PHẦN I MỞ ĐẦU
I. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Cũng bởi vậy mà Bác đã có lời dặn dò với ngành học Mầm non :
“ Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế nào trước hết phải yêu
trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy
trẻ như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này các cháu thành người
tốt. Dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.
Ngày nay giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và đánh giá một
cách toàn diện, sâu sắc thì công tác chăm sóc giáo dục trẻ càng mang một ý nghĩa
nhân văn cụ thể, càng trở thành một đạo lý của thế giới văn minh.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non những người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của toàn
Đảng, toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non đã có
những bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người phát triển
toàn diện. Và để thực hiện được mục tiêu đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải
có tấm lòng yêu nghề mến trẻ một cách thực sự bằng tất cả những gì mình có được
cùng với lương tâm nghề nghiệp để đầu tư trí tuệ, công sức lên mỗi cuốn giáo
trình, mỗi trang giáo án.
Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp trong năm học vừa qua tôi luôn tìm tòi áp
dụng mọi hình thức đổi mới và nâng cao phương pháp dạy trong quá trình chăm
sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là trong môn học làm quen với văn học, bởi vì môn học
này có vai trò rất quan trọng, nó là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho quá trình
phát triển ngôn ngữ trẻ.
Thông qua hoạt động văn học giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh.
Ngoài ra hoạt động văn học còn mang tính nghệ thuật cao, qua ngữ điệu giúp trẻ
cảm nhận được cái hay,cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ, những hành vi đẹp trong cuộc
sống ,từ đó trẻ biết sử dụng những ngữ điệu của mình để thể hiện tình cảm. Ngoài
ra văn học còn giúp phát triển trí nhớ ,tư duy cho trẻ 4-5 tuổi ,và là công cụ giúp
trẻ nói lên nhưng suy nghĩ cảm nhận của mình về nhân vật trong chuyện.
Nắm được ý nghĩa và tầm quan trọng của môn làm quen với văn học đối với
sự phát triển ngôn ngữ trẻ, tôi đã nhận thức được rằng mình cần phải tìm tòi đưa ra
được những nội dung phương pháp và hình thức dạy đổi mới để kích thích sự hứng
thú, say mê của trẻ vào tiết học nhằm khuyến khích trẻ nói nhiều, đọc nhiều. nâng
cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Từ những suy nghĩ trên đây, là một giáo viên Mầm non tôi đã mạnh dạn đưa
đề tài “Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động
làm quen với văn học” vào thử nghiệm.
Mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là nhằm phát triển vốn từ, ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày
logic, có trình tự, chính xác và rèn kỹ năng nghe đọc, kể, diễn cảm các tác phẩm
văn học cho trẻ 4-5 tuổi
II. SKKN VỚI CÁC GIẢI PHÁP MỚI
- Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông báo
ngắn gon, rõ ràng. Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ được đầy
đủ hợp lý và có logic.
- Lựa chọn từ giúp trẻ diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn
từ giúp cho lời nói của trẻ rõ rang, chính xác và mang sắc thái biểu cảm.
- Sắp xếp cấu trúc lời nói có sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành
chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người nghe
hiểu được.Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thong báo có logic.
- Diễn đạt nội dung nói phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của
trẻ không ê, a, ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói phải thoai mái, tự nhiên, khi
nói nhìn vào mặt người nói.
Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi
trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tiếp tục dạy trẻ biết nghe – hiểu – trả lời câu hỏi
của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về
đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn
cảm.
III. ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM:
-Đóng góp một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bé qua hoạt
động làm quen với văn học.
- Giúp trẻ phát triển thẩm mĩ, giáo dục kỹ năng sống từ đó góp phần phát triển
toàn diện nhân cách trẻ.
Khi thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy trẻ đã có sự quan tâm đối với văn
học, đặc biệt là sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc có hiệu quả rõ dệt giúp hình thành
và phát triển hoàn thiện nhân cách trẻ. Tôi tin rằng nếu được áp dụng trong độ tuổi
mẫu giáo nhỡ trong toàn Trường Mầm non Thị Trấn Thứa cũng như trong các
Trường Mầm non khác thì không những chúng ta đã bồi đắp về tinh thần cho trẻ
mà hơn thế nữa sẽ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, góp phần giúp trẻ phát
triển toàn diện và lưu giữ những bài thơ, những câu chuyện cổ tích hay của văn học
trẻ em Việt Nam.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC
1-Cơ sở lí luận
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua làm quen với văn học cho trẻ 4-5 tuổi có ý
nghĩa và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc phát triển toàn diện các mặt cho
trẻ .
Trước hết môn học này có ý nghĩa to lớn , góp phần phát triển 5 mặt cho trẻ,cụ thể
là: “Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển trí tuệ , phát triển thể lực, và
rèn luyện lao động”. Bên cạnh đấy, môn học này còn có nhiệm vụ quan trọng là :
Cung cấp cho trẻ những kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh trẻ .
Mở rộng hiểu biết và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân .
Làm giầu vốn từ, phát triển ngôn ngữ giầu hình tượng, giầu sức biểu cảm
đồng thời rèn luyện khả năng tri giác đối tượng, khả năng trình bày ngôn ngữ một
cách mạch lạc, logic, có trình tự chính xác, và rèn kỹ năng nghe, đọc, kể diễn
cảm,các tác phẩm văn học cho trẻ 4-5 tuổi .
Giáo dục thái độ cách ứng xử cho trẻ thông qua các bài học, dạy trẻ biết yêu
quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người .
Nắm được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 4 tuổi nên trong
năm học 2016-2017 được sự phân công công tác của Ban giám hiệu nhà trường tôi
được nhận nhiệm vụ trực tiếp chăm sóc - giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi. Tôi luôn
có ý thức rèn luyện, đi sâu vào học tập, nghiên cứu kỹ chương trình giảng dạy
của “Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ”qua bộ môn “Làm quen với văn học cho trẻ
mẫu giáo”. Tôi luôn suy nghĩ phải làm gì? làm như thế nào để nâng cao nghệ thuật
giảng dạy giúp trẻ hứng thú học tập.
.
Giải quyết được những vấn trên là chúng ta sẽ đạt được mục tiêu chung của ngành
học đó là lấy trẻ làm trung tâm, trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động một
cách chủ động, tích cực, sáng tạo, trẻ tự học là chính, học qua chơi, qua khám phá,
qua tìm hiểu, qua trải nghiệm bằng cách sử dụng các giác quan và khám phá, nhờ
vậy mà chúng ta có thể đáp ứng được nhu cầu .
2. Cơ sở thực tiễn :
Tôi nghiên cứu vấn đề này tại Trường Mầm non Thị Trấn Thứa nơi tôi đang công
tác. Trong quá trình giảng dạy các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn
ngữ cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau .
a.Thuận lợi :
- Tôi nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ Ban giám hiệu nhà trường khi thực hiện
đề tài này.
- Tôi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ UBND Thị Trấn Thứa , Phòng Giáo dục &
Đào tạo huyện Lương Tài hỗ trợ phương tiện trình chiếu.
- Nhà trường tạo điều kiện cho tôi đi học các lớp bồi dưỡng chuyên đề, lớp tin học,
do sở GDĐT tỉnh Bắc Ninh và phòng GDĐT huyện Lương Tài mở để nâng cao
chất lượng chuyên môn.
- Nhà trường đã phân trẻ theo lớp theo đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi cho
giáo viên đứng lớp trong quá trình giảng dạy .
b. Khó khăn :.
-Do trình độ nhận thức không đồng đều, gần 50% trẻ lớp tôi mới lần đầu đến
trường, số trẻ nam nhiều hơn số trẻ nữ, do đó gặp nhiều khó khăn.
- Hơn 50% trẻ chưa phân biệt được sự khác nhau rất tinh tế trong cách phát âm mà
chỉ tiếp nhận một cách chung chung.
Ví dụ: tay – tai, muỗi – mũi, phân biệt l – n.
- 45% khả năng khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định vì vậy
nên trẻ chưa chú ý đến thành phần trong câu, trong từ. Vì vậy những âm điệu đọc
lướt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua không chú ý.
- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết khối lượng các âm tiếp thu ,cung như
trật tự các từ trong câu.Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
- 70% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình
trạng dùng từ không chính xác, câu lủng củng.
- 35% trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ
(nói tiếng địa phương)
- Đa số phụ huynh bận công việc hoặc một lí do khách quan nào đó ít có thời gian
trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói.
Từ những thuận lợi và khó khăn đó, tôi thấy rằng phải dần dần khắc phục, sửa
đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và
tập cho trẻ làm quen văn học.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
I. THỰC TRẠNG :
1. Khảo sát :
Năm 2016 – 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm và
giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, tổng số cháu của lớp là 42 cháu.
như sau.
Số cháu khảo sát
Kĩ năng nghe kể chuyện diễn cảm
Kĩ năng đàm thoại
Kĩ năng kể lại chuyện và đóng kịch
42 Trẻ
25/42=59%
17/42=41% chưa có kĩ năng nghe kể.
- 25/42 cháu đạt =59%
- 17/ cháu đạt =41% chưa hăng hái,trả lời chưa rõ ràng đúng ý.
20/42 cháu chưa kể truyện diễn cảm, đóng kịch=47%
22/42 cháu chưa đạt =53% chưa mạnh dạn, chưa kể chuyện diễn cảm và chưa thể
hiện tính cách của nhân vật.
2. Đánh giá :
Qua phần khảo sát trên, tôi phải phân loại đối tượng trong lớp để nắm được tình
hình thực tế tìm hiểu và giáo dục một số trẻ cá biệt. Do đó chỉ tiêu cần đạt cuối
năm học là từ 90 – 95% trẻ lớp tôi có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạ
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP
1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức
Hiện nay chương trình Giáo dục Mầm non được cải cách, thay đổi nhiều ở tất cả
các lĩnh vực đặc biệt lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, trước sự thay đổi nhiều về
phương pháp giảng dạy và nhu cầu lĩnh hội kiến thức của trẻ được nâng cao. Với
bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học
tập, trau rồi nâng cao trình độ, để tìm gia những phương pháp dạy học tích cực
nhất, thu hút trẻ tập chung vào bài học, và mang lại kết quả nhận thức cao nhất cho
trẻ.
Hiện nay Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực.
Bậc học Mầm non đã đưa Công nghệ thông tin vào trong các hoạt động để giúp trẻ
nhận thức và gây hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi nghĩ bản thân phải có phương pháp
sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy của mình sao cho hợp lý để
giúp trẻ tiếp thu bài nhanh nhất, hiệu quả nhất trong mục tiêu giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ mạch lạc. do đó yêu cầu đặt ra với bản thân tôi nói riêng và các giáo
viên mầm non nói chung phải không ngừng học tập, trau dồi nâng cao trình độ cả
về lý thuyết lẫn thực hành vi tính sao cho sử dụng thành thạo. Bên cạnh đó tôi vẫn
tìm tòi học hỏi thêm cách soạn giáo án powerpoint trên máy vi tính, đây cũng là
những gợi ý tốt để giáo viên có thêm những ý tưởng sáng tạo mới nhằm tổ chức
các hoạt động cho trẻ một cách sinh động, cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn .
Không chỉ bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cô, mà cũng cần cho trẻ được làm
quen ,tiếp cận với những đồ dùng đồ chơi cô đã chuẩn bị, điều đó cũng giúp cho
giáo viên nắm bắt được sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ .
2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.
Tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 tuổi để so sánh với trẻ 5 tuổi,
từ đó có biện pháp bồi dưỡng giáo dục trẻ 4 tuổi.
* Đặc điểm phát âm:
- Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai, những âm
thanh khó có 2-3 âm tiết như: lựu – nịu, hươu – hiu, lá- ná, nói – lói, chiêm chiếp –
chim chíp, Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn so với trẻ 3 tuổi.
* Đặc điểm vốn từ:
- Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ. Danh từ và động từ ở trẻ vẫn
chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ biểu tượng về kích thước như:
Cao –
thấp, dài – ngắn, rộng – hẹp, các từ chỉ tốc độ như: Nhanh – chậm, các từ chỉ màu
sắc: đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ khái niệm thời gian như: Hôm qua, hôm
nay, ngày mai…trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ
chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
- 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài , ngắn, rộng, hẹp. Có 55% số trẻ đếm
được từ 1- 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có
muốn ngồi hông? ( không)
* Đặc điểm ngữ pháp:
- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ sử dụng từ vẫn
chưa thật chính xác. ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng
câu đơn mở rộng.
- Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế nhưng qua tìm
hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 tuổi chuyện có trình tự logic.
3.Tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
* Về phía lớp:
Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với cha mẹ học sinh khuyến khích sưu tầm
và đóng góp các loại băng đĩa ghi hình, ghi tiếng về các bài thơ câu chuyện, sách
chuyện, tranh chuyện, họa báo, tạp chí, để xây dựng góc sách chuyện mang những
nội dung giúp trẻ làm quen văn học, để các giờ hoạt động góc trẻ được xem tranh
vẽ về các câu chuyện, bài thơ.Trong giờ hoạt động góc này cô giúp trẻ, hướng dẫn
trẻ dần dần chi giác và đọc kể được những bài thơ câu chuyện đó.
Trong giờ đón và trả trẻ tôi mở đĩa ghi hình và tiếng những bài thơ câu chuyện cho
trẻ xem nhằm giúp trẻ tri giác dần dần nội dung những bài thơ câu chuyện đó.
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội hình
để tạo môi trường học và thoải mái cho trẻ.
Trong lớp tôi trang trí những mảng tranh chuyện thể hiện nội dung những bài thơ,
câu chuyện theo từng chủ điểm. VD: với chủ diểm thế giới thực vật tôi trang trí
mảng tranh truyện “ Cây thìa là” hoặc thơ “Cây dây leo” hoặc tôi hướng dẫn các
cháu cùng làm những quyển tranh về những câu chuyện, bài thơ trẻ đã được làm
quen để tăng thêm phần phong phú cho góc sách chuyện và tận dụng khả năng tối
đa nâng cao chất lượng làm quen văn học cho trẻ.
- Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Thanh tre. Ly nhựa, nắp thiếc, hộp sữa,
lõi giấy vệ sinh… để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử dụng
được để kể chuyện theo ý thích.
- Để làm trang phục cho trẻ khi đóng kịch tôi dùng: Vải vụn, giấy, lá cây, tạo nhiều
kiểu dáng trang phục lạ mắt thu hút trẻ.
- Chú ý đến khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa sai,
rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ.
-Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử
dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình, giáo án powerpoint…để giúp trẻ cảm thụ văn
học một cách tốt nhất.
*Về phía nhà trường:
Từ những năm học trước thực hiện chuyên đề “Văn học” nhà trường đã có suy
nghĩ cần phát huy hiệu quả phòng thư viện, đồ chơi,phòng máy tính với các trang
thư viện điện tử ở đó lưu trữ những giáo án văn học có ứng dụng công nghệ thông
tin hoặc những hình ảnh, giữ liệu liên quan để thiết kế giáo án ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ tiết dạy làm quen văn học.
Đến nay trường đã có đủ sách, tranh chuyện, tranh thơ, thư viện đồ chơi, thư viện
giáo án điện tử phục vụ tiết dạy văn học cho tất cả các lứa tuổi.
-Về chuyện thì có truyện cổ tích, chuyện kể sang tạo theo từng chủ điểm, những
bài thơ, ca dao, cùng với nguồn tài liệu được lựa chọn với khả năng nhận thức củ
trẻ.
-Trong thư viện đồ chơi có vòng quay kỳ diệu, tranh rời, để trẻ tự sắp thành câu
chuyện, có sân khấu rối với đủ loại rối, trang phục để trẻ diễn tập tạo nhiều hứng
thú để giới thiệu nhân vật trong chuyện và trong thơ, trẻ có thể đóng kịch thể hiện
các nhân vật trong chuyện, trong thơ.
Ngoài ra phòng thư viện còn trang bị đầy đủ phương tiện nghe nhìn như đài, băng
hình, trang thư viện giáo án điện tử, máy chiếu, máy tính sách tay để phục vụ tốt
cho việc dạy và học môn làm quen văn học cho trẻ.
4 Tổ chức tiết học nhẹ nhàng linh hoạt.
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông tin, mô
hình rối, tranh minh họa vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Dạy câu chuyện : “ Cây thìa là ”
Chủ đề : Thế giới thực vật
Chủ đề nhánh : Một số loại cây .
Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án điện
tử phục vụ một số hoạt động trong tiết dạy.
Ví dụ: phần gây hứng thú cho trẻ, tôi chuẩn bị một số hình ảnh trên máy chiếu về
cây, rau , quả. Tôi đọc câu đố, cho trẻ đoán và chiếu hình ảnh minh họa lên để trẻ
kiểm tra câu trả lời của mình.
- Tôi kể chuyện lần 2 và giảng nội dung theo tranh minh họa trên máy chiếu.
-Tôi sử dụng rối trong kể chuyện lần 3 cho trẻ nghe và dạy trẻ kể chuyện cùng
cô đã gây được sự hấp dẫn, tập chung chú ý cho trẻ.
Trước khi vào tiết dạy tôi còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt phần
mềm PoWerPoint, máy chiếu, phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi giảng
dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
- Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
- Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ? ( trẻ nêu ý định)
- Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi , cô sẽ đưa chúng
mình đến thăm “vườn cây xanh” cô - các con cùng khám phá những điều thú vị
trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ nhẹ nhàng đọc câu đố, trẻ đoán tên cây, quả… và chiếu cho trẻ
xem hình ảnh về các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô . Tiếp đó cô
nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào câu truyện và cô kể diễn cảm cho trẻ nghe câu tryện
bằng lời của cô sau đó cô hướng trẻ nhìn lên màn hình và giơí thiệu cho trẻ được
quan sát những hình ảnh về câu tryện mà cô đã chuẩn bị sẵn trên máy, trẻ cùng cô
đàm thoại nội dung câu truyện trên máy chiếu và lắng nghe cô kể câu chuyện đó
trên băng đĩa .
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đặc biệt có hứng thú, trước
khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy chiếu, tất cả trẻ đều
ngạc nhiên đến sửng sốt và rất hưng thú, đến khi vào tiết học khi được xem trực
tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình trẻ vô cùng thích thú. Tiết
học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ đầu đến cuối. Đến khi hết tiết
học trẻ còn nói “ học tiếp đi cô”
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách sống động
và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung tranh truyện trên máy chiếu thay vì
quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu tính cách nhân vật hiền
lành tốt bụng, tham lam độc ác qua cử chỉ, nét mặt của từng nhân vật, qua đó trẻ
tập trung cao độ vào tiết học, hăng hái phát biểu xây dựng bài, giờ học sôi nổi .
Từ đó phát huy được tính tích cực, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giờ học đạt kết quả
từ 90-95%.
”
Ví dụ 2:
Thơ “Gấu qua cầu”
Chủ đề : Giao thông
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
+ Mũ gấu, mũ nhái bén, một cây cầu.
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô, cô đọc câu đố về đèn hiệu giao thông :
‘‘ Đèn mắt đỏ,mắt xanh
Suốt đêm không ngủ
Đứng canh bên đường’’
( đèn hiệu giao thông)
cùng trò chuyện về chủ đề giao thông sau đó cho trẻ xem hình ảnh hai con gấu
đang đi qua cầu trên máy chiếu và đàm thoại cùng trẻ .
Có những con vật gì ?
Chúng đang làm gì ?
Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó cô đọc cho các cháu nghe .
Thay vì trước đây tôi chỉ có thể sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật bằng
rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài dạy chưa thực sự hấp dẫn, trẻ không hứng thú
.Thì nay với công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình ảnh những con
vật sống trong rừng ở trên mạng thật dễ dàng .
Cũng với những hình thức trên tôi giới thiệu tranh, đọc thơ, giảng nội dung theo
tranh trên máy chiếu.
Tiếp theo tôi cho trẻ đọc thơ diễn cảm nhiều lần với nhiều hình thức khác
nhau, khi trẻ đọc thơ đã hay và diễn cảm tôi tiến hành cho trẻ đóng kịch với vở
kịch “Gấu qua cầu” tôi đã biên đạo sẵn.
Chính điều đó kích thích sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng chăm chú
theo dõi, khi kết thúc vở kịch trẻ vui mừng vỗ tay khen thưởng bạn. Qua tiết học
trẻ không chỉ được làm quen với một số luật lệ đi đường đơn giản, mà còn được
học chữ viết, được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ đựơc học một cách thoải mái,
nhẹ nhàng , vui chơi là chính, nhưng trong chơi có học . Giờ học đạt kết quả cao.
5. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ:
- Cô hướng dẫn trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin,
mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Rèn kỹ năng nhập vai nhân vật, bắt chước giọng điệu, thái độ, để thể hiện
tính cách nhân vật trong chuyện từ đó khuyến khích trẻ thể hiện sự sáng tạo của
mình trong khi biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Cô tổ chức tiết dạy mang tính chất gợi mở, tạo điều kiện cho trẻ tự thỏa
thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời để
khuyến khích, động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo.
- Rèn trẻ một số nề nếp, thói quen văn minh trong giờ học, biết ngoan
ngoãn, chú ý, lắng nghe cô và bạn kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch… Hăng hái tham
gia các hoạt động cùng cô và bạn.
6.Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
Ôn luyện mọi lúc, mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ.
Tôi thường xuyên tổ chức ôn tập cho trẻ vào các hoạt động trong ngày, trong
giờ hoạt động chính cô tích hợp cho trẻ đọc thơ hoặc vè trong phần gây hứng thú
đầu giờ, trong giờ hoạt động ngoài trời cô tích hợp đồng dao vào các trò chơi vận
động.
Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lồng ghép bài đồng dao “Mèo đuổi
chuột”,
Vào các buổi chiều trong tuần trước khi tổ chức
các hoạt động chiều tôi thường cho trẻ đọc ôn lại các bài thơ, vè, đồng giao, câu
chuyện trước, tổ chức hoạt động chiều sau.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tổ chức hoạt động kể chuyện đóng
kịch, đọc thơ… theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham
gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học.
Ví dụ: lễ hội 20/11chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. cho trẻ kể chuyện
sáng tạo về cô giáo của mình.
7. Thực hiện công tác tuyên truyền, Phối hợp với phụ huynh:
- Tôi đã làm bảng tin tuyên truyền về chương trình dạy theo chủ đề và thay
tin hàng tuần để phụ huynh biết, trong bảng tuyên truyền này tôi đã ghi rõ nội dung
của từng câu chuyện, bài thơ, vè, đồng dao, để phu huynh nắm được nội dung và
phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật phế phẩm: thùng giấy, sách báo cũ, chuyện
đọc, chuyện tranh, hoặc những đồ dùng đồ chơi do phụ huynh tự làm, dụng cụ hóa
trang…
- Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm
sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc,
tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ.
- Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước.
- Khuyến khích hặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống
cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái
ngôn ngữ không chính xác.
8. Xây dựng kế hoạch:
- Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mach lạc cho trẻ cho trẻ theo
từng quý xuyên suốt trong một năm học.
Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm
phát triển thính giác âm vị (cho trẻ nghe những bài hát, những câu chuyện, những
bài đồng dao…). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý luyện khả năng chú ý
thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (Tai ai thính, ai đoán giỏi…) Cố
gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt trước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ
khi phát âm sai mọi lúc, mọi nơi trong các hoạt động hàng ngày.
Tháng 11+ 12: Tôi tập trung vào việc làm để tăng vốn từ cho trẻ?
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho trẻ
hiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả năng vận
động các cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát âm thích
hợp:
“Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha”.
“ Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt ba ba.”
“Bà bảo bé, bé búp bê, bé bồng,bé bé, búp bê ngoan nào.”
“ Lúa lên lớp lớp đòng đòng, lá non xanh.”
Tháng 1 + 2: Vẫn xuyên suốt hai nhiệm vụ trên nhưng tôi đào sâu vấn đề
luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao đặc biệt là những câu chuyện đầy
lôi cuốn và hấp dẫn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản, đủ nghĩa.
Tháng 3 + 4 + 5: Tôi xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp,
nói mạch lạc. Ví dụ: Trẻ “nói theo mẫu câu” của một câu chuyện nào đó: “Người
anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò của cha mẹ đẻ lại”(truyện
cây khế) hoặc “nói nốt câu” Ví dụ: Cô nói: Bà biến thành chim vì…Trẻ nói: Bà
muốn bay đi tìm nước uống, hoặc: vì Tích Chu ham chơi không lấy nước cho bà…
Cô lưu ý thay đổi các câu tùy theo mức độ phát âm của trẻ, cho trẻ chơi từ dễ đến
khó, các mẫu câu phức tạp dần lên hoặc “đặt câu với từ”, “kể nốt truyện”, “kể
chuyện” … để củng cố kỹ năng nói đúng ngữ pháp, phát triển trí tưởng tượng, sáng
tạo của trẻ.
Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện, đọc
thơ, đóng kịch…một cách hứng thú và tự nhiên.
9. Làm đồ dùng đồ chơi:
- Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ chơi: Sách
báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô…làm
đồ chơi phục vụ tiết học phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách
cụ thể, mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy
và vui chơi của trẻ. Hàng tháng Tôi và các cháu đều sử dụng những vật liệu có sẵn
như giấy vụn, các loại lá, các màu, hạt bột… để xé dán thành những cuốn tranh
truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tầm được, gợi ý cho trẻ tự kể chuyện
theo trí tưởng tượng của trẻ.
Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các con rối
thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học hoặc được nghe hoặc được
làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ.
Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do đó việc
vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe, xem hoặc muốn được sử
dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách và giữ gìn sách, tranh truyện hơn.
10. Biện pháp tổ chức thực hiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học, tôi
cho trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề.
* Dạy trẻ kể lại chuyện:
- Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ đã
được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác giả và
của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện một cách tự
do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
- Yêu cầu đối với trẻ:
+ Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ
nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khích trẻ dùng
ngôn ngữ chính của mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a, ấp úng, cố
gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
+ Chuẩn bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi kể
cô giao nhiệm vụ trẻ ghi nhớ và kể lại.
+ Tiến hành : Đàm thoại về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục đích
giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể,lựa
chon hình thức gôn ngữ (cách dùng từ đặt câu)
Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí” – Dê mẹ dặn dê con như thế nào?
Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi
đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những cụm từ
thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể lại
nộ dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ (mới).
Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt được về
nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện.
Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối
buổi trẻ sẽ quên mất những ưu, nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần nhận xét
đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ,nhận xét cả về nội
dung, ngôn ngữ tác phong.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
- Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào các cuộc nói chuyện
với bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các nhân vật
mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đàm thoại của trẻ thêm phong phú và đa dạng.
Ví dụ: Chủ đề gia đình- chơi nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ đi
chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm.
* Chơi đóng kịch:
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn
ngữ đối thoại cho trẻ. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giửa,
chọn lọc. Khi đó trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ
đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề gia đình, câu chuyện Tích Chu.
Cháu Thịnh đóng vai Tích Chu: Lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời,
sau biết lỗi tỏ thái độ nhận lỗi, giọng chầm (Bà ơi, bà đi đâu! Bà ở lại với cháu,
cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!)
Cháu Ánh Nguyệt đóng vai bà(giọng run run, rứt khoát) Bà đi đây! Bà
không về nữa đâu!
Cháu Thùy đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu
dàng,nhỏ nhẹ) Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy
nước suối tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối tiên xa lắm cháu có đi được
không?
* Dạy trẻ kể chuyện ở các hoạt đông khác:
* Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày, những
điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức ngôn ngữ sắp
xếp chúng theo một chật tự nhất định.
Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: kể chuyện miêu tả, kể chuyện
theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát,
tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động.
Ví dụ: Miêu tả thời tiết – Trời âm u, mây đen ,gió thổi mạnh, trời sắp mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự
kiện sảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó.
Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí – Con chó sói giả làm dê mẹ lúc dê mẹ đi
vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào thùng bột cho chân trắng giống dê
mẹ. Nhưng chó sói vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi sói đi.
Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô, sau đó có thể trẻ nhận thức chậm kể
theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể cô có thể cầm con rối để kể từng câu một, sau
đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ
Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn.
Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong
không đúng kể sai, phát âm ngọng... cô nên để trẻ kể song rồi mới sửa, nhận xét
nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi
ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá chuyện kể của từng trẻ ngay, không
nên để cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ:
-Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
- Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi nhớ
một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước cho trẻ.
Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú ý nhớ
những việc đã làm, hoặc được đi chơi thế nào kể lại cho cô và bạn nghe nhé.
Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng được
tham gia) Khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo;
- Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện rõ
ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể.
Các dạng kể chuyện sáng tạo: kể nốt chuyện, kể theo đề tài và dàn ý cho
trước, kể theo chủ đề tự cho, kể theo mô hình.
- Chuẩn bị: Cô kể một đoạn chuyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu
chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại gợi ý
trước đề tài để trẻ suy nghĩ.
- Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng
câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân.
- Một số cháu đã kể được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh ảnh
sưu tầm... sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tao mọi cơ hội cho
trẻ được kể chuyện sáng tạo.
CHƯƠNG IV
KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI
- Xem thêm -