Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 làm tốt bài văn miêu tả trong môn tiếng việ...

Tài liệu Skkn kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 làm tốt bài văn miêu tả trong môn tiếng việt

.DOC
18
3730
106

Mô tả:

I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác. Đặc biệt, môn Tiếng Việt lại có nhiều phân môn khác nhau. Mỗi phân môn chứa những nội dung, kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau; song phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó nhất đối với học sinh Tiểu học. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ, rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình thành nhân cách con người. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi nhận thấy rất ít học sinh giỏi phân môn Tập làm văn. Tại sao học sinh giỏi Tập làm văn ít ỏi, trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết nói, năm sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết tiếng Việt ? Chúng ta đã tự hào tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn lòng những thầy cô giáo chúng tôi vì học sinh giỏi phân môn Tập làm văn còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy - học Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Qua thực tế tôi nhận thấy học sinh không biết làm một bài văn hoàn chỉnh, không biết dùng từ đặt câu, trong quá trình làm bài văn không biết dùng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa và cả biện pháp liên tưởng vào làm các bài văn miêu tả. Trong cách làm bài của học sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn. Các câu trong đoạn văn hay cả bài văn không có sự liên kết chặt chẽ, không theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy, bài văn của học sinh thường chưa đạt yêu cầu. Mặt khác học sinh chưa thích thú khi viết văn. Với những lý do trên, tôi chọn và viết đề tài Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 làm tốt bài văn miêu tả trong môn Tiếng Việt. 1 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài a) Mục tiêu - Đưa ra các biện pháp thiết thực giúp học sinh nắm được thế nào là văn miêu tả, nắm được cấu trúc bài văn miêt tả, nắm được các bước cơ bản để viết một bài văn hoàn chỉnh. - Hình thành một số kĩ năng cần thiết cho học sinh như kĩ năng quan sát, kĩ năng lập dàn ý và rèn luyện cách viết câu văn, đoạn văn hay. - Nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy - học Tiếng Việt lớp 4. b) Nhiệm vụ Để thực hiện được mục tiêu trên, tôi phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Tìm ra giải pháp giúp học sinh nắm được các bước viết một bài văn miêu tả và thực hành viết thành thạo các đề bài về miêu tả. - Tìm ra cách tạo hứng thú khi học tập làm văn đặc biệt là khi viết một bài văn miêu tả. 3. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả trong môn Tiếng Việt lớp 4. 4. Giới hạn của đề tài - Thể loại văn miêu tả trong môn Tiếng Việt lớp 4. - Học sinh lớp 4D năm học 2014 – 2015, lớp 4A năm học 2015 – 2016, trường Tiểu học Lý Tự Trọng. 5. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu; + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục; + Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm của học sinh; + Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm. 2 II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm khá nhiều thời lượng trong các thể loại Tập làm văn. Ở lớp 4 văn miêu tả có 30 tiết, chiếm khoảng 50% thời lượng toàn bộ chương trình tập làm văn. Văn miêu tả được chia thành các kiểu bài khác nhau căn cứ vào đối tượng miêu tả. Các kiểu bài miêu tả ở lớp 4 bao gồm: Tả đồ vật, tả cây cối và tả con vật. Tập làm văn là một trong những phân môn khó, mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng tiếng Việt, mà học sinh đã được hình thành và xây dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm văn là giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn bản, đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt. Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì trở nên bài văn khô khan, nghèo ý. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc...Là một giáo viên giảng dạy lớp 4, bản thân tôi luôn trăn trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này. Dạy Tập làm văn lớp 4 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của 3 Bộ GD&ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD&ĐT đã đề ra. 2. Thực trạng Từ năm học 2014 - 2015 đến nay, tôi được phân công dạy lớp 4, tôi nhận thấy học sinh lớp 4 đã được học văn miêu tả về đồ vật, cây cối, con vật nhưng kĩ năng làm văn của các em chưa tốt. - Học sinh làm bài hời hợt, chung chung; chưa miêu tả để phân biệt đối tượng được miêu tả này với đối tượng khác. - Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn. - Nhiều em không nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy tiê ên. Nhiều em chưa phân biệt từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết. - Mô êt số học sinh làm theo văn mẫu hoă êc chỉ viết theo dàn bài mà giáo viên đã hướng dẫn lâ êp. Chưa biết tích hợp các phân môn khác như : Tập đọc, Luyện từ và câu, chính tả, …vào Tập làm văn. Chưa sáng tạo trong khi dùng từ đặt câu. - Phần lớn các em mới chỉ biết miêu tả các câu văn ở mức độ đơn giản, chưa biết quan sát tinh tế, chưa biết dùng hình ảnh so sánh, nhân hoá để miêu tả nên các câu văn còn lủng củng mang tính kể nhiều hơn. - Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em còn nhiều hạn chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay. - Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn. - Chưa biết cách sử dụng câu mở đoạn nêu ý bao trùm của đoạn, câu kết đoạn, chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một bài văn rời rạc, chưa logic. - Trong khi viết, các em chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình. - Một số em có sử dụng biện pháp so sánh nhưng còn cứng nhắc, chưa phù hợp. Thực trạng trên tồn tại trong thực tế dạy học là do những nguyên nhân sau: 4 * Về phía học sinh - Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học. - Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài. - Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả. - Không biết tưởng tượng bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát. - Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó. - Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý tiếng Việt, ham thích học tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. * Về phía giáo viên - Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh để đề ra kế hoạch dạy học phù hợp. - Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt. Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện pháp a) Mục tiêu của biện pháp - Cung cấp, hướng dẫn cho học sinh biết quan sát, lập dàn ý cho bài văn, viết được bài văn theo dàn ý đã lập có đủ 3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có cảm xúc; biết nói, viết câu có dùng hình ảnh so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình bày. 5 - Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic và tư duy hình tượng, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt ở lớp 4. b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp sau đây: * Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh Sau bài kiểm tra giữa học kì I, tôi tiến hành phân loại học sinh. Căn cứ vào đó để nắm được từng đối tượng học sinh: học sinh năng khiếu, học sinh trung bình và học sinh yếu trong môn Tiếng Việt. Từ đó đề ra kế hoạch dạy học phù hợp, phát triển được năng lực viết văn miêu tả, đồng thời giúp những em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh. Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài để bài viết hay hơn. Ví dụ: Đoạn tả chú gà trống: “Con gà trống ra dáng một con gà trống oai vệ. Chú khoác bộ lông tía sặc sỡ nhiều màu sắc. Trên đầu đội chiếc mào đỏ chót. Đôi mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại. Cái đuôi cao vổng lên. Những ngón chân có móng vuốt sắc nhọn...(bài viết của em Lê Thị Thảo Nguyên - Lớp 4A) Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết dùng từ giàu hình ảnh, em cần sử dụng thêm phép nghệ thuật vào bài. Tôi hướng dẫn viết lại đoạn viết như sau: Chú gà trống ra dáng một chú gà oai vệ. Chú khoác trên mình một bộ trang phục màu tía sặc sỡ. Cái mào đỏ chót uốn cong, có nhiều ria nhọn như bông hoa mào gà. Đôi mắt sáng trong như hai hạt cườm. Cái đuôi cao vổng lên với những chiếc lông đủ màu như một cái cầu vồng trông thật đẹp mắt. Đôi chân có móng vuốt sắt nhọn là thứ vũ khí lợi hại của chú. Còn học sinh yếu, tôi hướng dẫn bước đầu học sinh viết đúng và đủ bố cục bài văn miêu tả, dùng từ ngữ phù hợp, viết đúng chính tả. 6 Ví dụ: Nhà em có nuôi một con mèo lông nó màu trắng. Hai con mắt tròn, nó có bốn chân và cái đuôi. Nó có răng sắc nhọn. Em thích con mèo này. (bài viết của em Ngô Viết Thoại- Lớp 4) Tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh viết lại đảm bảo bố cục. Trước tiên, tôi cho học sinh nhắc lại cấu tạo bài văn miêu tả con vật gồm mấy phần? (ba phần) và hệ thống cho học sinh từng phần viết như thế nào? (trình bày thành các đoạn) Chẳng hạn: Mở bài: Giới thiệu con vật ở đâu? Ai nuôi? (Nhà em nuôi được một chú mèo trông rất đáng yêu). Thân bài: Tả ngoại hình: Bộ lông thế nào?(Bộ lông màu xám tro, rất mượt), Hai mắt ra sao? (Hai mắt sáng và tinh), Tai như thế nào? (Tai vểnh lên để nghe ngóng. Mỗi khi có tiếng động nhẹ là chú phát hiện ngay), Bốn chân như thế nào? (Bốn chân thon thon và rất nhanh nhẹn, đi lại nhẹ nhàng)...... Tả hoạt động: Bắt chuột thế nào? (Sau mỗi bữa ăn là chú ngồi ngay bao thóc để rình, hễ chú chuột nào đến là mèo nhảy ra vồ ngay) Kết bài: Cảm nghĩ của em về con vật ? (Em rất thích chú mèo này. Nhờ có chú mà nhà em đã hết chuột phá hoại). * Hướng dẫn tìm hiểu cấu tạo của bài văn miêu tả Theo phân phối chương trình sách giáo khoa lớp 4 các tiết hướng dẫn viết văn miêu tả bao gồm: + Tìm hiểu cấu tạo bài văn miêu tả + Luyện tập cách quan sát + Luyện tập miêu tả + Tìm hiểu đoạn văn trong bài văn miêu tả + Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả + Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn miêu tả + Luyện tập xây dựng kết bài trong bài văn miêu tả + Thực hành viết bài văn miêu tả Trong chương trình lớp 4, học sinh được làm quen với ba cấu tạo bao gồm: Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật; miêu tả cây cối; miêu tả con vật. Tôi sẽ giúp học sinh nhận ra được điểm chung phần cấu tạo của ba bài văn trên. Bên 7 cạnh đó nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh không nhầm lẫn khi làm bài. * Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả Để các em có thể vẽ lại được cụ thể, sinh động mọi vật trong đời sống hằng ngày, các em cần phải quan sát cụ thể vật đó: Quan sát phải kết hợp sử dụng nhiều giác quan (mắt – nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay - sờ…) để thu nhận được càng nhiều chi tiết thì bài miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả; quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ tổng quát đến cụ thể rồi ghi chép lại vào sổ tay.. * Nếu tả đồ vật: Cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần của đồ vật theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong. Ví dụ: Tả chiếc cặp Quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ phận có đặc điểm nổi bật: Phía trước cặp được trang trí hình gì? Sau cặp có bộ phận gì ? (quai cặp, dây đeo). Rồi đến quan sát bên trong (cặp có mấy ngăn?), dùng mũi ngửi thấy mùi gì? Và dùng tay sờ vào từng ngăn cặp có cảm giác như thế nào ? * Nếu tả cây cối: Cần quan sát kĩ từng bộ phận; hay từng thời kì phát triển và ích lợi của cây. Ví dụ: Tả cây xoài Quan sát kĩ các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa, quả…) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng thành cho quả…) và ích lợi (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình….). Ngoài ra cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của quả xoài như thế nào ? tay sờ thấy vỏ cây, da của quả như thế nào ? Và lưỡi nếm vị của quả ra sao ?... * Nếu tả con vật: Cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi, chân, đuôi…), thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của nó. Ví dụ: Tả con gà trống Quan sát con gà to cỡ nào ? lông màu gì ? Mào ra sao ? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào ? Thói quen của gà (gáy vào sáng sớm); Hoạt động chính (tìm mồi, chọi nhau với gà khác). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh sử dụng những giác 8 quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng gáy ra sao?... Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan sát” giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở nhà). * Hướng dẫn tìm ý và lập dàn ý cho bài văn cụ thể Sau khi các em đã quan sát kĩ đối tượng miêu tả, tôi tiếp tục hướng dẫn các em cách tìm ý và lập dàn ý cho bài văn. Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy học các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả loài vật), tôi chủ động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa, cùng xây dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học. Dàn bài chung này tôi sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học sinh xây dựng dàn ý riêng cho mỗi bài văn miêu tả sau này. Dàn bài này cũng được sử dụng chung cho cả lớp trong các tiết tập làm văn có yêu cầu viết một đoạn văn hay hoàn chỉnh một bài văn. Trước tiên, tôi đã định hướng cho học đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài, xác định nội dung tả gì? Và thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với bài văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả là cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng song chúng phải có sự thống nhất về ý. * Mở bài: Giới thiệu đối tượng định miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật). Ta có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay đối tượng) hoặc mở bài gián tiếp (nói chuyện khác - liên tưởng - giới thiệu đối tượng). Ví dụ: Tả cái bàn học Chiếc bàn học này là người bạn ở trường thân thiết với tôi gần hai năm nay. (Mở bài trực tiếp - Bài làm của em Nguyễn Minh Thư) 9 Tôi rất yêu gia đình tôi, ngôi nhà của tôi. Ở đó, tôi có bố mẹ và chị gái thân thương, có những đồ vật, đồ chơi thân quen và một góc học tập dễ thương. Nổi bật trong góc học tập đó là cái bàn học xinh xắn của tôi. ( Mở bài gián tiếp Bài làm của em Đinh Trí Tuấn Kiệt) * Thân bài: + Tả đồ vật: Tả bao quát đồ vật rồi đến tả những bộ phận có đặc điểm nổi bật và nêu công dụng. + Tả cây cối: Tả từng bộ phận của cây hoặc từng thời kì phát triển của cây và ích lợi của cây. + Tả con vật: Tả ngoại hình rồi đến thói quen sinh hoạt của con vật và hoạt động chính của con vật. Phần thân bài chính là phần trọng tâm của một bài văn. Một bài văn có phần mở đầu và kết thúc hấp dẫn nhưng phần thân bài sáo rỗng, hời hợt, không giải quyết được đầy đủ các yêu cầu được đặt ra ở phần đề bài thì chưa phải là một bài văn hay. Để khắc phục khuyết điểm này, khi lập dàn ý của bài văn, chúng ta cần tách phần thân bài thành các ý lớn cho đầy đủ, rồi từ các ý đó, viết thành các đoạn văn hoàn chỉnh * Kết bài: Nêu cảm nghĩ, ấn tượng, tình cảm của mình với đối tượng miêu tả. Nếu như phần mở bài giống như một lời mời chào thì phần kết bài giống như lời hứa hẹn phải thật tình cảm và chân thành. Muốn vậy, khi viết phần kết bài, giáo viên hướng dẫn học sinh viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn điệu, tẻ nhạt và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày ở phần thân bài. Vì vậy cần khép bài một cách khéo léo để nó đọng lại và mở ra trong lòng người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà chúng ta đã miêu tả, đã vẽ ra trong bài văn của mình. Ta có thể dùng hai cách kết bài: Kết bài không mở rộng (Cho biết kết thúc, không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận). Ví dụ: Tả cái trống trường Nhờ có anh trống mà giúp cho chúng em thực hiện ra vào lớp đúng giờ. Khi hết giờ, chúng em tạm biệt anh trống để ra về. (Kết bài không mở rộng) 10 Tiếng trống là nhịp đập thời gian của trường em. Tiếng trống là hiệu lệnh hoạt động cho tất cả thầy trò trong trường. Theo nhịp trống, chúng em xếp hàng. Theo nhịp trống, chúng em vào lớp,...Mai đây, em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào, song tiếng trống trường sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm trí em cùng với những kí ức đẹp đẽ của tuổi học trò. (Kết bài mở rộng) Ví dụ: Tả đồ chơi em thích Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và hướng dẫn một số câu hỏi: Đề bài yêu cầu gì ? Em chọn đồ chơi nào để tả ? đồ chơi ấy có đặc điểm gì ? Từ đó học sinh bám vào yêu cầu đề, huy động vốn từ và dựa vào kết quả quan sát được, lựa chọn những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng và đầy đủ. Dàn ý: * Mở bài: Gấu bông là con vật em yêu thích. * Thân bài: - Hình dáng không to lắm, gấu luôn ngồi, dáng người tròn, hai tay trước bụng. - Bộ lông: màu trắng pha hồng rất xinh xắn - Hai mắt: đen láy, trông như mắt thật rất nghịch và thông minh - Mũi: màu đen nhỏ, trông như chiếc cúc áo - Trên cổ: thắt một cái nơ đỏ trông thật đáng yêu - Hai tai: cụp xuống trông rất ngộ nghĩnh. * Kết bài: Em rất yêu thích gấu bông và em giữ gìn nó cẩn thận. * Mở rộng vốn từ ngữ và lựa chọn từ ngữ miêu tả Để giúp học sinh viết văn miêu tả tốt, đòi hỏi phải trang bị cho các em có vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ, nhận biết từ phổ thông, từ địa phương, từ cùng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ nhiều màu sắc biểu cảm…Để đáp ứng được nhu cầu như vậy, tôi đã giúp cho học sinh tích lũy vốn từ và biết lựa chọn từ miêu tả phù hợp. Khi dạy các bài Tập đọc, giúp cho học sinh hiểu nghĩa một số từ có trong bài, học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của bài đó và cảm nhận được cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh của mỗi tác giả. Ví dụ: Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” tôi chỉ cho học sinh thấy, tác giả sử dụng câu văn miêu tả đôi giày: “Cổ giày ôm sát chân. Thân giày làm bằng vài cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời những ngày thu”. Tác giả đã 11 dùng từ ngữ giàu hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật so sánh để tô thêm vẻ đẹp cho đôi giày. Ví dụ: Bài Con chuồn chuồn nước tác giả đã sử dụng câu văn miêu tả con chuồn chuồn: “Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân”. Tác giả đã sử dung hình ảnh so sánh để miêu tả chú chuồn chuồn một cách sinh động, hấp dẫn. Không những phân môn Tập đọc mà còn các phân môn khác như Luyện từ và câu cũng giúp cho học sinh mở rộng vốn từ cho mình như các bài: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm, các em cũng lĩnh hội thêm được một ít từ ngữ và phân môn Mĩ thuật cũng giúp cho học sinh rèn kĩ năng quan sát và trí tưởng tượng phong phú…và một số phân môn khác nữa (Kể chuyện, Khoa học…) Bên một cạnh đó, học sinh đọc các bài tham khảo cần phải biết học tập cách miêu tả và chọn lọc số từ ngữ miêu tả. Từ đó học sinh bổ sung được vốn từ ngữ cho mình. Đặc biệt là học sinh tích lũy vốn từ qua thực tế cuộc sống hằng ngày ví dụ như nghe và ghi nhớ tiếng kêu của con mèo (meo…meo), Tiếng gáy của con gà (ò..ó..o), tiếng sủa của con chó (gâu..gâu) … Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. Ví dụ: Tả cây cối Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt.... Tả con vật Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn là vũ khí tự vệ và rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ... Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng. 12 Ví dụ: Thân bút màu xanh lá cây, thon thả như búp cây. (Sử dụng hình ảnh so sánh không phù hợp). Sửa lại: Thân bút màu xanh lá cây, thon nhỏ như ngón tay em. Ví dụ: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ mềm mềm. (Sử dụng từ không phù hợp). Sửa lại: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ đều đặn, mềm mại. * Hướng dẫn sử dụng nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc Để giúp cho học sinh làm được bài văn hay hơn, sinh động hơn, lôi cuốn người đọc, tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa vào bài; đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình để thấy đồ vật, con vật, cây cối thân thiết và gần gũi với mình hơn. Để học sinh vận dụng được, tôi giúp các em tìm hiểu kĩ tiết Luyện tập miêu tả các bộ phận, tổ chức cho học sinh trình bày, luyện cho học sinh nói, viết những câu có hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình. Ví dụ: Miêu tả về thói quen của con chó: “Bữa nào chú cũng được ăn cơm. Chú thật hốc ăn. Chú chỉ xốc hai miếng là hết bát cơm to, lại ngẩn ngơ liếm mép. Bữa bữa, chú nhìn chăm chú mọi người ăn cơm, cái đầu cứ lắc lắc theo từng đôi đũa khi mọi người gắp thức ăn. Trông chú như đang đói và thèm ăn lắm”. (Bài làm của em Nguyễn Thị Vân Anh). Ví dụ : Tả ngoại hình con mèo: “Lông mèo mượt như tơ. Đầu nó tròn bên trên có hai cái tai dựng đứng, hết quay phía này lại quay phía khác để nghe ngóng. Hai con mắt nó mới sáng làm sao, ở ngoài sáng mắt xanh biếc, trong đêm tối mắt nó lấp lánh như ánh lửa”. * Nhận xét, đánh giá và chữa bài Mỗi dạng bài đều có một tiết trả bài văn viết, tiết này rất quan trọng nhằm giúp các em thấy được ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau, tìm ra cách sửa sai để cùng tiến bộ và qua đó tôi biết được học sinh hiểu bài và vận dụng thế nào. + Đánh giá, nhận xét: Tôi tiến hành chấm bài thật kĩ, xác định học sinh làm đúng bố cục hay chưa? và bố cục có chặt chẽ không? Tôi phát hiện những ưu điểm của bài văn hay, câu hay, ý hay, dùng từ sáng tạo…và nắm được những 13 lỗi mắc phải còn tồn tại: dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn chỉnh, lặp từ, lặp ý…Tôi đánh giá, nhận xét cụ thể vào từng bài của học sinh. Chẳng hạn có những nhận xét như sau : - Bố cục chặt chẽ, lời văn súc tích, có nhiều hình ảnh hay trong bài. Em cần phát huy thêm. (học sinh năng khiếu) - Đảm bảo bố cục, viết thành câu. Em cần sử dụng phép so sánh, nhân hóa vào bài để bài văn hay hơn. (học sinh trung bình) - Bài viết còn lủng củng, còn sai lỗi chính tả, viết chưa thành câu. Em cần chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại đúng em nhé. (học sinh yếu) - Bố cục chưa rõ ràng, dùng từ ngữ chưa phù hợp, diễn đạt còn lủng củng. Em cần chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại cho đúng. (học sinh yếu) Trong quá trình đánh giá, tôi chọn bài tiêu biểu của lớp và các bài văn hay năm trước đọc cho học sinh nghe và phân tích những điểm hay để học sinh học tập. + Chữa bài: Hướng dẫn cho học sinh chữa lỗi về dùng từ và sai chính tả, lỗi về câu, lỗi về diễn đạt. c) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các biện pháp có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Nếu thực hiện tốt biện pháp đầu sẽ góp phần vào thành công của biện pháp tiếp theo. Nhằm mục đích cao nhất là nâng cao chất lượng dạy học của lớp tôi chủ nhiệm. Chính vì vậy theo tôi không có giải pháp hay biện pháp nào là tối ưu, vì vậy giáo viên cần kết hợp các giải pháp, biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp mình để giảng dạy đem lại hiệu quả cao. d) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu - Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học làm văn. Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. - Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn 14 đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa. - Giờ học tập làm văn diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái đối với các em. Không khí lớp học luôn luôn sôi nổi, chất lượng giờ học đảm bảo. - Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. Thể hiện qua bảng thống kê sau: Năm học Tổng số HS Điểm dưới 5 Điểm 5, 6 Điểm 7, 8 Điểm 9, 10 SL % SL % SL % SL % 2014 30 -2015 1 3.3 7 23.3 12 40.0 10 33.4 2015 28 -2016 0 0 8 28.6 11 39.3 9 32.1 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ cho trẻ và hình thành cơ bản ban đầu nhân cách con người. Đặc biệt môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng, nó hình thành khả năng giao tiếp và phát triển tư duy cho học sinh. Như vậy, mục đích của việc dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 là giúp cho học sinh viết thành bài văn hoàn chỉnh, lời văn gãy gọn, bố cục rõ ràng, súc tích, diễn đạt có hình ảnh, sinh động và gợi cảm và yêu thích làm văn. Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi giáo viên phải sử dụng phương pháp linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp và luôn tuân theo nguyên tắc từ đơn giản đến nâng cao, quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên luôn động viên khuyến khích, biểu dương sự tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ, luôn tạo niềm vui trong học tập. Mỗi tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên tránh áp đặt và tạo tâm thế học tập cho các em. Với những biện pháp đề ra cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, quyết tâm khắc phục những khó khăn trong giảng dạy và rèn luyện cho học sinh ngày học tập tốt hơn. 15 Đây là những kinh nghiệm bản thân tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy của mình. Với những suy nghĩ và giải pháp nêu trên trong những năm qua ít nhiều cũng đã giúp tôi dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 4. 2. Kiến nghị - Nhà trường trang bị nhiều sách tham khảo về phân môn Tập làm văn để giáo viên và học sinh tham khảo. - Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề về cách xây dựng dàn bài tập làm văn miêu tả để giáo viên có thể trao đổi lẫn nhau. Buôn Trấp, ngày 14 tháng 3 năm 2017 Người viết Hoàng Thị Loan TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả 16 01 Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 - Tập 1B NXB Giáo dục 02 Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 - Tập 2A NXB Giáo dục 03 Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 - Tập 2B NXB Giáo dục 04 Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - t 1 NXB Giáo dục 05 Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - tập 2 NXB Giáo dục 06 Luyện tập làm văn 4 NXB Giáo dục 07 NXB Đại học sư phạm Những bài văn mẫu Hà Nội MỤC LỤC Tên nội dung Trang I. Phần mở đầu 17 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Giới hạn của đề tài 5. Phương pháp nghiên cứu II. Phần nội dung 1.Cơ sở lí luận 2. Thực trạng 3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện a. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp * Tìm hiểu phân loại đối tượng học sinh * Hướng dẫn tìm hiểu cấu tạo bài văn miêu tả * Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả * Hướng dẫn tìm ý và lập dàn ý cho bài văn cụ thể * Mở rộng vốn từ và lựa chọn từ ngữ miêu tả * Hướng dẫn sử dụng biên pháp nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc * Nhận xét, đánh giá và chữa bài c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu III. Phần kết luận, kiến nghị 1. Kết luận 2. Kiến nghị Tài liệu tham khảo 1 2 2 2 2 3 4 5 5 6 6 7 8 9 11 13 13 14 14 15 16 17 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan