Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học skkn Kinh nghiệm dạy tự nhiên xã hội lớp 3 theo mô hình vnen...

Tài liệu skkn Kinh nghiệm dạy tự nhiên xã hội lớp 3 theo mô hình vnen

.DOCX
53
4091
105

Mô tả:

Kinh nghiệm dạy TNXH lớp 3 theo mô hình VNEN PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ A- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI I. Cơ sở lí luận: Đất nước ta đang trên đà phát triển và đổi mới từng ngày trên mọi lĩnh vực: Kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ thuật... Để hội nhập với xu thế phát triển của thời đại, Đảng ta đã vạch ra phương hướng chiến lược : Giáo dục& đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế-xã hội (Văn kiện hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII tháng 12 năm 1998). Thực hiện chủ trương đúng đắn đó, Bộ Giáo dục & Đào tạo đã và đang phát triển đổi mới đồng bộ giáo dục và đào tạo trong đó có đổi mới chương trình dạy học các cấp nói chung, chương trình tiểu học nói riêng. Dự án VNEN là dự án có nội dung về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. Trường tiểu học được chọn để triển khai mô hình “Trường học mới”. Đây là mô hình khá mới mẻ, thay đổi hoàn toàn phương pháp giảng dạy truyền thống “Cô giảng trò nghe” mà vẫn giữ nguyên được nội dung của sách giáo khoa và chuẩn kiến thức do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định. Việc áp dụng mô hình VNEN vào trường Tiểu học hiện nay sẽ đạt hiệu quả cao hơn và mô hình này đang được các cấp, các ngành rất quan tâm. Mô hình trường học mới VNEN không những thay đổi phương pháp dạy mà thay đổi cả phương pháp học: học sinh tự học, tự quản lí, tự đánh giá. Mô hình VNEN là mô hình dạy học lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm. Giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Mô hình này còn có sự tham gia tích cực của cộng đồng trong quá trình giáo dục. Giáo viên tham gia dạy mô hình này đã thực sự thay đổi tư duy về dạy học, phát huy sáng tạo trong dạy học, vận dụng các hình thức dạy linh hoạt trong các tiết học, áp dụng các mô hình mới như dạy học theo góc, theo dự án nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Nhưng khai phá mảnh đất ấy thế nào để mọi hạt nhân sáng tạo có thể nảy mầm, thành cây bén rễ tốt tươi trên đó thì cần có con người, với mong muốn là làm sao cho trẻ có được môi trường học tập và phát triển nhân cách tốt nhất. Để hiện thực hóa mong muốn đó, rất cần nỗ lực cả trong tư duy và hành động của mọi người. II. Cơ sở thực tiễn: Chương trình tiểu học mới nhằm kế thừa và phát triển khắc phục những tồn tại của chương trình cũ, chương trình mới đẩy mạnh đổi mới nội dung và phương pháp dạy học kèm theo dự thảo nay là bộ thay sách giáo khoa mới được ra đời trong đó có môn Tự nhiên và Xã hội. Môn tự nhiên và xã hội có một vị trí rất quan trọng, nó là một môn học gần gũi với các em học sinh. Tự nhiên xã hội là một môn học mà nội dung kiến thức trong toàn bộ chương trình được phát triển theo nguyên tắc từ gần đến xa dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân đến gia đình, trường học; từ cuộc sống xung quanh đến thiên nhiên rộng lớn; từ những cây cối con vật thường gặp đến Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng. Nội dung chương trình Tự nhiên và xã hội 3 được lựa chọn rất thiết thực, gần gũi với học sinh, giúp các em dễ dàng thích ứng với cuộc sống xung quanh. Kiến thức trong mỗi chủ đề đều được tích hợp nội dung giáo dục sức khỏe một cách nhuần nhuyễn; đi từ sức khỏe cá nhân trong chủ đề Con người và sức khỏe đến sức khỏe cộng đồng trong chủ đề Xã hội và sức khỏe môi trường trong chủ đề Tự nhiên. Với quan điểm “Lấy học sinh làm trung tâm”, “Trò chủ động - Thầy chủ đạo”; Đặc biệt là dạy theo chương trình mô hình trường học mới đã đáp ứng được quan điểm trên. Trong vòng một đến hai năm trở lại đây, việc dạy thí điểm mô hình VNEN tại nhiều địa phương trong cả nước, mang lại hiệu quả tích cực, nhiều địa phương đã tự nguyện xin áp dụng mô hình này. - Về giáo viên: Đến nay, gần một năm huyện nhà triển khai mô hình VNEN vào giảng dạy nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất xung quanh vấn đề nội dung và phương pháp dạy môn Tự nhiên và xã hội 3, bởi học sinh mới làm quen với hình thức học tập theo mô hình VNEN, nên còn lúng túng, nhút nhát, chưa tự tin, chưa biết cách học và chưa tương tác được nhiều với các bạn nên hình thức tổ chức hiệu quả còn chậm, chưa áp dụng được triệt để phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của mô hình trường học mới. Vấn đề đặt ra là: Tìm ra phương pháp dạy hợp lý để học sinh hiểu và phát huy hiệu quả tích cực, nâng cao kết quả học tập; tạo sự tự tin trong giao tiếp, đặc biệt là thay đổi cách dạy, cách học truyền thống cho cả giáo viên và học sinh phù hợp với xu thế phát triển của giáo dục hiện đại, đó là một việc cần thiết đối với người giáo viên. - Về học sinh: Ngay từ học kỳ I của năm học 2013-2014, đa số các trường chưa có sự chuẩn bị chu đáo khi tổ chức triển khai mô hình VNEN, nên đã có những ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của giáo viên, phụ huynh và đặc biệt là học sinh. Nhiều em chưa có năng lực để thực hiện nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống cũng như năng lực tự học của học sinh khi học theo mô hình mới này. Vì vậy, hiệu quả học tập của học sinh theo mô hình VNEN không cao. * Kết luận chung: Xuất phát từ hoàn cảnh khách quan và chủ quan nói trên, trong quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi cho rằng tiết Tự nhiên và xã hội được dạy theo mô hình mới là tiết dạy còn mới về phương pháp, rất cần người giáo viên đầu tư thời gian, sức lực, trí tuệ để tiết dạy có hiệu quả. Khi thực hiện mô hình này vào dạy và học môn Tự nhiên xã hội 3, đối với giáo viên và học sinh khối lớp 2 + 3 của chúng tôi cũng còn rất nhiều điều băn khoăn, trăn trở. Vì vậy việc nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình mới hiện đang là một vấn đề cấp bách. Chính vì lý do trên mà tôi đã quyết tâm tìm tòi, học hỏi và viết ra những kinh nghiệm của mình với mong muốn được đóng góp thêm một vài biện pháp giúp nâng cao hiệu quả dạy học. Điều đó được thể hiện qua đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự nhiên xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN”. B. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Từ những cơ sở nói trên, khi tôi đứng lớp dạy các em học sinh (khối lớp 3) đã ấp ủ đề tài: “Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN” ngay từ đầu năm học. Cho đến nay tôi viết nên bằng lời những ấp ủ đó. Tôi cũng chỉ mong là những nghiên cứu này nhằm nâng cao chuyên môn của người giáo viên và là một món quà của các thầy cô giáo dành cho học sinh thân yêu. C. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Đề tài nhằm: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến việc tổ chức dạy môn Tự nhiên xã hội và cách học tập của học sinh theo mô hình mới. - Tìm hiểu thực trạng dạy và học theo mô hình mới với môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 để tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp. - Tìm hiểu nguyên nhân khiến giáo viên và học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình dạy và học. - Giúp học sinh nhận thấy vai trò của việc tự học, tự khám phá tri thức nhằm nâng cao động cơ học tập để các em tự giác rèn luyện, có như vậy mới đạt hiệu quả cao. - Đề xuất một số biện pháp có hiệu quả giảng dạy ở môn Tự nhiên và xã hội lớp 3. - Vận dụng vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3. Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề của bản thân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để tôi được đổi mới, nâng cao hiệu quả dạy học. D. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 1. Đối tượng nghiên cứu. - Nội dung dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình vnen. - Phương pháp dạy và học theo mô hình mới với môn Tự nhiên và xã hội lớp 3. 2. Phạm vi nghiên cứu. Do khuôn khổ của đề tài (Một số kinh nghiệm dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN) nên tôi nghiên cứu nội dung và phương pháp dạy học môn Tự nhiên và xã hội (sách thử nghiệm) ở lớp 3. Từ đó đề xuất một số biện pháp để dạy học Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình mới hiệu quả hơn. Hai lớp 3 trong khối của trường Tiểu học Nhật Quang. E. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để giải quyết các nhiệm vụ vừa nêu ở trên, tôi đã sử dụng đồng bộ các phương pháp: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Tham khảo tài liệu, sách báo có liên quan đến việc dạy học môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình VNEN của học sinh lớp 3. - Tham khảo phương pháp, nội dung, hình thức dạy học môn Tự nhiên và xã hội (sách thử nghiệm) lớp 3 theo mô hình VNEN. 2. Phương pháp quan sát và đàm thoại. - Quan sát cách tự tổ chức, tự điều hành các hoạt động học tập của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội. - Trực tiếp phỏng vấn, trò chuyện, tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tìm hiểu những khó khăn, nguyện vọng của học sinh trong quá trình học tập, từ đó đưa ra biện pháp giải quyết phù hợp. - Tìm hiểu nhận thức của học sinh về vai trò môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình VNEN. 3. Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu: - Kết quả học tập môn Tự nhiên và xã hội theo mô hình VNEN của học sinh. - Những khó khăn, nguyện vọng khi dạy và học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN. - Đánh giá của học sinh về phương pháp học tập mới. - Những quy định đặt ra cho học sinh và mức độ đạt được của học sinh khi thực hiện các quy định đó. 4. Phương pháp luyện tập – Thực hành: Trong mỗi tiết học, sau khi học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức của bài mới, tôi cho học sinh tham gia vào hoạt động ứng dụng. Điều này giúp các em học tập tích cực, chủ động, tự tin đồng thời mở rộng, nâng cao kĩ năng cho những học sinh khá, giỏi. 5. Phương pháp thử nghiệm. - Quan sát qua dự giờ, thăm lớp của các bạn đồng nghiệp. - Tìm hiểu nguyên nhân khiến học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình học tập, từ đó không chỉ tìm cách sửa chữa mà quan trọng hơn là đề xuất những biện pháp giúp thầy và trò trong quá trình dạy – học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo mô hình VNEN đạt hiệu quả cao hơn. - Thực nghiệm trên học sinh để kiểm tra tính khả thi của vấn đề và biện pháp đề ra để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3 theo mô hình VNEN. 6. Phương pháp thống kê. Sau khi dạy học tôi tiến hành khảo sát, thống kê chất lượng để đối chứng. * Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp. * Kế hoạch và thời gian nghiên cứu: Từ ngày 15 tháng 9 năm 2013 đến tháng 3 năm 2014. PHẦN II NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU. I. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: 1. Vị trí và tầm quan trọng của môn học: Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được tất cả các trường trong cả nước quan tâm. Các phương pháp dạy học mới dựa trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả của giáo dục đào tạo. Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục Tiểu học thì: phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho biết: “VNEN đảm bảo cho học sinh được rèn luyện một cách toàn diện, không chỉ học kiến thức mà cả kỹ năng sống, năng lực tự quản bản thân, tự quản tập thể của mình”. Trong mô hình VNEN, điểm nổi bật của mô hình chủ yếu ở cách tổ chức lớp học, quản lý lớp học là do hội đồng tự quản học sinh và các nhóm trưởng trong lớp thực hiện. Đây là biện pháp giúp học sinh tự học, tự quản, tự làm chủ quá trình học tập. Giáo viên gần như thoát ly khỏi bảng đen, phấn trắng, chủ động tổ chức các hoạt động cho học sinh theo nhóm. Để chuyển tải được nội dung của từng tiết, từng bài học đến với mỗi học sinh cũng là việc giúp học sinh tiếp cận tốt những nội dung môn Tự nhiên và xã hội dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân đến gia đình, trường học; từ cuộc sống xung quanh đến thiên nhiên rộng lớn. Tạo cơ hội cho tất cả cả các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu) trong lớp đều tích cực tham gia vào việc xây dựng bài. Những quan điểm trên cho thấy việc dạy Tự nhiên và xã hội theo mô hình mới là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong các nhà trường tiểu học. Những hình ảnh trong sách giáo khoa đóng vai trò kép, vừa làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, vừa làm nhiệm vụ cung cấp hoạt động học tập trong đó bao gồm cả những kí hiệu chỉ dẫn các hoạt động học tập cho học sinh và cách tổ chức dạy học cho giáo viên qua các lôgô. Lôgô 1 em bé ý chỉ hoạt động cá nhân; Lôgô 2 em bé ý chỉ hoạt động nhóm đôi; Lôgô 3 em bé ý chỉ hoạt động nhóm lớn; Lôgô cô giáo và các em nhỏ ý chỉ hoạt động chung cả lớp; Lôgô 1người lớn và 1em bé ý chỉ hoạt động với cộng đồng. 2. Người giáo viên phải hiểu đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là như thế nào? Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm trong nhà trường VNEN. Tổ chức lớp học không chỉ phù hợp với phương pháp của VNEN mà còn tạo ra môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, hợp tác giữa các thành viên trong trường và với cộng đồng. Mô hình VNEN sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh phát huy tốt nhất các năng lực cá nhân và giá trị đích thực của các em. Kiểu cấu trúc bài học được khuyến khích sử dụng trong mô hình VNEN, đó là tổ chức dạy học thông qua trải nghiệm, gồm 5 bước như sau: 1. Tạo hứng thú cho học sinh: - Yêu cầu kích thích sự tò mò, chờ đợi, khơi dạy hứng thú cho học sinh về chủ đề sẽ học, học sinh cảm thấy vấn đề giáo viên nêu gần gũi quen thuộc. - Cách làm: giáo viên đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, đặt một tình huống hoặc tổ chức trò chơi... 2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm: - Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm sẵn có của học sinh để chuẩn bị bài học mới. - Tổ chức các hình thức trải nghiệm thú vị, gần gũi với học sinh, nếu là bài toán có lời văn thì giả thiết phải đơn giản, dễ hiểu. 3. Phân tích khám phá – rút ra kiến thức mới. - Dùng các câu hỏi gợi mở, phân tích, đánh giá giúp học sinh thực hiện qua các hình thức thảo luận cặp đôi, nhóm 4- 6 em, cá nhân hay cả lớp… 4. Thực hành - củng cố bài học: - Giáo viên quan sát học sinh làm, phát hiện học sinh khó khăn ở bước nào giúp đỡ nhấn mạnh lại kiến thức hoặc cách thực hiện ở bước đó. Tiếp tục giao các bài với mức độ khó dần phù hợp với khả năng học sinh. 5. Ứng dụng: - Biết vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức của nội dung bài học vào thực tế cuộc sống hằng ngày. Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản thân người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức. Chẳng hạn: Bước 1: Tạo hứng thú cho học sinh. Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Thì giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác….. Ví dụ: Bài 10: Hoạt động của chúng em ở trường ( tài liệu TN&XH lớp 3trang 60) Trước khi vào tiết học, giáo viên tổ chức học sinh chơi trò chơi “Kết bạn”. Các em sẽ biết lớp mình có 31 bạn, nếu “kết 6” thì lớp mình sẽ thành lập được 5 nhóm còn dư 1 bạn (bạn bị dư sẽ bị phạt) …Thông qua trò chơi, học sinh sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới. II. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu: 1. Thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và Xã hội theo mô hình VNEN của Trường Tiểu học Nhật Quang. Qua quá trình giảng dạy ở trường tiểu học Nhật Quang, qua dự giờ thăm lớp trao đổi với bạn bè đồng nghiệp cùng với việc tìm hiểu nghiên cứu sách giáo khoa, báo trí tôi thấy một số giờ dạy và học môn Tự nhiên xã hội giáo viên và học sinh còn lúng túng và bất cập ở một số điểm sau: - Thời gian đầu, để thay đổi cách học và cách dạy truyền thống, chúng tôi gặp không ít khó khăn, do giáo viên chưa có kinh nghiệm, học sinh chưa quen với phương pháp học mới… Bên cạnh đó, trường chưa có phòng chức năng phục vụ cho những hoạt động ngoài giờ trên lớp. Việc thuyết phục phụ huynh cũng gặp nhiều khó khăn, vì họ còn hoài nghi về hiệu quả của mô hình VNEN và chưa thật sự tin tưởng vào khả năng tự học của học sinh”. Không riêng gì Trường Tiểu học Nhật Quang, mà trong học kỳ I của năm học 2013-2014, đa số các trường chưa có sự chuẩn bị chu đáo khi tổ chức triển khai mô hình VNEN, nên đã có những ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của giáo viên, phụ huynh và đặc biệt là học sinh. Kinh phí triển khai chậm, việc ứng dụng công nghệ thông tin, làm đồ dùng dạy học phục vụ cho giảng dạy còn hạn chế. Vì vậy, hiệu quả của mô hình VNEN không cao. Nhưng vượt qua những khó khăn ban đầu, mô hình VNEN ngày càng khẳng định được ưu điểm. Từ đó, giúp học sinh hứng thú trong học tập, phụ huynh tin tưởng vào dạy học bằng mô hình VNEN. Trong bài học có những hoạt động ứng dụng yêu cầu có sự giúp đỡ của người thân, nên phụ huynh có thể kiểm tra được kết quả học tập của học sinh. - Thầy và trò chưa thật sự hiểu: điểm nổi bật của mô hình này là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo mô hình của trường học mới, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm. “Hội đồng tự quản học sinh” là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động. - Điều đặc biệt hơn cả ở mô hình này đó là ngay ở trong lớp học đã hình thành những hoạt động gần gũi với học sinh như: Góc thiên nhiên, Góc chia sẻ, Điều em muốn nói… Thông qua những góc hoạt động này, giáo viên có thể dễ dàng nắm bắt được tâm lý của các em để có sự can thiệp, giúp đỡ kịp thời. - Trong quá trình dạy và học, từ việc việc trang trí lớp học để chúng trở thành nơi có môi trường thân thiện nhất đối với trẻ, vừa đảm bảo yếu tố thẩm mỹ nhưng phải hướng tới mục đích phục vụ các nhu cầu học tập và hoạt động mang tính xã hội của mỗi học sinh. Ngoài ra việc sắp xếp bàn ghế học sinh theo nhóm từ 4 đến 6 học sinh cũng tạo ra những thay đổi về tâm thế học tập và quan hệ tương tác giữa các học sinh. Do đó mục đích quan trong của người giáo viên là phải rèn luyện mỗi học sinh là một thầy, cô giáo cho chính bản thân mình... - Xuyên suốt quá trình giảng dạy, giáo viên cần hiểu: Khi học xong môn học này học sinh sẽ có một kiến thức cơ bản về con người và sức khoẻ, những hiện tượng cơ đơn giản trong tự nhiên và xã hội bước đầu biết tự chăm sóc bản thân và cộng đồng, có ý thức giữ gìn vệ sinh, yêu thiên nhiên, gia đình dòng họ. Học tốt môn tự nhiên và xã hội sẽ giúp các em học tốt các môn học khác. Như vậy, muốn học sinh học tốt môn Tự nhiên và Xã hội thì trước tiên giáo viên phải dạy tốt, người giáo viên ngoài kiến thức tự nhiên và xã hội phải luôn tìm hiểu, nghiên cứu cập nhật chương trình mới để trang bị cho mình vốn kiến thức dạy học mới nhằm đạt được mục tiêu chương trình mới đề ra. - Ở lớp học VNEN, ngoài giờ học môn Tự nhiên và xã hội, giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng năng lực quản lý cho các em trong hội đồng tự quản bằng cách: dặn dò các em về nhà xem trước các bài tập của tiết học hôm sau. Nếu không hiểu có thể hỏi bố mẹ hoặc trước khi học trực tiếp hỏi giáo viên, giáo viên hướng dẫn trước cho các em hiểu. Khi các em hiểu các em mới điều hành nhóm tốt và tự tin hơn. Bên cạnh đó giáo viên nhắc nhỏ hội đồng tự quản tăng cường kiểm tra việc làm bài ứng dụng ở nhà vào đầu tiết học. - Trong các hoạt động học tập đặc biệt là hoạt động thảo luận theo nhóm lớn, nhóm “đôi bạn cùng học”, nhiều nhóm chưa mạnh dạn thay đổi nhóm trưởng. Ngoài ra, những học sinh đã hoàn thành công việc rồi có thể cùng cô giúp những bạn chưa hoàn thành trong nhóm học tập. Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tăng cường bồi dưỡng năng lực quản lý cho các em nhóm trưởng. - Tuy nhiên, trong mỗi khối lớp 2 và 3 của trường tôi chỉ có hai lớp mà một lớp được áp dụng mô hình VNEN, còn lớp còn lại thì vẫn còn dạy theo phương pháp cũ. Vì vậy cả giáo viên và học sinh chưa có sự đồng nhất về cách dạy và học. Hơn nữa, về nhận thức của học sinh cũng có sự chênh lệch. 2. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy và học Tự nhiên và xã hội 3 theo mô hình VNEN: 2. 1. Về phía nhà trường: - Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo và triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản của Bộ, Sở, Phòng về đổi mới phương pháp dạy học, quản lý chặt chẽ, chỉ đạo chuyên môn sát sao. - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện động viên khuyến khích giáo viên trong công tác chuyên môn. - Nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục. 2.2. Về phía giáo viên: Thuận lợi : - Có đầy đủ sách giáo khoa. - Trong sách đã thể hiện rõ: + Các hình thức dạy học qua các lôgô cụ thể. + Kênh hình và kênh chữ đẹp và rõ ràng. + Mỗi bài học được xác định mục tiêu cụ thể. - Thời gian dạy không nhất thiết phải đúng như qui định mà giáo viên có thể linh động tùy theo tình hình lớp và bài học. - Giáo viên được học tập chuyên sâu dạy theo mô hình VNEN, được tham gia dự các chuyên đề VNEN của cụm trường. b. Khó khăn: Năm học 2013-2014 là năm đầu tiên áp dụng mô hình VNEN vào giảng dạy môn Tự nhiên xã hội ở một số trường trong huyện. Qua năm đầu tiên triển khai dạy học theo mô hình kiểu mới này, bản thân tôi nói riêng và các bạn đồng nghiệp của tôi nói chung thường gặp phải những hạn chế như: - Việc khó khăn nhất khi triển khai mô hình là nhận thức của giáo viên đang từ thói quen truyền thụ kiến thức một chiều chuyển sang tổ chức các hoạt động lấy học sinh làm trung tâm. - Một số giáo viên ban đầu còn lúng túng trong việc thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Công tác đánh giá, xếp loại, nhận xét từng học sinh cho từng bài học mất nhiều thời gian, đối tượng học sinh trong lớp thường không đồng đều, do đó trong việc hoạt động nhóm của học sinh khi đánh giá của nhóm bạn còn nhiều hạn chế cần giáo viên hỗ trợ nhiều. - Phòng học thiết kế theo tiêu chuẩn cũ, chật hẹp chưa đáp ứng được yêu cầu của phòng học kiểu mới nên khó khăn trong việc sắp xếp hoạt động nhóm và trang trí góc học tập môn tự nhiên và xã hội như thế nào cho phong phú và thu hút được học sinh. - Công tác phối kết hợp với nhà trường trong việc xây dựng các góc học tập còn khó khăn, chủ yếu vẫn là thầy, cô giáo và nhà trường phải tự làm. - Ở địa bàn nông thôn, phụ huynh học sinh ít có điều kiện giúp học sinh thực hiện hoạt động ứng dụng ( bố mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà già ) nên hiệu quả bài dạy chưa cao. - Bên cạnh đó, tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho môn học này còn thiếu; giáo viên chưa chú trọng chuẩn bị tốt tranh ảnh, đồ dùng cho một số tiết dạy khiến tiết học kém hấp dẫn, không gây được sự hứng thú cho học sinh. - Hiện tại chưa có sách hướng dẫn nên giáo viên cũng khó khăn trong việc xác định một số hình ảnh, hoặc một số đáp án đúng. Ví dụ: Bài “Lá cây có đặc điểm gì?” Ở bài tập 1: Chúng em tìm hiểu về lá cây. Quan sát các lá cây trong hình 1, giáo viên khó xác định đó là lá gì đối với lá thứ 3 trong hình 1 trang 20. - Do đặc thù dạy theo mô hình trường học mới “dạy theo nhóm”, khi phân chia nhóm giáo viên phải chia đều các đối tượng học sinh chậm tiếp thu chậm nhớ vào đều các nhóm. Vì thế trong một tiết dạy giáo viên phải đi lại thường xuyên và giảng giải nhiều cho từng cá nhân học sinh nên rất vất vả trong cả tiết dạy. - Số học sinh có đủ năng lực để làm nhóm trưởng, làm nhóm phó trong hội đồng tự quản của một lớp học thường không có nhiều. 2. 3. Về phía học sinh: a. Thuận lợi : - Học sinh có đủ sách giáo khoa, hình ảnh trong sách rất đẹp, hấp dẫn, học sinh thích học hỏi, tìm tòi, thích tìm hiểu về thế giới tự nhiên, xã hội, thế giới con người xung quanh, các em thường đặt ra các câu hỏi : tại sao lại thế? Đó là ai? như thế nào? Vì sao? Từ những ham muốn, thích thú học Tự nhiên vã xã hội các em say mê, tìm tòi để trả lời cho được các câu hỏi đó. - Học sinh có sách đầy đủ. Trong sách hướng dẫn cụ thể dễ hiểu. Ở nhà bố mẹ có thể nhìn sách hướng dẫn thêm cho các em được. b. Khó khăn: - Thời gian đầu kì I, học sinh mới làm quen với hình thức học tập theo mô hình VNEN, nên còn lúng túng, nhút nhát, chưa tự tin, chưa biết cách học và chưa tương tác được nhiều với các bạn nên hình thức tổ chức hiệu quả còn chậm, chưa áp dụng được triệt để phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của mô hình trường học mới. - Một số học sinh trong nhóm còn chưa thật sự tập trung vào việc thảo luận nhóm, vẫn còn ngồi chơi hoặc làm việc riêng. - Đối với học sinh được phân công làm nhóm trưởng nhiều em năng lực còn hạn chế, điều hành các hoạt động nhóm chưa năng động, sáng tạo còn thụ động nên nhiều lúc không biết bạn mình làm như vậy, trả lời như vậy là đúng hay sai. - Đại đa số phụ huynh học sinh chưa nắm được phương pháp hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, do vậy phần hoạt động ứng dụng về nhà của học sinh chưa được phụ huynh hỗ trợ, vì thế nhiều em đến lớp vẫn chưa hoàn thành hoạt động ứng dụng. Việc giúp đỡ trong phần ứng dụng vẫn phải phụ thuộc vào giáo viên hướng dẫn. *Tóm lại: Thực hiện mô hình VNEN vào dạy và học môn Tự nhiên xã hội 3 đảm bảo cho học sinh được rèn luyện một cách toàn diện, không chỉ học kiến thức mà cả kỹ năng sống, năng lực tự quản bản thân, tự quản tập thể của mình. Đối với học sinh, mô hình trường học mới đặt ra yêu cầu thành lập hội đồng tự quản của các lớp học, bước đầu các em đã biết làm quen nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, VNEN chú trọng phát triển năng lực tự học cho học sinh, các em sẽ có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc theo nhóm và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác khi học nhóm; được tranh luận, tự đánh giá bản thân và đánh giá các bạn. Học sinh học theo nhóm nên không có hiện tượng không tập trung như khi nghe giáo viên giảng bài, việc học sinh tự điều khiển hoạt động trong nhóm: học sinh có thói quen làm việc theo 10 bước học tập: biết đọc mục tiêu, đọc yêu cầu và tự trả lời câu hỏi, tự làm bài tập và tự đánh giá tiến độ học của mình trên phiếu, từ đó đã giúp học sinh có ý thức thể chủ động hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào thầy, cô giáo. Nhiều em học sinh đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển và có thể hướng dẫn các bạn khác học, thay cho việc tổ chức hướng dẫn của giáo viên trước đây. Học sinh tự tin hơn, linh hoạt, sáng tạo hơn trong học tập tư duy độc lập và phát hiện kiến thức mới. B - THỰC TRẠNG DẠY HỌC: I. Thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và Xã hội theo mô hình VNEN của giáo viên và học sinh khối lớp 3 Trường Tiểu học Nhật Quang. Trong thực tế giảng dạy theo mô hình trường học mới ở tiết Tự nhiên và xã hội lớp 3 nói riêng; dạy Tự nhiên và xã hội lớp 2, 3 nói chung còn gặp nhiều vấn đề khó khăn. Chính vì vậy mà bản thân tôi khi được phân công giảng dạy Tự nhiên và xã hội 3 trong thời gian này và tôi đã tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Tự nhiên và xã hội ở trường Tiểu học Nhật Quang hiện nay, tôi đã trực tiếp ra đề khảo sát chất lượng học sinh khi học về chủ đề mà các em đã học. * Đối tượng điều tra: Là những học sinh của hai lớp 3A và 3B năm học 2013 2014 của trường Tiểu học Nhật Quang. * Nội dung kiểm tra: Sau khi học sinh học xong nội dung các bài học ở phần xã hội, tôi tiến hành khảo sát chất lượng với nội dung liên quan đến chủ đề đã học. Đề bài: Câu 1: Trả lời câu hỏi: a) Trường chúng ta thường tổ chức những hoạt động nào? b) Em đã làm những công việc cụ thể nào khi đó? c) Hoạt động nào làm em nhớ nhất? d) Chúng em cần làm gì khi tham gia để các hoạt động đạt kết quả tốt? Câu 2: Kể tên một số hoạt động nông nghiệp ở tỉnh của em? Câu 3: Đánh dấu X vào ô trống trước ý thể hiện đặc điểm của đô thị và đánh dấu * vào ô trống trước ý thể hiện đặc điểm của làng quê: Người dân chủ yếu sống bằng nghề Siêu Người Nhà thị. dân thường một Nhiều Nhà nông. tầng ô ở làm việc là tô, tập ở cơ chủ xe trung quan. yếu. máy. san sát. Đồng ruộng. Xung quanh Đường phố có nhà nhiều thường người và có xe cộ vườn. đi lại. *Kết quả khảo sát chất lượng như sau: Lớp Sĩ số Hoàn tôt SL thành Hoàn thành % SL Chưa thành hoàn % SL % 3A 31 14 45,2 17 54,8 0 0 3B 29 10 34,5 19 65,5 0 0 Qua kết quả kiểm tra tôi nhận thấy chất lượng hai lớp tương đối đồng đều vì khi làm về các câu hỏi trong đề bài cô cho có liên quan đến những bài đã học, học sinh lớp VNEN gặp phải những vấn đề sau: Các em học sinh có năng lực, hoàn cảnh khác nhau nên có thể được chấp nhận tiến độ hoàn thành bài học khác nhau. học sinh có hoàn cảnh, năng lực khác nhau có thể hoàn thành bài học trước hoặc sau. Cũng bởi học sinh ở vùng nông thôn lại ít giao tiếp, trong khi giáo viên cũng ít có thời gian kèm từng học sinh yếu. Học sinh hoàn thành trước thì có thể chuyển sang các bài học mới hoặc giáo viên đặt các yêu cầu cao hơn để các em phát huy năng lực cá nhân. Khả năng tự học của học sinh chưa cao vì điều kiện để các em chưa tự tìm hiểu kiến thức trong sách và qua bài học, tài liệu. Tuy nhiên, vẫn còn một số đối tượng học sinh vì chưa lĩnh hội được kiến thức của bài học một cách đầy đủ, nên kết quả bài làm còn hạn chế. Bên cạnh đó, cũng nhìn thấy sự tiến bộ rõ rệt đối với học sinh được học theo mô hình mới đó là các em mạnh dạn và tự tin hơn trong học tập, học sinh học tập hăng hái, tích cực, kiến thức của bài học sẽ được học sinh nhớ lâu và khắc sâu hơn. Nhìn chung học sinh học tập chưa tích cực, hứng thú chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, chưa hứng thú với môn Tự nhiên và Xã hội cũng bởi vì nhiều nguyên nhân. II. Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trên là: + Từ phía giáo viên: Trong những năm vừa qua, hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng dạy theo chương trình cũ. Từ khi triển khai mô hình dạy học mới cho đến nay, một trường vẫn còn rất mơ hồ về mô hình VNEN nên hầu hết chỉ mới lên một tiết mẫu để học tập, rút kinh nghiệm. Thầy cô ít nhiều cũng lo lắng khi chuyển sang dạy phương pháp này, một phần vì chưa có kinh nghiệm, phần khác vì sách vở, đồ dùng chưa có nên giáo viên phải tự làm đồ dùng học tập cho học sinh. Trong thực tế một buổi dạy, khi chuyển sang tiết học Tự nhiên và xã hội, sự thay đổi lớn của mô hình này là sắp xếp bàn ghế theo nhóm (4-6 em/nhóm). Nội dung làm việc của từng nhóm không giống nhau, giáo viên không hướng dẫn chung mà làm việc với từng học sinh hoặc từng nhóm một. Việc đánh giá học sinh cũng đổi mới theo tiêu chuẩn VNEN, đó là bằng nhận xét, đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích học sinh. Mặc dù phương pháp dạy học mới có nhiều ưu điểm, nhưng để triển khai đại trà vẫn còn nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến việc số lượng học sinh trung bình trong một lớp học hiện nay quá đông và trình độ học sinh không đồng đều. Bên cạnh đó, sự chênh lệch về điều kiện nhân lực, cơ sở vật chất giữa các vùng miền khác nhau cũng là rào cản cho việc áp dụng phổ biến phương pháp mới. Việc dạy học theo hướng dẫn trong sách quá rập khuôn. Giáo viên rập khuôn từ việc ghi bảng, trình bày đến tổ chức các hoạt động trong lớp, học sinh thì có thao tác giống nhau. Như
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan