân ở trường thcs...

Tài liệu Skkn đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn giáo dục công dân ở trường thcs

.PDF
24
165
86

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do – Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến huyện Nho Quan. Tôi: Ngày Họ tên tháng năm Trình Nơi công Chức độ tác danh chuyên sinh môn THCS Nguyễn Thị Bích Thảo 13.02.1984 Gia Tường Giáo Đại học viên sư phạm Tỉ lệ % đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến 100 Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn giáo dục công dân ở trường THCS”. I. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN: Nguyễn Thị Bích Thảo II. THỜI GIAN ÁP DỤNG: Từ năm học 2016 – 2017; 2017 - 2018 III. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Phương pháp dạy học IV. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 1. Nội dung sáng kiến Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học nói chung, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết. Bởi, môn Giáo dục công dân là một môn học đặc biệt, là một bộ phận của quá trình giáo dục các giá trị nhân cách (đạo đức, pháp luật, lối sống…) vì mục tiêu của môn học chính là thực hiện mục tiêu của quá trình giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh. Đó là vị trí đặc biệt của môn Giáo dục công dân so với các môn học khác ở trường THCS. Đặc biệt hiện nay, học sinh chưa thực sự quan tâm và coi trọng môn học này, vẫn coi đây là môn học phụ. Mặt khác, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường, vấn đề đạo đức, lối sống trong học sinh, tình trạng bạo lực hoc đường và tỷ lệ tội phạm ở lứa tuổi 1 vị thành niên có xu hướng gia tăng. Do đó, việc đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân là một trong những nội dung nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng học bộ môn cho học sinh. Đồng thời, giúp giáo viên có nhận thức và hướng đi tích cực khi tổ chức hoạt động học nhằm đa dạng hóa các hình thức dạy học. Qua đó, rèn luyện tính tích cực, chủ động và phát huy khả năng sáng tạo trong học tập của các em. Đó là lí do tôi thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS”. Với mục đích từng bước đáp ứng yêu cầu của chương trình đổi mới giáo dục lấy hoạt động học làm trung tâm, nhằm tiếp cận dần với mô hình trường học mới và thực hiện có hiệu quả chủ trương của Bộ GD&ĐT về đổi mới phương pháp và hình thức dạy học trong các nhà trường. 1.1. Giải pháp cũ thường làm 1.1.1. Nội dung giải pháp Trong những năm gần đây, mặc dù đã tích cực tiến hành đổi mới phương pháp dạy học tuy nhiên để học sinh hứng thú, yêu thích và say mê học môn Giáo dục công dân thì còn là một vấn đề mà nhiều giáo viên các trường THCS vẫn còn đang lúng túng trong việc tìm ra các giải pháp sao cho phù hợp. Hình thức dạy học Giáo dục công dân hiện nay chủ yếu vẫn kế thừa theo hình thức dạy học truyền thống. Xét về bản chất, đây là phương pháp dạy học ở trên lớp, là những cách thức dạy học quen thuộc được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Thực hiện lối dạy này, giáo viên từ chỗ là người thuyết trình, diễn giảng “thầy giảng – trò nghe”, thì thầy đặt câu hỏi để thu hút nhiều học sinh trả lời sau đó thầy phân tích, giải thích lại để học sinh nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo với mục tiêu chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung tâm. Tuy nhiên học sinh phải ghi chép nhiều, các em chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận để phát huy tính tích cực trong học tập. 1.1.2. Ưu điểm của giải pháp cũ Về không gian và thời gian: Không gian giới hạn trong một phòng học chỉ với không quá 45 học sinh theo sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT cho nên giáo viên dễ quan sát, dễ điều hành. Giúp giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức lớn trong một khoảng 2 thời gian ngắn; Giáo viên hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh tiếp thu được nhiều kiến thức khi họ nhận được càng nhiều thông tin từ giáo viên. Giáo viên là người hoàn toàn chủ động về thời gian và nội dung giảng dạy; Giảm bớt những khó khăn, thời gian cho giáo viên trong việc chuẩn bị, chỉ cần chuẩn bị bài giảng thuyết trình một lần người giáo viên có thể sử dụng để giảng dạy trong nhiều lần. Còn các nhà trường cũng chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học. Phương tiện, thiết bị và đồ dùng dạy học: Giáo viên đã tăng cường sử dụng tranh ảnh, lược đồ, phương tiện nghe nhìn như máy chiếu, Tivi, đài … và kênh hình vào trong giảng dạy. Hiện nay công nghệ thông tin phát triển giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với tranh ảnh, tư liệu, tài liệu từ mạng Internet… để làm phong phú hơn cho bài giảng của mình. Đối tượng: Số lượng học sinh không quá 45 em trong một lớp, chính vì vậy giáo viên có thể quản lí một cách dễ dàng không vất vả, đồng thời hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh tiếp thu được nhiều kiến thức khi các em nhận được càng nhiều thông tin từ giáo viên. Mặc dù hiện nay việc sử dụng phương tiện, thiết bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong các nhà trường được đẩy mạnh song con đường của nó đến với học sinh chủ yếu là phương pháp truyền thống, do vậy kết quả đạt được chưa cao. 1.1.3. Hạn chế của giải pháp cũ Không gian và thời gian có giới hạn thời gian chỉ có 45 phút cho một tiết học và không gian bó hẹp, khép kín trong một phòng học cho nên học sinh không có cơ hội và thời gian để quan sát, tìm hiểu, thu thập những tư liệu, tài liệu từ thực tế để làm phong phú thêm cho bài học. Đối tượng học là học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 em theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Với số học sinh tham gia có giới hạn do đó các em ít được trao đổi, thảo luận, tương tác, khả năng hòa nhập cộng đồng chưa có. Về phía giáo viên khi muốn truyền tải một nội dung kiến thức hay một chủ đề nào đó cho học sinh trong cùng một khối lớp hoặc ở các khối lớp khác 3 nhau lại phải thực hiện nhiều lần, khiến cho giáo viên vất vả, hoạt động thì lặp đi lặp lại nhưng hiệu quả thu được không cao. Tư liệu và thiết bị dạy học ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên tranh ảnh, lược đồ, máy chiếu, loa đài, băng đĩa … giáo viên và học sinh còn có thể thu thập tư liệu, tài liệu, tranh ảnh... trên mạng Internet nhưng việc sử dụng các nguồn tư liệu, thiết bị và phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chỉ nhằm mục đích minh họa làm phong phú, sinh động hơn cho nội dung bài giảng của thầy, học sinh phải học thuộc lòng các kiến thức trong sách giáo khoa, các em chưa được quan sát thực tế, chưa có cơ hội thảo luận, hợp tác, phát huy tính tích cực, không được hòa nhập vào cộng đồng, trải nghiệm thực tế, không chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức từ thực tế… Do không khơi dậy được tình yêu, niềm say mê với môn học cho học sinh vẫn coi đây là môn học phụ, chưa có hứng thú học tập. Việc lồng ghép, tích hợp kiến thức của nhiều môn học với nội dung phù hợp cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến các tiết học trở nên tẻ nhạt, học sinh thu động tiếp nhận kiến thức một chiều từ phía giáo viên. 1.2. Giải pháp mới cải tiến Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1993), Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII (1996) và được thể chế hóa trong luật giáo dục sửa đổi ban hành năm 2005 đã ghi “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển từ hình thức dạy học lấy giáo viên làm trung tâm và hình thức lấy học sinh là chủ thể hoạt động sang hình thức lấy hoạt động học làm trung tâm, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Do đó, tôi đã tiến hành một số hình thức tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là: 1.2.1. Sử dụng chuyện kể để dạy học: . Trong quá trình giảng dạy giáo viên có thể sử dụng các câu chuyện vào nhiều dạng khác nhau nhằm những mục đích khác nhau. Nhưng nhìn chung có ba dạng cơ bản thường được các giáo viên sử dụng một cách có hiệu quả. 4 * Sử dụng câu chuyện để dẫn dắt vào nội dung bài học. Hoạt động khởi động, giáo viên thường đưa ra những tình huống hay những câu chuyện kể để dẫn dắt học sinh vào bài học hoặc vào một phần nào đó của cấu trúc bài học. Sử dụng các câu chuyện giáo viên có thể dẫn dắt học sinh vào bài học một cách trực tiếp tạo sự chú ý và gây hứng thú cho học sinh. Có hai hình thức để dẫn học sinh vào bài học: - Sử dụng chuyện kể để vào bài mới. Đây là hình thức giáo viên dùng một câu chuyện có nội dung phù hợp với chủ đề bài học để đưa học sinh vào bài thay cho phần thuyết trình vào bài. Từ nội dung của câu chuyện giáo viên làm rõ chủ đề của bài học và bằng những câu hỏi có tính liên kết để dẫn học sinh vào bài mới, học sinh sẽ thấy cảm giác hứng thú đê bước vào bài. Chẳng hạn để dẫn học sinh vào bài 2 “ Siêng năng kiên trì” lớp 6. Giáo viên có thể bắt đầu giảng bằng câu chuyện về thầy giáo Nguyễn ngọc Ký, qua đó rút ra những kết luận về sự siêng năng, kiên trì vượt khó của thầy, là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Vậy để hiểu rõ hơn về đức tính siêng năng, kiên trì chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay. - Sử dụng chuyện kể để dẫn học sinh vào từng phần kiến thức của bài học. Cũng giống như sử dụng câu chuyện để vào bài mới, chỉ có điều khác ở đây giáo viên sử dụng câu chuyện để vào một phần nào đó, một đơn vị kiến thức nào đó của bài học. Ví dụ: Để dẫn học sinh vào phần kiến thức thứ hai của bài “ Năng động, sáng tạo” lớp 9. Giáo viên có thể bắt đầu bằng câu chuyện Sự thành công của giáo sư Ngô Bảo Châu. Để giúp cho học sinh thấy rõ năng động, sáng tạo giúp chúng ta thành công trong cuộc sống và làm nên những kỳ tích vẻ vang. * Sử dụng chuyện kể để làm rõ tri thức. Là hình thức giáo viên dùng câu chuyện để làm sáng tỏ tri thức của bài học, qua nội dung câu chuyện học sinh sẽ nắm được tri thức bài học hay nói cách khác là thay cho việc dùng lý luận để phân tích, lý giải tri thức bài học cho học sinh. Đây là hình thức củng cố một lượng kiến thức của một phần nội dung bài học. Ví dụ: Trong phần đơn vị kiến thức quyền và nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ trong bài “ Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình” 5 lớp 8, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện “ Chuyện của ba chị em mồ côi” (trích trong Quà tặng cuộc sống - NXB Tuổi trẻ). Qua câu chuyện giúp cho học sinh cảm nhận được rằng cuộc sống sẽ thật đẹp đẽ và có ý nghĩa khi chúng ta biết sẻ chia, yêu thương, giúp đỡ nhau của anh chị em trong gia đình; đồng thời còn thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau nếu không còn cha me. * Sử dụng chuyện kể để củng cố bài học. Đây là hình thức sử dụng các câu chuyện sau khi kết thúc bài học. Giáo viên kể cho học sinh nghe một câu chuyện có nội dung phù hợp với bài học, trong đó nhấn mạnh đến những chi tiết thể hiện tri thức của bài học để củng cố tri thức đã truyền thụ cho học sinh. Ví dụ: Sau khi kết thúc bài 21 “ Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, giáo viên có thể sử dụng truyện kể về nhân vật bà luật sư Đức khi nói về các quy định của pháp luật. Qua đó, học sinh phải tự nhận thức được bản thân phải biết nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Hiến pháp và pháp luật đồng thời còn phải biết tuyên truyền cho mọi người thực hiện tốt. 1.2.2. Tổ chức trò chơi trong dạy học: Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hiện những hành động, những thái độ, những việc làm phù hợp với các chuẩn mực, hành vi đạo đức đã học thông qua một trò chơi nào đó. Và đây cũng là một phương pháp rất quen thuộc trong các tiết ngoài giờ lên lớp. Với phương pháp này, học sinh ở các lứa tuổi rất thích. Nó tạo cho lớp học một không khí sôi động "học mà chơi, chơi mà học". Những trò chơi mà giáo viên THCS thường dùng như : ai nhanh hơn, tiếp sức, cánh cửa tri thức, ô chữ bí mật, ai thế nhỉ, rung chuông vàng, mặt cười- mặt khóc, tập làm phóng viên ... Nội dung trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động các chuẩn mực đạo đức pháp luật, nhờ vậy các mẫu hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở học sinh, tăng cường sự chú ý giúp các em ghi nhớ dễ dàng và bền lâu. Qua trò chơi học sinh được rèn luyện những kỹ năng, những thao tác hành vi đạo đức giúp các em thể hiện được hành vi một cách đúng đắn, tự nhiên, làm tăng khả năng giao tiếp cho bản thân. Bên cạnh đó, học sinh sẽ vận dụng kiến thức đã học vào việc lựa chọn cho mình cách giải quyết, ứng xử tình huống đúng đắn, phù hợp. Giúp học sinh rèn luyện được kỹ năng sống cho bản thân & hình thành năng lực quan sát, được rèn luỵện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của người 6 khác là phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Bằng trò chơi, việc luyện tập hành vi đạo đức được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên làm nâng cao hứng thú học tập, giúp các em giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Như vậy, rõ ràng khi sử dụng phương pháp trò chơi cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác đã phát huy một cách tốt nhất tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng năng lực tự học, tự khám phá, tự tìm hiểu, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ở học sinh. Không chỉ thế, nó còn tác động trực tiếp đến tình cảm, thái độ đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập cho các em, làm cho các em cảm thấy thích thú học tập, yêu môn học, yêu trường lớp hơn. Với tác dụng và hiệu quả mà phương pháp trò chơi mang lại đối với việc dạy và học môn Giáo dục công dân, vấn đề này cũng được một số giáo viên quan tâm nghiên cứu. Giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi tạo không khí sôi nổi, gây hứng thú cho học sinh như sau. * Tổ chức trò chơi tiếp sức nhằm củng cố, mở rộng kiến thức: Áp dụng trò chơi này nhằm huy động tính tích cực của tất cả học sinh trong lớp, em nào cũng phải động não và hoạt động kể cả học sinh yếu kém. Trò chơi này áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh tìm những biểu hiện của những chuẩn mực đạo đức hay pháp luật trong cuộc sống hằng ngày rất nhiều, vì thế các em có thể thảo luận và nêu ra những biểu hiện đó. Cách tiến hành trò chơi: + Chuẩn bị bảng phụ và phiếu học tập cá nhân. + Trên lớp giáo viên treo bảng phụ, chia nhóm và công bố luật chơi. + Tổng kết cuộc chơi, rút kinh nghiệm và khen thưởng. Ví dụ: Khi dạy GDCD 9 bài tiết “Tự chủ”. Mỗi nhóm được phát một tập phiếu trắng, các em hãy suy nghĩ và ghi lại những biểu hiện của tính tự chủ và những biểu hiện thiếu tự chủ trong cuộc sống vào phiếu (mỗi phiếu ghi một biểu hiện). Sau đó mỗi nhóm lần lượt từng em lên dán phiếu vào bảng phụ cho phù hợp cột của nhóm mình. Trò chơi 3 phút, nhóm nào tìm được nhiều biểu hiện hơn thì thắng cuộc. 7 Giáo viên tuyên bố kết thúc cuộc chơi, hướng dẫn học sinh nhận xét, góp ý. Giáo viên bổ sung thêm những biểu hiện mà học sinh chưa đề cập đến... * Tổ chức trò chơi sắm vai để khởi động hoặc hình thành kiến thức mới: Sắm vai là một hình thức hợp tác của nghệ thuật sử dụng biểu diễn trực tiếp, thường bao gồm việc các diễn viên trình bày những trải nghiệm của một sự kiện có thật hay tưởng tượng trước những đối tượng khán giả tại chỗ ở một nơi cụ thể. Trò chơi sắm vai trong môn Giáo dục công dân bằng các loại hình nghệ thuật ( chủ yếu là diễn suất, kịch…), nhằm mục đích truyền đạt đến đối tượng người xem và nghe những nội dung cơ bản của bài học một cách hiệu quả nhất, hấp dẫn nhất. Trò chơi sắm vai được tổ chức trong hoạt động khởi động hoặc hình thành kiến thức mới, được tích hợp từ nhiều môn như Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân, Âm Nhạc, Mĩ thuật… thể hiện thông qua các vở kịch, các tiết mục biểu diễn, hoạt cảnh, cuộc thi … tái hiện khái quát lại một nội dung bài học, một chủ đề dạy học, đây là một hình thức tổ chức dạy học rất bổ ích và cần thiết trong quá trình dạy học nói chung, dạy học môn Giáo dục công dân nói riêng. Bởi lẽ đây là dịp để học sinh khắc sâu kiến thức, rèn kĩ năng sống, cách ứng xử, kĩ năng diễn xuất, để đi đến mục tiêu đạt được là giúp học sinh khắc sâu kiến thức, tạo yếu tố say mê, hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập và yêu thích bộ môn Giáo dục công dân hơn. Ví dụ: Khi dạy bài “Quyền và nghĩa vụ của công dân trong gia đình” khai thác nội dung hai mẩu chuyện trong phần “Đặt vấn đề” để làm rõ nội dung quyền và nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, tôi không cho học sinh đọc chuyện mà cho dựng hoạt cảnh. Mục đích và cách thức tổ chức: Trò chơi sắm vai trong môn Giáo dục công dân nhằm tạo cho hoạt động học thêm phần sinh động, hướng đến các mục đích tạo được hứng khởi cho các em học sinh học tập khi các em được trực tiếp “hóa thân” vào các nhân vật. Để tổ chức trò chơi sắm vai giáo viên phải là người định hướng nội dung, hình thức tổ chức. Đối với học sinh: Lựa chọn nội dung, sự kiện, hoạt cảnh, kịch bản liên quan đến nội dung bài học để tập luyện; Chuẩn bị đạo cụ, phục trang ….cho phần thể hiện trên sân khấu. 8 Chú ý: Sau khi kết thúc hoạt động giáo viên có nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm nhằm động viên khích lệ học sinh thực hiện tốt các hoạt động sau. 1.2.3. Nghiên cứu trường hợp điển hình: Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà không phải trên văn bản viết. Các bước nghiên cứu trường hợp điển hình có thể là: * HS đọc (hoặc xem, hoặc nghe) về trường hợp điển hình. Trước khi tìm hiểu nội dung hay vấn đề nào đó trong bài học, giáo viên thường giới thiệu một tình huống thực tế hay một tấm gương điển hình trong xã hội có thể bằng các câu chuyện kể hoặc xem video. Phương pháp này kích thích trí tưởng tưởng, khơi gợi hứng thú học tập cho các em. * Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi thảo luận điều đó với người khác). Ví dụ: Khi học bài “ Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” lớp 7. Giáo viên có thể cho học sinh viết một đoạn văn ngắn nói lên cảm xúc của em về môi trường và thiên nhiên sau chuyến tham quan, du lịch. * Thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi hướng dẫn của GV. Đây là phương pháp chủ đạo trong tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân. Qua tình huống hay câu chuyện, học sinh thảo luận theo nội dung câu hỏi mà giáo viên hướng dẫn để rút ra nội dung bài học. Ví dụ: Khi tìm hiểu phần truyện đọc “ Truyện kể từ trang trại” trong bài 10 “ Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ” lớp 7. Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nội dung câu hỏi: Nhóm 1: Sự lao động cần cù và quyết tâm vượt khó của mọi người trong gia đình ở truyện đọc thể hiện như thế nào? Nhóm 2: Những việc làm nào chứng tỏ nhân vật “tôi” đã giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình? Nhóm 3: Truyền thống gia đình, dòng họ có ảnh hưởng với mỗi con người như thế nào? Em tự hào điều gì về gia đình, dòng họ của mình? 9 Nhóm 4: Chúng ta phải sống như thế nào để xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ? HS: Thảo luận để tìm ra những việc làm, biểu hiện để giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình. Từ đó, rút ra được ý nghĩa và cách rèn luyện của bản thân để gìn giữ truyền thống gia đình, góp phần làm làm phong phú truyền thống, bản sắc dân tộc Việt Nam. Một số lưu ý: * Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nên nó phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản. * Trường hợp điển hình có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề song phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ học sinh và thời lượng cho phép. * Tùy từng trường hợp, có thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển hình hoặc phân công mỗi nhóm nghiên cứu một trường hợp khác nhau. 1.2.4. Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo Trải nghiệm và sáng tạo là tính chất hoạt động giáo dục nhằm hình thành chủ yếu năng lực tâm lý – xã hội và phẩm chất nhân cách ở học sinh. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo: không thực hiện các nhiệm vụ trải nghiệm của từng môn học. Tuy nhiên, nhiệm vụ của hoạt động trải nghiệm sáng tạo giúp học sinh tổng hợp kiến thức học được vào thực tiễn. Đánh giá kết quả hoạt động trải nghiệm sáng tạo chủ yếu tập trung vào năng lực tâm lý xã hội, các giá trị, niềm tin, tình cảm… Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giúp học sinh vận dụng những tri thức, kiến thức, kĩ năng đã học từ nhà trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động trải nghiệm chia làm hai giai đoạn: + Giai đoạn giáo dục cơ bản: - Hình thành các phẩm chất nhân cách, những thói quen, kỹ năng sống… - Học sinh được bước vào cuộc sống xã hội, được tham gia các đề án, dự án, được tham gia các hoạt động thiện nguyện, hoạt động lao động… cũng như tham gia các loại hình câu lạc bộ khác nhau như: câu lạc bộ văn học, toán học… 10 + Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là người kiến thiết và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không những biết cách tích cực hóa bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân mà còn biết cách tổ chức hoạt động, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế hoạch, có trách nhiệm. Đặc biệt, ở giai đoạn này, mỗi học sinh cũng bắt đầu xác định được năng lực, sở trường, và chuẩn bị một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm. Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực học tập và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giá trị sống, giáo dục nghệ thuật, thẩm mĩ, giáo dục thể chất, an toàn giao thông, giáo dục môi trường, giáo dục phòng chống HIV/AIDS… Nội dung giáo dục của hoạt động trải nghiệm sáng tạo thiết thực và gần gũi với cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các em vận dụng những hiểu biết của mình vào trong thực tiễn cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi. - Về quy mô: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức theo những quy mô khác nhau: theo nhóm, theo lớp, theo khối, theo trường hoặc liên trường. Tuy nhiên, tổ chức theo quy mô nhóm, lớp có ưu thế hơn về nhiều mặt như tổ chức đơn giản, không tốn kém, mất ít thời gian, học sinh tham gia nhiều hơn, có nhiều khả năng phát triển kĩ năng hơn. - Về địa điểm: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có thể tổ chức tại nhiều địa điểm khác nhau ở trong và ngoài nhà trường: lớp học, thư viện, phòng đa năng, phòng truyền thống, sân trường, vườn trường, viện bảo tàng, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, nhà các nghệ nhân, làng nghề, cơ sở sản xuất... Liên quan đến chủ đề hoạt động. Sự phối hợp của lực lượng tham gia các Hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có khả năng thu hút sự tham gia, phối hợp, liên kết nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường như: Giáo viên chủ nhiệm lớp, Giáo viên bộ môn, cán bộ Đoàn, Tổng phụ trách đội, Ban Giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương các Hội, tổ chức, doanh nghiệp, các nghệ nhân, … 11 Tùy nội dung và tính chất từng hoạt động mà sự tham gia của các lực lượng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp; có thể là chủ trì hoặc phối hợp, có thể là những mặt khác nhau: kinh phí, phương tiện, địa điểm tổ chức, đóng góp về chuyên môn, trí tuệ, chất xám hay ủng hộ tinh thần. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo tạo điều kiện cho học sinh được học tập và giao tiếp với nhiều lực lượng giáo dục; được lĩnh hội các nội dung giáo dục qua nhiều kênh khác nhau. Điều đó làm tăng tính đa dạng, hấp dẫn và chất lượng, hiệu quả của hoạt động. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất - Sống yêu thương: thể hiện ở sự sẵn sàng tham gia các hoạt động giữ gìn, bảo vệ đất nước, phát huy truyền thống gia đình Việt Nam, các giá trị di sản văn hoá của quê hương, đất nước; tôn trọng các nền văn hoá trên thế giới, yêu thương con người, biết khoan dung và thể hiện yêu thiên nhiên, cuộc sống… - Sống tự chủ: là sống với lòng tự trọng, trung thực, luôn tự lực, vượt khó khăn và biết hoàn thiện bản thân. - Sống trách nhiệm: quan tâm đến sự phát triển hoàn thiện bản thân, tham gia hoạt động cộng đồng, đóng góp cho việc giữ gìn và phát triển của cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên. Luôn biết tuân thủ, chấp hành kỷ cương, quy định, hiến pháp và pháp luật và sống theo giá trị chuẩn mực đạo đức xã hội. Yêu cầu cần đạt về năng lực chung - Năng lực tự học: là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập; Lập và thực hiện kế hoạch học tập nghiêm túc, nền nếp; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong học tập. - Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: là khả năng nhận diện vấn đề, thiết lập không gian vấn đề, xác định được các phương pháp khác nhau từ đó lựa chọn và đánh giá được cách giải quyết vấn đề làm cơ sở cho việc hiệu chỉnh cần thiết. - Năng lực thẩm mỹ: là năng lực nhận diện và cảm thụ cái đẹp, biết thể hiện được cái đẹp trong hành vi, trong lời nói, trong sản phẩm… và biết sáng tạo ra cái đẹp. 12 - Năng lực thể chất: là khả năng sống thích ứng và hài hòa với môi trường; biết rèn luyện sức khoẻ thể lực và nâng cao sức khoẻ tinh thần. - Năng lực giao tiếp: là khả năng lựa chọn nội dung, cách thức, thái độ giao tiếp để đạt được mục đích giao tiếp và mang lại sự thỏa mãn cho các bên tham gia giao tiếp. - Năng lực hợp tác: là khả năng cùng làm việc giữa hai hay nhiều người để giải quyết những vấn đề nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các bên. - Năng lực tính toán: là khả năng sử dụng các phép tính và đo lường, công cụ toán học để giải quyết những vấn đề trong học tập và cuộc sống. - Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT): là khả năng sử dụng thiết bị kỹ thuật số, máy tính, phần mềm… để tìm kiếm thông tin phục vụ tích cực và hiệu quả cho học tập và cuộc sống; là khả năng sàng lọc và tham gia truyền thông trên môi trường mạng. 2. Khả năng áp dụng sáng kiến Sáng kiến được thực hiện dựa trên tinh thần chỉ đạo qua các công văn, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT; sự hướng dẫn và chỉ đạo sát sao của Sở GD&ĐT Ninh Bình; phòng GD&ĐT Nho Quan. Điều này đã tạo nên sự đồng thuận cao và nhận được sự hưởng ứng của nhà trường, của các ban ngành đoàn thể, của các cá nhân và toàn xã hội. Sáng kiến “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS” đã được áp dụng hiệu quả trường THCS Gia Tường huyện Nho Quan. Qua thực tế dạy học ở trường tôi khẳng định rằng sáng kiến “Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS” có đủ điều kiện để có thể áp dụng hình thức tổ chức hoạt động học rộng rãi không chỉ với môn Giáo dục công dân mà đối với tất cả các môn học ở các nhà trường THCS trên địa bàn huyện Nho Quan nói riêng và toàn tỉnh Ninh Bình nói chung. Khả năng áp dụng của từng phương pháp phụ thuộc vào từng nội dung các chuẩn mực đạo đức và pháp luật nên khi tiến hành áp dụng sáng kiến này thì giáo viên phải chọn những hoạt động dạy học phù hợp với nội dung của bài học. Phải có kế hoạch dạy học cụ thể chi tiết cho từng nội dung, hình thức tổ chức dạy học. Bởi vì, mỗi hình thức hoạt động dạy học đều có ưu điểm và hạn chế, 13 chính vì vậy cần phải tuân thủ đúng nguyên tắc khi tiến hành bất cứ một hoạt động dạy học nào. V. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Để thực hiện được việc đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS đạt kết quả cao cần có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo, của chính quyền địa phương và các ban ngành, đoàn thể, hội cha mẹ học sinh… Ngoài các kiến thức trong tài liệu giáo viên cần lên kế hoạch cụ thể, sưu tầm, tìm hiểu thêm tư liệu và có sự kết hợp tốt với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Sự quan tâm đồng tình ủng hộ của Hội cha mẹ học sinh. Học sinh tích cực sưu tầm tư liệu, viết báo cáo theo sự phân công hướng dẫn của giáo viên. Nhà trường tạo điều kiện tổ chức tham quan du lịch (nếu có) hoặc tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tế trong và ngoài nhà trường, để giúp các em hình thành những phẩm chất và kỹ năng cần thiết đáp ứng xu thế chung của thời đại. Mặt khác, cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để cán bộ, giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh, ngành Văn hóa và toàn xã hội ủng hộ, đồng thuận tạo động lực cho việc triển khai tổ chức các hoạt động ngoại khóa trong dạy học và các hoạt động giáo dục trong nhà trường phổ thông đạt hiệu quả và có sức lan toả, bền vững. Giáo viên cần tìm ra những bài học trong chương trình có liên quan đến những gương “ người tốt, việc tốt” ở thực tiễn cuộc sống. Những nội dung liên quan đến tình hình kinh tế, chính trị ở địa phương. Hoặc tổ chức cho học sinh được đến trực tiếp xem các phiên tòa xét xử lưu động ở địa phương. Qua đó, giáo dục ý thức tự giác chấp hành những chuẩn mực về đạo đức và pháp luật đã đề ra. VI. HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC: 1. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS là một trong những nhu cầu thực tế, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, phần nào đáp ứng việc hướng tới mục tiêu giáo dục Ba phẩm chất, tám năng lực cho học sinh. 14 Thông qua hoạt động trải nghiệm học sinh được chủ động tiếp cận trực tiếp với nguồn tri thức thực tiễn, sinh động qua trò chơi, những gương “người tốt, việc tốt” những trải nghiệm tại thực tế là kết quả của quá trình tìm hiểu, học tập, trải nghiệm của bản thân, tổ, nhóm. Điều này giúp các em dễ dàng nắm bắt, tiếp thu lĩnh hội kiến thức theo năng lực cá nhân của mình. Con đường lĩnh hội kiến thức của học sinh thông qua hoạt động trải nghiệm được hình thành từ các hoạt động của học sinh. Kiến thức môn học mà học sinh được hình thành cũng được kết hợp từ kiến thức nhiều môn học. Do đó, việc lĩnh hội, hình thành kiến thức ở học sinh hoàn toàn khách quan, khoa học. Nội dung, kiến thức bài học được hình thành ở học sinh sẽ rất ấn tượng và rất sâu sắc, phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân hình thành cho học sinh nhiều năng lực, kĩ năng sống một cách khách quan, khoa học. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học giúp hình thành ở học sinh những kĩ năng từ đơn giản đến phức tạp như: thu thập thông tin trong đó sưu tầm tư liệu, tài liệu, hiện tượng ...; Kĩ năng làm việc nhóm; kĩ năng chia sẻ; kĩ năng thu thập, phân tích tổng hợp, xử lí và báo cáo thông tin đó là liên hệ giữa kiến thức lí thuyết với thực tiễn, thống kê, sâu chuỗi thông tin liên quan (tổng hợp kiến thức các lĩnh vực Văn học, Mĩ thuật, điện ảnh, Sinh học, Địa lý….), hoàn thành viết, thuyết trình báo cáo sản phẩm. Bên cạnh đó học sinh được hình thành kĩ năng lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và tổ chức các hoạt động. Trong các hoạt động học tập học sinh cần có và biết thêm kĩ năng sử dụng các phương tiện, thiết bị công nghệ thông tin (máy tính, máy ảnh, điện thoại, máy ghi âm, trình chiếu…). Những kĩ năng trên giúp các em dễ dàng chiếm lĩnh tri thức đồng thời mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập, các hoạt động tập thể và trong cuộc sống. Qua đó giúp học sinh được phát triển đầy đủ năng lực, phẩm chất, tự hoàn thiện nhân cách một cách khách quan: Thêm lòng yêu quê hương đất nước, biết chia sẻ, hợp tác trong cộng đồng và xã hội. Giúp học sinh biết sống yêu thương; sống tự chủ và sống trách nhiệm, đồng thời hình thành và phát triển cho học sinh các năng lực chung chủ yếu là: Năng lực tự học; năng lực giải quyết vấn đề và 15 sáng tạo; năng lực thẩm mỹ; năng lực thể chất; năng lực giao tiếp; năng lực hợp tác; năng lực tính toán và năng lực công nghệ thông tin và truyền thông. Các kiến thức về pháp luật có phần trìu tượng, khó hiểu đối với học sinh. Cho các em trực tiếp tham gia vào các phiên tòa xét xử lưu động để các em hiểu rõ hơn về các quy định của pháp luật, giúp bồi dưỡng lòng tin vào pháp luật và công lý. Từ đó, các em có ý thức học tập và rèn luyện để trở thành những người công dân tốt có ích cho xã hội. 2. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS không chỉ mang lại hiệu quả trong việc học của học sinh mà việc đổi mới phương pháp, cách thức dạy học giúp giáo viên nâng cao năng lực quản lí, sáng tạo trong việc dạy – học theo hướng hiện đại, hội nhập. Về kết quả đạt được trong công tác: Giáo viên có điều kiện để đổi mới phương pháp dạy học. Thay vì lối truyền thụ kiến thức lí thuyết một chiều tẻ nhạt sang vai trò là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. Quá trình hướng dẫn, tổ chức các hoạt động ngoại khóa giúp cho giáo viên củng cố thêm những kiến thức vốn có, ngoài ra còn tích luỹ thêm được vốn hiểu biết mới, đúc rút được nhiều kinh nghiệm phục vụ đắc lực cho giảng dạy, công tác. Giáo viên gặt hái được nhiều thành công hơn, được nhà trường, xã hội ghi nhận. Thực tiễn áp dụng Trường THCS Gia Tường tôi thấy: các em có hứng thú học tập hơn, hiểu bài hơn, thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức, pháp luật theo quy định. Tỉ lệ học sinh đạt hạnh kiểm loại khá, tốt tăng lên đáng kể, không có hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật nghiệm trọng. Theo số liệu thống kê học sinh Trường THCS Gia Tường cho thấy: Năm học 2015-2016 (chưa áp Mức độ 2016-2017 % dụng) (khi áp 2017-2018 % dụng) (Đang áp % dụng học kỳ I) Học sinh hứng thú học tập. Học sinh chưa hứng thú với môn học. 150/258 47 250/263 95 269/269 108/258 53 13/263 5 0 16 100 Học sinh hiểu bài 150/258 47 250/263 95 269/269 100 108/258 53 13/263 5 3/269 5 215/258 83 238/263 90 Học sinh chưa chủ động tìm hiểu bài học theo yêu cầu. Tỉ lệ học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt 3. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động học môn Giáo dục công dân ở trường THCS mang lại hiệu quả trong công tác quản lí đối với nhà trường. Giúp nhà trường tiết kiệm được quỹ thời gian lớn, chi phí ít, dễ thực hiện trường nào cũng có thể tổ chức. Thay vì phải thực hiện cho nhiều môn học và cho các khối lớp bằng hình thức dạy học trên lớp thì chỉ cần một buổi học tập ngoại khóa có thể giải quyết được tất cả các vấn đề trên (Tích hợp kiến thức cho nhiều môn học: Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân, Toán, Lí, Hóa, Sinh, Âm nhạc, Mỹ thuật…và tích hợp kiến thức trong từng môn học ở tất cả các khối lớp). Tóm lại: Kết quả trên đã cho thấy việc học tập gắn với thực tế đã mang lại hiệu quả giáo dục cao tạo nên hứng thú đặc biệt của học sinh. Không chỉ có vậy, hầu hết các em đã biết quý trọng môi trường sống quanh mình, có ý thức hơn trong việc giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa, hăng say nhiệt tình hơn trong các buổi hoạt động ngoại khóa. Học tập qua các hoạt động trải nghiệm giúp cho giáo viên và học sinh gần gũi hơn, phát huy được tính sáng tạo của các em. Ngoài những hình thức tổ chức hoạt động học trên còn có thể lồng ghép trong các buổi sinh hoạt chính trị dưới cờ đầu như: kể chuyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phối hợp với Đội TNTPHCM tổ chức các cuộc thi “ Rung chuông vàng”, “ Hội vui học tập”, thành lập các câu lạc bộ…Tổ chức cho học sinh tham quan thực tế, học tập tại thực địa, viết báo cáo thu hoạch. Trên đây là các hình thức tổ chức hoạt động học mà tôi đã áp dụng vào thực tế trong quá trình dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS Gia Tường. Bước đầu đã đạt được những kết quả đáng mừng trong dạy và học môn Giáo dục công dân. 17 Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Gia Tường, ngày 10 tháng 05 năm 2018 NGƯỜI NỘP ĐƠN TÁC GIẢ Nguyễn Thị Bích Thảo XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO NHÀ TRƯỜNG 18 PHỤ LỤC 1 SẢN PHẨM HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CỦA HỌC SINH TRONG TIẾT DẠY Sản phẩm của học sinh Lớp 6 trong tiết Trải nghiệm sáng tạo “Tôi yêu nước sạch” Sản phẩm hoạt động nhóm của học sinh chủ đề bảo vệ hòa bình. 19 Học sinh thuyết trình về sản phẩm. Học sinh đang hoàn thành sản phẩm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng