Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Skkn giáo dục đạo đức cho học sinh trong dạy học phần “công dân với đạo đức” chư...

Tài liệu Skkn giáo dục đạo đức cho học sinh trong dạy học phần “công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 trường thpt long phước

.DOC
49
1104
139

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC Mã số: ......................... BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ NĂM HỌC 2015 - 2016 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC PHẦN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG DÂN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC CÔNG LỚP 10 TRƯỜNG THPT LONG PHƯỚC DÂN LỚP 10 TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU TÁC GIẢ SÁNG KIẾN: Họ và tên: Mai Thị Mai – Thạc sĩ, Giáo viên Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc Anh Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp dạy học môn GDCD. Năm học: 2016 - 2017 SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Anh 2. Ngày tháng năm sinh: 07 – 04 – 1982 3. Nam, nữ: Nữ 4. Địa chỉ: 111 – Tổ 5 - Ấp 4 – Xã An Hòa – Thành phố Biên Hòa 5. Điện thoại: 0985 507 755 6. Email: [email protected] 7. Chức vụ: Giáo viên 8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn GDCD khối 11, 10 9. Đơn vị công tác: Trường THPT Long Phước II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị cao nhất: Thạc sĩ - Năm nhận bằng 2013 - Chuyên ngành đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Giáo dục chính trị III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Số năm có kinh nghiệm: 12 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: 1. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học phần “công dân với đạo đức” chương trình môn GDCD lớp 10. (Năm học 2012 – 2013) 2. Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. (Năm học 2013 – 2014) 3. Giáo dục ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ trong dạy học tích hợp môn GDCD cho học sinh Trường THPT Long Phước. (Năm học 2015 – 2016) DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT CNXH GDCD ĐC GDĐĐ GV HS PPDH PT THPT TN XHCN Chủ nghĩa xã hội Giáo dục công dân Đối chứng Giáo dục đạo đức Giáo viên Học sinh Phương pháp dạy học Phổ thông Trung học phổ thông Thực nghiệm Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC Trang Chương 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP………………………………………… 1 1. Sự cần thiết hình thành giải pháp…………………………………………………... 1 2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp…………………………………….. 1 3. Mục tiêu của giải pháp………………………………………………………........... 2 4. Căn cứ để giải pháp của tác giả là đúng đắn………………………………………... 2 5. Phương pháp thực hiện giải pháp .............................................................................. 7 6. Đối tượng và phạm vi áp dụng……………………………………………………... 7 Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP…………. 8 I. Quá trình hình thành giải pháp…………………………………………………....... 8 II. Nội dung giải pháp…………………………………………………………………. 8 1. Tăng cường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho HS qua dạy học phần “Công dân với đạo đức”……………………………………………………………………………… 8 2. Giáo dục hành vi đạo đức, thói quen đạo đức cho học sinh qua dạy học phần “Công dân với đạo đức”…………………………………………………………………… 14 3. Giáo dục đạo đức cho học sinh qua các hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”………………………………………………………..................... 4. Kết hợp giáo dục đạo đức qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” với vai trò 15 giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp, của nhà trường, sự quan tâm của gia đình và xã hội……………………………………………………………………………………………. 16 Chương 3: HIỆU QUẢ THỰC NGHIÊÊM………………………………………….. 18 1. Thời gian thực nghiệm (áp dụng) ………………………………………………….. 18 2. Thiết kế giáo án thực nghiệm………………………………………………………. 18 3. Đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh lần 2............................................ 18 4. Hiệu quả đạt được của giải pháp…………………………………….............. 19 5. Khả năng triển khai và áp dụng giải pháp…………………………………………. 25 6. Bài học kinh nghiê êm………………………………………………………………... 25 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ……………………………………... 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………… 28 PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM……………………………………………………………… 29 Chương 1: CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1. Sự cần thiết hình thành giải pháp Để vận dụng và tổ chức có hiệu quả quá trình GDĐĐ cho HS trong nhà trường phổ thông thì giáo dục là một thành tố vô cùng quan trọng, vì việc vận dụng hợp lý các phương pháp GDĐĐ với các PPDH, các phương pháp đó là cách thức hoạt động chung và giao lưu giữa GV, tập thể HS và từng cá nhân HS nhằm lĩnh hội được nền văn hóa đạo đức của loài người và của dân tộc để trở thành một nhân cách trọn vẹn. Cho nên, GDĐĐ cho HS luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định: “Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”[9; Tr. 169]. Trong giai đoạn hiện nay, sự tác động sâu sắc của nền kinh tế nhiều thành phần đến tất cả các vùng miền trong cả nước là nguyên nhân làm cho đạo đức của một bộ phận thanh, thiếu niên, HS đang bị suy thoái. HS là “rường cột”, lực lượng kế thừa công cuộc xây dựng đất nước, góp phần thay đổi đời sống ở địa phương. Vì vậy, GDĐĐ cho HS phải hiểu biết đời sống tâm lý của từng đối tượng, về nhiều mặt trong điều kiện của nền kinh tế thị trường là vô cùng cần thiết để có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho HS. Vì sự suy thoái đạo đức của HS sẽ tạo điều kiện cho các thế lực phản động thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, tiếp tay cho kẻ xấu hủy hoại môi sinh của Tổ Quốc. Hơn nữa, việc GDĐĐ để HS có động cơ học tập đúng đắn, có lý tưởng sống đáp ứng yêu cầu, mục tiêu mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra là vấn đề quan trọng và hết sức cấp thiết. 2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp Vấn đề GDĐĐ ngày càng được xã hội quan tâm và đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng GDĐĐ cho HS, sinh viên. Xuất phát từ vấn đề đó, cho đến nay đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Bản chất của con người đã được nhiều nhà tư tưởng, giáo dục ở phương Đông và phương Tây, từ thời cổ đại đến nay đều được bàn đến. Như Xôcrát (469-399) và Platôn (427-347) thì “cái thiện” là một ý niệm chung, phổ biến và bất biến là ý niệm cao nhất được coi là chúa sáng thế, là mặt trời sinh ra muôn vật. Khổng tử (551- 479) và Mạnh tử (372- 289) thì cho rằng con người ta sinh ra đã mang bản chất, mầm mống của cái “thiện” “nhân chi sơ tính bản thiện”. Người ta không ai là không thiện cũng như nước không lúc nào là không chảy xuống chỗ trũng (nhân vô hữu bất thiện, thủy vô hữu bất hạ). Rõ ràng các quan niệm trên đều cho thiện, ác như là những thuộc tính bản chất của con người từ lúc mới sinh ra tính chất tiên thiên – tiền định. Theo quan điểm đạo đức học Mác –Lênin thì ý thức của con người về thiện và ác không phải là sản phẩm trừu tượng thuần túy có tính chất tiên thiên hoặc “mầm mống” di truyền. Ngược lại, nó là kết quả phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội của một thời đại, một hoàn cảnh cụ thể. Ăng ghen chỉ ra rằng: “Tự giác hay không tự giác, rút cuộc người ta đều lấy những quan điểm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tế đã tạo thành cơ sở cho địa vị giai cấp của mình tức là những mối quan hệ kinh tế, trong đó người ta tiến hành sản xuất và trao đổi” [1; tr. 161]. Còn Hồ Chí Minh đã khẳng định một quan niệm khoa học về bản chất con người và tác dụng của giáo dục đối với con người, nhưng quan điểm giáo dục của Hồ Chí Minh gần với nhận thức “nhân chi sơ tính bản thiện”. Song, lại nhấn mạnh đến tác động của xã hội, ảnh hưởng của gia đình, nhanh chóng làm thay đổi bản chất con người. Do đó, cần phải có giáo dục, nhưng không phải để cho việc giáo dục tự nhiên diễn ra mà phải tiến hành giáo dục có định hướng theo một chủ đích nhất định: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện, Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền; Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên”[6; tr. 383]. Ở Việt Nam tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức như tác giả Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động giáo dục hướng nghiệp, giáo dục lao động, dạy nghề với mục tiêu giáo dục đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ; Cũng như Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy các bộ môn khoa học, nhất là các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng đến thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh. Liên quan đến nội dung của đề tài PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng có một số công trình nghiên cứu như sau: Tiêu chí đánh giá, xếp loại đạo đức học sinh phổ thông - một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay, Tạp chí Đại học Sài Gòn, Số 8. 2012; Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với sinh viên hiện nay, Tạp chí Giáo dục, Số 4. 2006; Một số vấn đề đặt ra đối với môn Giáo dục công dân từ thực tiễn dạy học bộ môn ở Nghệ An, Tạp chí Giáo dục, Số 66. 2003. Về cơ bản các giải pháp đã nêu trên, đã được các tác giả đề cập đến khá sâu sắc dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình đó vẫn là cái chung trên bình diện rộng, đã cung cấp cho tôi về phương pháp lý luận làm cơ sở, tiền đề nghiên cứu cho giải pháp, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu, khảo sát về thực trạng đạo đức và GDĐĐ học sinh trường THPT Long Phước nhằm đưa ra phương hướng và giải pháp cho vấn đề này. Còn bản thân tôi là GV đang trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi muốn đi tìm hiểu sâu hơn trong tiết học cụ thể của bộ môn GDCD trong phạm vi nghiên cứu hẹp hơn là Giáo dục đạo đức cho học sinh qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10 trường THPT Long Phước . Vì vậy, những giải pháp của các tác giả trên đã cho tôi có cái nhìn cụ thể hơn, giúp cho giải pháp của tôi hoàn thiện hơn. 3. Mục tiêu của giải pháp Nghiên cứu thực trạng đạo đức của HS THPT trên địa bàn huyện Long Thành, nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh 4. Căn cứ để giải pháp của tác giả là đúng đắn Thứ nhất, xuất phát về mặt cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục đạo đức Với sự hình thành và phát triển của trường THPT Long Phước đã khẳng định được vị trí trong sự nghiệp giáo dục của tỉnh nhà. Đội ngũ CB-GV-CNV với lòng nhiệt huyết yêu nghề, luôn có tinh thần trách nhiệm cao, không ngừng tự học tập, rèn luyện và phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và công tác. Vì vậy, hàng năm thu hút khá đông HS khá, giỏi vào học, điểm tuyển đầu vào lớp 10 thường năm sau cao hơn năm trước. Trong quá trình giảng dạy thầy cô luôn tìm tòi giải pháp mới, tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng. Phần đông HS luôn cố gắng học tập và rèn luyện, nên tỉ lệ HS khá giỏi cao. Tỉ lệ HS đỗ tốt nghiệp THPT luôn cao hơn mặt bằng của tỉnh. Hàng năm trường luôn có nhiều HS đạt giải cao trong các kì thi chọn HS giỏi cấp tỉnh. Với sự lớn mạnh của nhà trường, GV không ngừng nâng cao trình độ vươn lên tự khẳng định chất lượng, làm tốt công tác giảng dạy, rèn luyện đạo đức, lối sống cho HS, góp phần đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Để có được những thành tựu đó, thì đòi hỏi người GV, người làm công tác quản lý phải hiểu được các mối quan hệ của đạo đức. Vậy đạo đức là gì? Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh những quan hệ xã hội hiện thực (có tính lịch sử - tính giai cấp) hình thành từ bản thân cuộc sống con người. Cuộc sống của mỗi con người họ phải ý thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình, trong quá khứ, hiện tại và nhu cầu cần phải làm gì trong tương lai. Những hoạt động đó bao giờ cũng có mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội cho phép tới một giới hạn nhất định trong vòng trật tự chung của cộng đồng của dân tộc nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các thành viên vươn lên một cách tích cực, tự giác trở thành động lực phát triển của cả xã hội. Đó chính là các quy tắc, chuẩn mực tự giác trong hành động để đánh giá con người có đạo đức hay không có đạo đức. Thứ hai, chức năng của đạo đức + Chức năng định hướng giáo dục đạo đức Công tác GDĐĐ góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách. Nó cung cấp cho con người nhân sinh quan phù hợp với chuẩn mực xã hội, làm cho các chuẩn mực đạo đức lành mạnh trở thành nhu cầu, tình cảm đạo đức, ý thức tự nguyện, tự giác giúp bản thân tự củng cố, xem xét, đánh giá hành vi của mình, trau dồi đạo đức tiến bộ. Con người muốn làm điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho những hành vi của mình được mọi người chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên án thì họ phải nắm được những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản. Con người không thể tự hoàn thiện và phát triển nhân cách, có hành vi ứng xử tự nguyện, tự giác phù hợp với chuẩn mực đạo đức khi không có quá trình giáo dục. Cùng với quá trình giáo dục nhờ vào hoạt động và giao lưu tích cực con người càng hiểu rõ vai trò to lớn về lương tâm, danh dự, nhân phẩm, hạnh phúc, công bằng và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử của con người . Nhờ có chức năng giáo dục và khả năng tự giáo dục mà con người học tập được những tấm gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa, hi sinh quên mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh bất khuất cho chân lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh tiến bộ. Hồ Chủ Tịch là vị lãnh tụ vĩ đại đã nêu một tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng để cho thế hệ chúng ta học tập noi theo; để cho đạo đức của dân tộc ngày càng thêm trong sáng, cao đẹp. + Chức năng điều chỉnh hành vi Để đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp tất yếu phải có một hệ thống quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm kết hợp lợi ích của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên việc điều chỉnh hành vi của cá nhân do nhiều thiết chế xã hội như: pháp luật, phong tục tập quán, nhưng về phía đạo đức là do dư luận xã hội lên án. Vì vậy, các quan hệ xã hội có liên quan đến lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội chúng luôn có mối giằng xé nhau, cho nên chủ thể đạo đức phải đấu tranh vô cùng quyết liệt, nếu không dựa vào một hệ thống quy tắc nguyên tắc, chuẩn mực của xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, cân nhắc và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Như vậy, Chức năng giáo dục và điều chỉnh của đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức. + Chức năng kiểm tra đánh giá: trên cơ sở của những điều kiện kinh tế, vật chất xã hội nhất định, thời đại nào cũng có yêu cầu về tri thức, đạo đức tương ứng làm nền tảng cho cuộc sống. Mỗi cá nhân, vì cuộc sống của mình và vì hoạt động cho tiến bộ của xã hội đều phải có những phẩm chất, đạo đức và năng lực nhất định. Vì vậy, họ phải nắm vững được những tri thức phản ánh đời sống xã hội một cách tích cực đó là những quan điểm, tư tưởng, những nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi đạo đức tiến bộ, nhờ đó mà các chủ thể đạo đức phân biệt được cái tốt, cái xấu, cái thiện, cái ác trong thực tiễn cuộc sống thường xuyên biến đổi và định hướng chính xác, tin tưởng vào hành vi của mình. Mặt khác, giáo dục tri thức đạo đức tạo tiền đề cho sự hình thành ý thức đạo đức. Giáo dục tri thức đạo đức phải gắn liền với bồi dưỡng tình cảm đạo đức vì thiếu tình cảm đạo đức, con người trở nên thờ ơ, vô cảm trước các hiện tượng xã hội, không định hướng được thái độ, dần mất đi năng lực đánh giá và thực hiện hành vi đạo đức. Chính vì vậy, GDĐĐ không thể tách rời giáo dục lý tưởng đạo đức. Lý tưởng đạo đức giúp tình cảm đạo đức không chệch hướng, tác động mãnh liệt đến tri thức đạo đức, chỉ đạo hành vi đạo đức của cá nhân, phù hợp với lý tưởng của dân tộc. Đó là sự hòa quyện tinh tế, là dòng chảy hài hòa nhưng mãnh liệt trong mỗi cá nhân. Thứ ba, vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay GDĐĐ là cái cốt lõi, nền tảng trong quá trình giáo dục. Nếu không có đạo đức, tri thức và năng lực của con người dễ gieo mầm cho chủ nghĩa cá nhân phát triển, hủy hoại xã hội. Theo quan điểm Macxít, đạo đức luôn gắn liền với một giai cấp nhất định. GDĐĐ cho HS là GDĐĐ cách mạng, đạo đức cộng sản để làm chủ tương lai của đất nước. Bên cạnh dạy chữ cho HS còn phải dạy làm người, phải giáo dục toàn diện cả “đức” và “trí”, thái độ học tập đúng đắn và nghiêm túc. Bồi dưỡng tình cảm đối với làng xóm, quê hương rộng hơn nữa là đất nước Việt Nam; khơi dậy lòng yêu thương con người; khơi dậy trách nhiệm bản thân và ý thức tập thể khi hòa nhập vào cộng đồng trường học, xã hội…Đó là những phẩm chất đạo đức mới của lực lượng kế cận sự nghiệp xây dựng CNXH của đất nước. Vì vậy, Cần phải giáo dục ý thức và năng lực thực hiện hành vi đạo đức khi HS hòa nhập với cộng đồng. Bác Hồ đã dạy: “không những dạy đọc, dạy viết, mà còn phải chú trọng dạy đạo đức công dân” [8; tr. 65]. GDĐĐ cho HS là vô cùng quan trọng, là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Nó không những ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của một vài địa phương trong một thời gian ngắn mà còn tác động lâu dài đến sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình hội nhập. Thứ tư, nội dung chương trình môn GDCD trong phần “Công dân với đạo đức” Phần “Công dân với đạo đức” - học phần thứ hai trong chương trình GDCD lớp 10 cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản của đạo đức học. Đây là bước hệ thống lại những kiến thức đạo đức mà HS đã học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở, đồng thời với những tri thức đạo đức được khái quát ở trình độ lý luận giúp định hướng nhận thức và hành động, giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn trong mối các quan hệ xã hội. Học phần “Công dân với đạo đức” gồm 7 bài được khái quát thành hai nhóm nội dung: + Giáo dục những tri thức đạo đức cơ bản để hoàn thiện nhân cách và bản thân HS, bao gồm: Bài “Quan niệm về đạo đức”; “Những phạm trù cơ bản của đạo đức học”; “Tự hoàn thiện bản thân”. Nhóm bài học trên cung cấp cho HS quan niệm về đạo đức tiến bộ, phạm trù về nhân phẩm, nghĩa vụ, lương tâm, danh dự và hạnh phúc giúp điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với yêu cầu chung của xã hội. Đạo đức điều chỉnh hành vi con người một cách tự nguyện, tự giác, làm cho cá nhân có nhu cầu và động cơ thực hiện hành vi đạo đức. Khác với phương pháp điều chỉnh hành vi của pháp luật, con người phải thực hiện những yêu cầu, lợi ích chung của xã hội một cách bắt buộc, cưỡng chế. Giáo dục các phạm trù đạo đức, giúp con người vượt qua khó khăn thử thách, những cám dỗ trong cuộc sống, giữ gìn nhân phẩm và lương tâm trong sáng, tiến đến hoàn thiện bản thân, tạo nên giá trị đạo đức riêng mình dựa trên những chuẩn mực đạo đức của xã hội. +Giáo dục những giá trị đạo đức của con người cần đạt được trong các mối quan hệ từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, bao gồm: Quan hệ với người khác: Bài “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”; Quan hệ với cộng đồng: Bài “Công dân với cộng đồng”; Quan hệ với quê hương, đất nước: Bài “Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”; Quan hệ với nhân loại: Bài “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại”. Nội dung bài học giáo dục thái độ, cách ứng xử theo lẽ phải, những hành động nên và không nên làm trong tình yêu, hôn nhân, gia đình. Trách nhiệm của bản thân đối với cộng đồng, xã hội và nhân loại. Đây là những kiến thức cơ bản, trọng tâm và cốt lõi để hình thành nên nhân cách của HS THPT, lứa tuổi đang bắt đầu dần hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho cả quãng đời sau này của con người. Việc giáo dục qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành ý thức đạo đức, định hướng thái độ và hành vi đạo đức của HS. Đó là đạo đức XHCN. Không giáo dục những tri thức đạo đức cho lứa tuổi nhạy cảm này, với những tác động của nhiều yếu tố trong giai đoạn hiện nay, HS khó định hướng cho bản thân trong thực hiện hành vi đạo đức. Các tri thức đạo đức đã được lĩnh hội ở các bậc học dần bị mai một, nhường chỗ cho biểu hiện của sự lười nhác, thờ ơ, vô cảm, thiếu văn hóa, những hành vi mang tính ác và tệ hại hơn là những tấm bi kịch của bản thân HS, gia đình và xã hội. Giáo dục tri thức đạo đức cho HS THPT qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” không chỉ là sự can thiệp kịp thời, định hướng sự hình thành nhân cách trước những tác động tất yếu của thời đại mà còn là sự cần thiết mang tính lâu dài vì lợi ích “trăm năm trồng người” của dân tộc. Tuy nhiên, chương trình GDCD ở bậc THPT là khung chương trình chung cho HS trong cả nước. Xét về mức độ nhận thức, năng lực lĩnh hội của HS ở những vùng miền khác nhau không đồng đều. Do vậy, giảng dạy để vừa đảm bảo kiến thức chung, vừa phù hợp với trình độ, năng lực nhận thức của HS là điều không dễ dàng. Kết quả của việc truyền thụ tri thức được đo bằng những hành vi đạo đức của HS trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, cộng đồng, xã hội và đất nước. Đó mới là yêu cầu, mục đích cuối cùng của GDĐĐ. Phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng HS, dễ tiếp thu kiến thức, đảm bảo kiến thức trọng tâm, gắn lý luận với thực tiễn nhằm mang lại hiệu quả cao trong GDĐĐ đối với HS, đáp ứng yêu cầu của xã hội là trách nhiệm của GV giảng dạy bộ môn GDCD. Thứ năm, những yếu tố cơ bản tác động đến đạo đức của học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay + Về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học phổ thông Với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi, HS THPT có những thay đổi lớn về về thể chất và trí tuệ, sự biến đổi cảm xúc cũng là một trong những đặc trưng của HS THPT. HS ở lứa tuổi này, nhân cách đang trong giai đoạn hình thành và chưa ổn định, cùng với sự phát triển về thể chất và trí tuệ, sự biến đổi cảm xúc trở nên phức tạp, nhạy cảm, tò mò và thích khám phá bản thân và các hiện tượng xã hội như sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: điện thoại, internet, games bạo lực có tính kích động dễ nảy sinh các tâm lý lệch lạc dẫn đến hành vi vi phạm. Chính vì vậy, Một số HS thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu thường xuyên (sự tự giáo dục của HS chưa cao), tác động tiêu cực của bạn bè, khi mà những HS sống trong môi trường không lành mạnh và lại mất đi sự bảo ban, hướng dẫn chính xác, kịp thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển về năng lực tư duy khoa học và năng lực hoàn thiện nhân cách của HS. + Sự tác động của gia đình đến việc hình thành đạo đức cho học sinh trung học phổ thông Do tác động thị trường xu hướng lao động công nghiệp, một số gia đình do mải làm ăn phát triển kinh tế nên không có nhiều thời gian chăm lo giáo dục con cái mà chỉ trông cậy vào sự giáo dục của nhà trường; sự tiếp xúc giữa cha mẹ và con cái ngày càng trở nên ít ỏi. Đây chính là nguyên nhân khiến cho một số em chưa chú trọng rèn luyên làm theo những đức hi sinh, lòng nhân ái... Hơn nữa, cũng có nhiều bậc cha mẹ có quan điểm: để cho con cái phát triển một cách tự nhiên, quan hệ bạn bè theo sở thích, gia đình không can thiệp sâu vào việc học cũng như mối quan hệ của con cái nhằm tạo cho chúng một tâm lý thoải mái, không gò bó, khuôn khổ nhưng quên rằng các em chưa đủ nhận thức để nhận biết mặt trái của vấn đề, chúng sẽ dễ bị lôi kéo, sa ngã bởi tác động của những mối quan hệ xã hội khác. + Sự tác động của nhà trường đến việc hình thành đạo đức học sinh trung học phổ thông Vai trò của nhà trường trong việc tác động đến đạo đức của HS THPT là vô cùng to lớn. Nhà trường là môi trường giáo dục thứ hai giúp con người hình thành các giá trị đạo đức tiến bộ, tạo điều kiện để HS THPT tiếp thu kiến thức, rèn luyện đạo đức, định hướng nghề nghiệp. Với hệ thống chương trình khoa học, các phương tiện dạy học và hỗ trợ dạy học, đội ngũ nhà giáo với trình độ ngày càng được chuẩn hóa, đủ năng lực hướng dẫn HS tiếp thu tri thức, rèn đức luyện tài. Năng lực lãnh đạo quản lý, giảng dạy cũng như các mối quan hệ của những người làm công tác giáo dục có tác động trược tiếp đến GDĐĐ của HS. Cho nên, việc GDĐĐ không chỉ ở một môn học mà ta đặt cho cái tên “môn đạo đức và môn giáo dục công dân” mà còn phải giáo dục trong các môn học khác, bởi lẽ GDĐĐ không thể độc lập với giáo dục trí tuệ, vì bất kì môn học nào cũng đều chứa đựng phần kiến thức, phần tình cảm và tâm lí động cơ, điều đó muốn nói lên không có một Thầy Cô giáo nào có thể quan niệm rằng nhiệm vụ của mình chỉ là đào luyện kiến thức, chữ nghĩa mà không phải là “đào tạo con người”. Vì vậy, những lời nói của Thầy Cô giáo là sự mời mọc người nghe cần phải suy nghĩ, từng hành động của người Thầy Cô giáo đều yêu cầu người học phải hành động như mình. Điều đó đã chứng minh rằng việc đánh giá kết quả học tập hay thái độ trong giảng dạy, cư xử cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm, tâm hồn nhạy cảm và hình thành đạo đức của HS. + Môi trường xã hội tác động đến việc hình thành đạo đức học sinh trung học phổ thông Trong thời kỳ mở cửa với sự bùng nổ công nghệ thông tin, phát triển kinh tế trở nên năng động, sự giao lưu hội nhập của các trào lưu văn hóa đang tác động một cách trực tiếp đến đạo đức thế hệ trẻ tương lai. Trong đó, có HS THPT - những thanh thiếu niên ở tuổi năng động, thích nghi nhanh, hiếu kỳ, tò mò luôn muốn phám phá và chinh phục cái mới. Sự thay đổi ấy có ảnh hưởng tích cực đến đạo đức, thúc giục con người không ngừng lao động và sáng tạo, hình thành nên ở thế hệ tương lai những phẩm chất đạo đức mới: đó là tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, ý chí thép vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống. Bên cạnh đó, những ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức con người là không nhỏ. Đó là cuộc chạy theo lợi ích cá nhân, lương tâm của con người bị che mờ, sống thực dụng bằng những thủ đoạn bất chính… làm phá vỡ các giá trị truyền thống của dân tộc. Sự tha hóa về lối sống dẫm đạp lên các chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội. Mặt khác, xã hội như biển lớn mà HS luôn tìm cách khám phá, thể hiện mình, tồn tại trong nó những mặt tích cực và hạn chế tác động đến đạo đức của HS. Nước nhà thịnh hay suy tùy thuộc vào trí tuệ, bản lĩnh của thế hệ thanh niên. Sẽ là bi kịch cho gia đình, đất nước khi thế hệ tương lai không có đạo đức của con người ở thời đại mới. 5- Phương pháp thực hiện giải pháp Để thực hiện sáng kiến này, ngoài sử dụng phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về GDĐĐ cho thanh niên, trong đề tài tôi còn vận dụng các phương pháp mang tính đặc thù sau đây: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát, đánh giá thực tế, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học và một số phương pháp khác. 6- Đối tượng và phạm vi áp dụng 6.1. Đối tượng áp dụng - HS lớp 10 trường THPT Long Phước - Giáo dục đạo đức cho HS lớp 10, chương trình GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo đức” . 6.2. Phạm vi áp dụng - Trường THPT Long Phước huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP I. Quá trình hình thành giải pháp Trong những năm qua tình trạng học sinh vi phạm kỉ luật dưới nhiều hình thức khác nhau như: nói tục, chửi thề, bạo lực học đường, gian lận trong thi cử… vẫn diễn ra. Dù nhà trường luôn cố gắng đề ra những giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng, nhưng chưa đạt được hiệu quả so với mục tiêu giáo dục mà nhà trường đề ra là “xây dựng môi trường giáo dục không có bạo lực học đường” và một “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Nên tôi đã có ý tưởng đưa ra giải pháp “Giáo dục đạo đức cho học sinh qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10” được hình thành từ năm học 2013- 2014, góp phần giáo dục ý thức, thái độ và rèn luyện thói quen trong hành vi đạo đức giúp HS xác định đúng mục tiêu trong học tập và rèn luyện. Trong quá trình giảng dạy phần“Công dân với đạo đức” chương trình giáo dục công dân lớp 10” và đã áp dụng trong giảng dạy cho lớp 10/mỗi năm học tại trường THPT Long Phước, từ năm học 2013 cho đến năm học 2017 thì trong quá trình thực hiện giải pháp, chúng tôi luôn nhận được sự tín nhiệm Ban giám hiệu và hưởng ứng toàn thể Hội đồng giáo dục nhà trường. Đối tượng HS để chúng tôi thực nghiệm sư phạm có mặt bằng về năng lực học tập tương đối đồng đều, các em đều cộng tác rất tích cực trong hoạt động dạy học cũng như trong khảo sát hiệu quả của giải pháp. II. Nội dung giải pháp 1. Tăng cường giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho HS qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” Thứ nhất: Giáo dục tình cảm, ý thức kỷ luật qua kể chuyện về Bác Hồ và tấm gương đạo đức của Người trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” Mục tiêu: Qua các bài giảng trong phần “Công dân với đạo đức”, giúp HS hình thành tình cảm đạo đức và ý thức kỷ luật trong việc chấp hành nội quy nhà trường, có mục đích học tập, phấn đấu, rèn luyện nhân cách trên cơ sở tác động vào tình cảm của HS thông qua những câu chuyện về cuộc đời và tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Nội dung: Dựa trên sự kính trọng của đồng bào dành cho Bác, giáo dục tình cảm và ý thức kỷ luật mang đến cho HS sự gần gũi, yêu thương, cảm giác được vỗ về. Nó không gò bó, bắt buộc như những giờ học lý thuyết. Kể chuyện về Bác Hồ và tấm gương đạo đức của Người qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” khơi dậy trong tâm hồn mỗi HS, giúp HS thực hiện hành vi đạo đức, sống kỷ luật, có nghĩa tình. Kể chuyện về Bác Hồ được cụ thể trong giảng dạy như sau: Stt Bài Tên câu chuyện Nội dung Địa chỉ Ghi chú 1 10 Gia đình và thời thơ ấu Sự giáo dục từ gia đình hình Mục 2 Kết hợp [5; tr. 7] thành nhân cách của cá 2a và nhân. 2b 2 11 Gặp lại chị và người Nghĩa vụ của cá nhân đối 1a anh cả [5; tr. 127] với cộng đồng. 3 11 Cây sáo trúc [4; 94] Danh dự của cá nhân. 3b 4 13 Tấm lòng Bác Hồ với Sống nhân nghĩa, thương binh liệt sỹ [4; thương mọi người. tr. 46] yêu 2a 5 13 Bữa cơm ở bản [4; Sống hoà đồng không xa 2b tr.143] lánh mọi người. 6 13 Thư gửi HS trường Sư Tinh thần đoàn kết các dân 2c phạm miền núi trung tộc. ương nhân dịp trường khai giảng [7; tr.496] 7 14 Quê hương nghĩa nặng Giáo dục lòng yêu nước qua 2a, 2b tình sâu [5; tr.122] tình cảm gắn bó với quê hương. 8 14 Hỡi ai bưng bát cơm Quý giá trị thành quả lao 1b đầy [4; tr.131] động của nhân dân. 9 15 Phải bảo vệ từng cành Bảo vệ môi trường. cây [4; tr.89] 10 16 1b Trường học của Bác Tự hoàn thiện bản thân. 2a [4; tr.216] Thông qua kể chuyện, những chuẩn mực đạo đức, giá trị truyền thống của dân tộc khơi nguồn cho những xúc cảm con người. Sự kết hợp giữa tri thức và tình cảm, hình thành nên niềm tin để HS thực hiện hành vi đạo đức. Thứ hai: Tăng cường giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc qua hoạt động nhóm, trò chơi mang tính tập thể và liên hệ thực tiễn trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” Mục tiêu: Tăng cường giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc giúp HS hiểu rõ vai trò của nó đối với sự phát triển của Trường THPT Long Phước. Ý thức được điều này, HS hòa nhập, đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong học tập, sinh hoạt, tránh gây mâu thuẫn, bất hòa và có ý thức tham gia các hoạt động chung của cộng đồng. Nội dung: Qua mục 2b, 2c bài 13 “Công dân với cộng đồng”, GV làm rõ: Tinh thần đoàn kết dân tộc tạo nên môi trường thân thiện; Tinh thần đoàn kết dân tộc giúp mang lại hiệu quả cao trong học tập; Đoàn kết tham gia các hoạt động chung của cộng đồng mang lại hiệu quả tích cực, tạo điều kiện thuận lợi để HS tiến bộ và phát triển. Trong bài 14 “Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, mục 1b, GV cần làm rõ tinh thần đoàn kết là truyền thống của dân tộc, là sức mạnh để khắc phục khó khăn trong lao động, sản xuất và chiến đấu. Trong mục 2 và 3 của bài học, GV bám sát tình hình thực tế của địa phương, đất nước và đặc điểm HS, nhấn mạnh tinh thần đoàn tạo nên sức mạnh, chống lại các quan điểm sai trái, luận điệu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch, hòng phá hoại chế độ XHCN ở nước ta. Với nội dung bài 15 “Một số vấn đề cấp thiết của nhân loại”, GV cần giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết của nhân loại: Ô nhiễm môi trường; Sự bùng nổ dân số; Phòng ngừa, đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo. Đó chính là đạo đức mới của thanh niên trong thời đại mới - Thời đại của hội nhập và toàn cầu hóa. Tăng cường giáo dục ý thức, kỹ năng làm việc, thảo luận nhóm trong hoạt động dạy và học giúp HS hình thành thói quen làm việc tập thể. Việc đòi hỏi phải hoàn thành nội dung GV yêu cầu giúp HS ý thức được tinh thần đoàn kết quyết định sự thành công và hiệu quả công việc. Phương pháp tổ chức lồng ghép những trò chơi mang tính tập thể trong tìm kiếm tri thức mới, tạo không khí sôi nổi trong giờ học, sự liên kết, gắn bó giữa những HS. Từ đầu nội dung của chương trình cho đến bài 13, mục “Trách nhiệm của công dân đối với cộng đồng” và bài 14, mục “Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam”, GV cần nhấn mạnh, chốt vấn đề một cách bao quát vai trò cũng như ý nghĩa của tinh thần đoàn kết. Bài học thực tế luôn mang tính thuyết phục cao. Sự trải nghiệm giúp HS tiếp cận và lĩnh hội tri thức một cách chắc chắn, nhìn nhận đúng đắn vai trò của tinh thần đoàn kết từ phạm vi hẹp đến rộng, từ cái riêng đến cái chung, từ trường học đến cuộc sống, như việc học tập, rèn luyện đạo đức hôm nay đến ý thức xây dựng bản làng, quê hương, đất nước mai sau. Thứ ba: Giáo dục ý thức tập thể và ý thức tự giác theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” Mục tiêu: Rèn luyện ý thức tập thể và ý thức tự giác trong mọi hoạt động của kí túc xá, lớp học. Khắc phục thói ích kỷ, cá nhân, lười biếng, nhút nhát, suy bì, kiêu căng. Đối lập với ý thức tập thể trong chủ nghĩa tập thể là chủ nghĩa cá nhân. Nội dung: Sống cộng đồng đa dân tộc, ý thức tập thể là động lực giúp HS thể hiện mình qua những hành động tích cực, có ích cho cộng đồng, xã hội và tạo nên giá trị làm người của con người. Những cá nhân biết hy sinh lợi ích của mình vì cộng đồng, xã hội, biết vun vén, chăm lo cho cộng đồng mà không cần sự chỉ định, ép buộc. Sống trong ý thức tập thể, cá nhân tránh được thói ích kỷ, nhỏ nhen, ghanh đua, tị nạnh. Chính nó là sức cản lớn cho quá trình phát triển của cộng đồng. Ý thức tập thể là sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, tạo cho cộng đồng sự an toàn, ổn định và phát triển. Tính tự giác giúp nâng cao nhận thức và hành động của HS trong học tập, lao động, tham gia phong trào văn nghệ, giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ tài sản của nhà trường, giữ gìn an ninh trật tự trường học, đoàn kết dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, tính tự giác cần được phát huy ở thái độ phê phán, lên án thói hư, tật xấu làm ảnh hưởng đến cộng đồng. Những nội dung trên cần được phân tích xuyên suốt trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”, đặc biệt chú trọng các phạm trù của đạo đức học. Hình thức: Thông qua việc phát huy tính tích cực, khuyến khích HS chủ động tìm hiểu tri thức, sáng tạo trong học tập. Qua dạy học phần “Công dân với đạo đức”, GV cần rèn luyện và phát huy năng lực đánh giá và tự đánh giá hành vi đạo đức của HS ở bài 11 “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học”. Danh dự, nhân phẩm của con người làm nên giá trị của mỗi con người. Lương tâm, lòng tự trọng giúp giữ vững giá trị ấy. Đây chính là sự tự so sánh và đối chiếu, hoàn thiện mình trên tinh thần học theo điều hay, lẽ phải, phê phán với cái xấu, những hành vi trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Giáo dục cho HS ý thức thường xuyên tự đánh giá và đánh giá hành vi đạo đức trong cuộc sống. Tấm gương “Người tốt, việc tốt” khi được tuyên dương trước cờ, hay những hành vi vi phạm đạo đức đáng bị khiển trách cũng là những bài học mà HS được lĩnh hội qua việc giảng dạy tri thức đạo đức trong phần “Công dân với đạo đức”. Rèn luyện năng lực tự đánh giá là cách để nâng cao nhận thức về bản thân, phát huy ý thức tập thể, ý thức tự giác trong cộng đồng. Thứ tư: Chú trọng giáo dục tinh thần hăng say học tập, lao động qua việc khuyến khích và phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh qua dạy học phần “Công dân với đạo đức” Mục tiêu: Con người trong xã hội mới phải luôn có tinh thần hăng say học tập, lao động. Quá trình học tập và lao động một cách nghiêm túc, tích cực giúp con người nhận thấy giá trị của lao động trong cuộc sống, hướng con người phấn đấu nỗ lực không ngừng, làm giàu chân chính góp phần xây dựng quê hương. Nội dung: Tinh thần hăng say học tập, lao động là nội dung xuyên suốt trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”, nhưng nó thường mang tính chất củng cố khi GV truyền thụ tri thức. Qua học phần “Công dân với đạo đức”, GV cần nhấn mạnh tinh thần hăng say học tập, lao động giúp HS tự vươn lên tiếp cận tri thức, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội; là biểu hiện của lòng yêu nước; góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo sự tin tưởng của cộng đồng đối với bản thân HS; kéo ngắn dần sự tụt hậu của bản thân đối với sự vận động của xã hội. Đó là đạo đức của con người mới trong xã hội mới. Nội dung trên được triển khai xuyên suốt trong chương trình giảng dạy phần “Công dân với đạo đức” như sau: - Các phạm trù: Nghĩa vụ, nhân phẩm, danh dự, nghĩa vụ, lương tâm, hạnh phúc, bài “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học”. - Nội dung “Gia đình, mối quan hệ và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình”, bài “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”. - Nội dung “ Hợp tác”, bài “Công dân với cộng đồng”. - Bài “Trách nhiệm của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. - Bài “Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại”. - Nội dung “Tự hoàn thiện bản thân như thế nào?” của bài “Tự hoàn thiện bản thân”. Hình thức: GV khuyến khích, hướng dẫn HS tiếp cận tri thức trước khi lên lớp một cách cặn kẽ, cụ thể, rõ ràng. Những câu hỏi mang tính chất trọng tâm, những vấn đề cần thảo luận trong tiết học phải được giao cho HS ở tiết học trước. GV hướng dẫn giải quyết vấn đề, cung cấp nguồn thông tin, khuyến khích HS nỗ lực tìm kiếm tri thức, chủ động sáng tạo xây dựng nội dung bài học. GV cần chú ý tính vừa sức và phát huy sở trường, năng khiếu diễn xuất, hội họa, âm nhạc, kể chuyện phù hợp với nội dung bài học, khắc phục sự thụ động, khích lệ HS hăng hái xây dựng bài, làm cho nội dung bài học thêm phong phú. Để có tiết học phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh GV hướng dẫn HS biết tự phân công nhiệm vụ cho nhau khi được giao vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, đối với những HS có sức học quá yếu, GV cần chú ý quan tâm và phân công cho HS những công việc phù hợp với năng lực của HS. Nếu trong tiết học, HS thụ động đến mức không xây dựng bài, không tự tin trình bày nội dung bài học, GV nên dành ít thời gian để quan tâm đến HS, gọi và động viên HS xây dựng bài với những câu hỏi ở mức độ dễ, khuyến khích bằng lời khen khi HS có câu trả lời đúng, tạo sự tự tin về bản thân. Qua nhiều tiết học, HS sẽ dần thích nghi và hăng hái trong học tập. Hơn nữa, GV cần có kế hoạch cụ thể trong giáo án, xem đây là bước luyện tập cho HS thái độ, kỹ năng học tập, lao động một cách nghiêm túc. GV không nên nghiêm khắc, tránh thái độ chê bai khi HS thực hiện nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu, tinh thần làm việc nghiêm túc nhưng luôn tạo không khí nhẹ nhàng trong giờ học. GV cần hiểu tâm lý và khuyến khích HS làm từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Khi HS làm được việc tốt, mang lại hiệu quả trong giờ học, hay từ những tấm gương tốt về tinh thần hăng say học tập và lao động, GV phân tích vai trò của tinh thần ấy trong cuộc sống và những hậu quả của nó khi bản thân mỗi con người không có tinh thần hăng say học tập và lao động. Bên cạnh đó, GV phải có tinh thần học hỏi, luôn học tập, trau dồi tri thức, là tấm gương sáng cho HS noi theo. Ngoài ra, GV xác định trọng tâm cần giáo dục, tùy vào tình huống sư phạm được tạo ra trong tiết học, GV chủ động, sáng tạo lồng ghép nội dung bằng nhiều hình thức khác nhau, tránh sự lập đi lập lại hình thức giáo dục ở các tiết học. Cần chốt lại vấn đề theo đúng mục đích đã đề ra, tránh lan man, dài dòng, làm loãng nội dung cần giáo dục. Giáo dục nhận thức cho HS, GV cần kết hợp giáo dục tri thức đạo đức và tình cảm đạo đức. Từ nội dung trọng tâm của bài học, GV cần đề cập, khai thác những vấn đề gần gũi với HS và địa phương. Tri thức đạo đức được truyền thụ một cách nhẹ nhàng dễ tác động vào tình cảm giúp HS thực hiện hành vi đạo đức. Thứ năm: Giáo dục nhận thức chính trị, giác ngộ lý tưởng cách mạng thông qua làm rõ vai trò của học sinh đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” Mục tiêu: Cung cấp kiến thức cơ bản về định hướng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở nước ta, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho HS trong điều kiện hội nhập quốc tế của đất nước. Khái quát nhiệm vụ, vai trò của thanh niên Việt Nam nói chung và HS nói riêng, gắn quyền lợi và trách nhiệm của HS trong điều kiện hiện nay với địa phương và đất nước. Nội dung: HS là đối tượng nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, lực lượng kế thừa sự nghiệp xây dựng quê hương. Xu thế hội nhập mở ra cánh cửa lớn tạo cơ hội và thách thức lớn cho thế hệ thanh niên Việt Nam. Nhưng những biểu hiện vi phạm đạo đức cùng với sự thờ ơ trước sự phát triển của địa phương, đất nước cho thấy HS chưa có nhận thức chính trị đúng đắn, không có lý tưởng cách mạng. Đây là dấu hiệu đáng lo cho thế hệ thanh niên với nghĩa vụ học tập và rèn luyện đạo đức góp phần xây dựng và
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan