Một số biện pháp đổi mới phương pháp
dạy môn Tập làm văn miêu tả ở lớp 4
I/ Lý do chọn đề tài
Môn tập làm văn là một môn học chính trong chương trình lớp 4, bản thân tôi
đang là giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, đón nhận chương trình thay đổi
kỹ năng sống vào môn tập làm văn, môn đạo đức, khoa học, nên bản thân cần
phải nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình đối với học sinh . Nhìn từ
phía khoa học và công nghệ thì đây là thời đại văn minh thông tin với nền kinh tế
dựa trên tri thức. Thời đại văn minh mới này là một bước phát triển vượt bậc so
với thời đại văn minh nông nghiệp với nền kinh tế dựa trên khoáng sản là chính.
Những đặc điểm chủ yếu của thời đại văn minh thông tin có thể tóm tắt trong bốn
yếu tố: Thông tin- Tri thức trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Khoa học- Công
nghệ trở thành lực lượng sản xuất và trực tiếp. Hàm lượng trí tuệ trong từng sản
phẩm ngày càng tăng và cuối cùng là máy tính cá nhân và Internet là phương tiện
lao động phổ biến nhất và có hiệu quả nhất.
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói,
đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi,
thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết
sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước
ngoài.
Học Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần
thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của
xã hội. Cùng với môn Toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng
Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu,
nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong
đó phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt (tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện). Chính
vì thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể
cứ áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
II/ Cơ sở thực tiễn
- Đổi mới việc dạy cũng thế, trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là
một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng.
Còn với phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung
nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. Còn
việc học thì sao? Ngoài SGK Tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham
khảo cho học sinh, giúp cho học sinh có cái nhìn đa dang, phong phú hơn. Song
những cuốn sách tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài
văn mẫu hoàn chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có
khi còn sao chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách
nghĩ của các em không phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Từ
những lý do khách quan và chủ quan trên để khắc phục những hạn chế trong việc
dạy Tập làm văn ở Tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà
trường, tôi đã chọn nghiên cứu dề tài: "Một số biện pháp đổi mới phương pháp
dạy môn Tập làm văn miêu tả ở lớp 4".
phần Nội dung
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối
tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp
của mình. Văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang
tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn
ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ giầu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp
tu từ.
Kết cấu bài văn miêu tả cũng tuân thủ kết cấu 3 phần:
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người
miêu tả với đối tượng miêu tả.
+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc
nhìn nhất định.
+ Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người
miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Như vậy, bài văn là một văn bản gồm ngôn từ, nội dung chứa trong ngôn từ chính
là văn. Văn và ngữ luôn sóng đôi với nhau: văn cần đến ngữ để biểu hiện, ngữ cần
đến văn để nói nên ý nghĩa. Văn là nghệ thuật của ngôn từ, văn là cái đẹp, có
người lại nói văn học là nhân học, văn học là tình cảm, đạo đức lý tưởng, là tình
yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Văn có được nhờ cảm xúc của tâm
hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu sắc.
Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 68 tiết, trong đó văn miêu tả chiếm 38 tiết
gồm các mảng kiến thức sau:
- Thế nào là miêu tả?
- Quan sát để miêu tả cho sinh động.
- Trình tự miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối ).
- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối)
Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai loại bài. Đó là, loại bài hình thành
kiến thức và loại bài luyện tập thực hành.
I/ Thực trạng việc dạy Tập làm văn - Thể loại văn miêu tả lớp 4.
1/ Tình hình chất lượng học tập môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn
của học sinh.
Chương trình phân môn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu tả, nhìn
chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của các
em còn viết theo một khối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình
ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp nghệ
thuật như so sánh, nhân hóa….
Tóm lại: Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn luyện từ và câu
nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên, kết hợp với
việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn
miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành
một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Kết quả cụ thể như sau:
Điểm giỏi
Lớp
Điểm TB
Điểm dưới TB
Số HS
SL
4B
Điểm khá
23
2
TL%
8,7%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
7
30,4%
12
52,2%
2
8,7%
Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc dạy học làm
văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tôi thấy cần thiết để có những biện pháp sáng tạo
trong văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học.
II/ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả lớp 4.
1- Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó tìm ra
hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp:
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm
hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát,
cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là
quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các
em có cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả.
ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu
của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu được phải được sắp
xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì
việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu cảm
xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn
nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc
động và luôn hướng tới cái thiện.
2- Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay từ tiết
đầu tiên của thể loại bài này.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng
nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự
nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được
cái riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với
cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự
sáng tạo của ngườu viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết
"bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn
nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng, thói già
trước tuổi.
Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử
dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, đây
là một trong những miêu tả trong sinh học, địa lý… và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần đi
và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ, sẽ
gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của
các em sẽ tốt hơn.
3- Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các biện
pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết.
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ phong
phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp, Chính vì vậy giáo
viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và câu và cả
trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh
hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một
từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn
có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học
sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những
từ biểu lộ tình cảm.
* Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc.
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu hỏi của bạn? Học sinh có thể nhận
xét: bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng
ngọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi của
chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn và
nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon dài
mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo nhưng
những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi
cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh
động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
4- Tập làm văn và phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn
thuộc môn Tiếng Việt , vì vậy muốn dạy tốt tập làm văn cần dạy tốt
Ví dụ: Khi học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu
này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để
giới thiệu hoặc nêu nhận định về một con người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không một
phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ viết. Vì
vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh
trong các giờ chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và
trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết cho
học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng sản
sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp
học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập
cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Tóm lại các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung riêng,
phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà luôn bổ
sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn
khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân
môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn lại.
5- Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu hút
người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà
người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn
mở bài và kết bài là rất cần thiết.
- Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực
tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo
cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với
khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần
nói tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát
vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm ra. Giáo viên có thể cho
học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó
cho các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:''Hè vừa
rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm
của gia đình em, nay đã được bốn tháng."
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào?( trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:" Nhà
em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác
cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu
nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như sau:
"ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tuổi. Cả làng gọi
đó là cây đa ông Đài , vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là ai, sống
và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả."
Học sinh khác lại viết:"Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải qua một
cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã nhìn thấy làng
quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về, em
cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy chào, đón đợi."
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở bài
một cách hợp lý nhất.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với
đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình
làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường
làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp
dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm
phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua
những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được
những kết bài hay.
ê"Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của dòng đời.
Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bên đò, hoặc đi xa về, ngắm nhìn ba cây
gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là tình quê vơi đầy."
Văn chương không phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải thấm
đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải thứ gò ép bắt buộc, tình
cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em. Bài văn
không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần
kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý
rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên
tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn,
tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
6- Chuẩn bị kỹ càng phần củng cố bài trong các tiết tập làm văn:
Củng cố bài là phần chiếm không nhiều thời gian trong cả tiết học nhưng lại là lúc
giáo viên tóm tắt toàn bộ nội dung kiến thức của bài và mở ra hướng kiến thức
mới cho tiết học sau, vì vậy cần chú ý ở phần củng cố bài hấp dẫn, thu hút được sự
chú ý của các em.
- Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc
độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em nên ở phần củng cố
bài, giáo viên không nên đưa ra những bài văn mẫu hoàn chỉnh làm các em bắt
trước, sao chép, dễ tạo cho các em cách làm văn sáo rỗng, na ná như nhau mà nên
đưa ra những đoạn văn miêu tả những tác giả khác nhau. Cùng trong một tiết học,
có thể đưa ra nhiều đoạn văn miêu tả toàn diện, phong phú hơn và từ đó các em sẽ
biết chắt lọc, tìm tòi những chi tiết đặc sắc, học tập được các câu, các từ hay, cách
diễn đạt hợp lý cho bài làm của mình.
Chẳng hạn, trong tiết luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật, phần củng cố
bài, giáo viên có thể đọc cho các em nghe một vài đoạn như sau:
"Con Rô sạch sẽ lắm. Mỗi lần mẹ gọi : "Rô đi tắm" là nó vẫy đuôi chạy theo,
ngoan ngoãn như một đứa bé được nuông chiều. Thân hình nó không hề có một
con bọ, con rận nào cả. Không biết mẹ dạy con Rô từ bao giờ mà nó biết đi vệ
sinh vào một chỗ phía sau nhà. Nó rất ý tứ. Mỗi khi có khách đến chơi nhà nó
nằm im trên tấm đệm, đôi tai vểnh lên nghe bố mẹ và khách nói chuyện. Khách
đứng dậy ra về, con Rô cũng theo bố mẹ đi ra cửa như để tiễn chân khách…
Các đoạn văn đưa ra cũng không nên quá dài hay quá ngắn vì nếu dài quá học sinh
sẽ khó tiếp thu, ngắn quá sẽ không đảm bảo nội dung. Đặc biệt đoạn văn phải
được diễn đạt mạch lạc đúng cấu trúc ngữ pháp, lời văn giản dị, câu văn giàu hình
ảnh và phải mang tính mẫu mực cả về nội dung và hình thức.
- Khi đưa ra các đoạn văn mẫu cần phải phân tích, đánh giá để học sinh thấy được
cái hay, cái đẹp trong từng đoạn văn, giúp học sinh nhận rõ nội dung miêu tả, sự
khác biệt trong miêu tả và nét đặc sắc trong hành văn.
Ví dụ: Đọc cho học sinh nghe đoạn văn " Những cánh bướm trên bờ sông" :
"Ngoài giờ học, chúng tôi tha thẩn ở bờ sông bắt bướm. Chao ôi, những con bướm
đủ màu sắc, đủ hình dáng. Con xanh biếc pha đen như nhung, bay nhanh loang
loáng. Con vàng sẫm nhiều hình mặt nguyệt, ven cánh có răng cưa, lượn lờ đờ
như trôi trong nắng. Con bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, mầu nâu xỉn,
có hình đôi mắt tròn, vẻ dữ tợn. Bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng.
Loại bướm nhỏ đen kịt, là là theo chiều gió hệt như tàn than của những đám đốt
hương…"
Phân tích: Đoạn văn ngắn gọn nhưng đã miêu tả khá sinh động vô số loài bướm.
Hình ảnh những chú bướm hiện lên qua con mắt của mấy cậu học trò vốn say mê
với thiên nhiên. Một từ tha thẩn miêu tả các cậu ra bờ sông bắt bướm, một từ chao
ôi diễn tả cảm xúc mạnh mẽ trong lòng các cậu đến bật thành tiếng kêu chứng tỏ
sự kinh ngạc và lòng say mê của các cậu học trò đến tột độ, tạo nền cho bài miêu
tả, tạo nền cho hình ảnh những cánh bướm xuất hiện. Liên tiếp sau đó, mỗi câu
văn được tác giả dùng để nói tới một con bướm. Mỗi con bướm lại tả bằng các
tính từ, các hình ảnh so sánh gợi tả vẻ đẹp đầy hấp dẫn: Đen như nhung, loang
loáng, vàng sẫm, lượn lờ đờ như trôi trong nắng, líu ríu như hoa nắng…Tác giả đã
khéo chọn những hình ảnh mới mẻ, độc đáo để so sánh làm nổi bật dáng bay của
từng loại bướm. Nó làm nên vẻ đẹp hấp dẫn riêng của đoạn văn miêu tả này.
Việc đưa ra đoạn văn mẫu cùng với lời phân tích rõ ràng như vậy sẽ giúp học sinh
hình dung ra đối tượng miêu tả một cách cụ thể, sinh động hơn, giúp học sinh vận
dụng cách dùng từ đặt câu vào bài viết của mình.
7- Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc
nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế
hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra
đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra
đánh giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các
khâu trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể
biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho
những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài thường
dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy cần
được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác
dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả
bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích giúp
học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả
lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp,
diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học sinh có thể học
hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài
không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã
hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán.
Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học sinh theo từng
loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước.
Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn
để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu
hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm
trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của
mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh
được những lỗi không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng
ngày.
8- Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học góp phần làm nên 50% sự thành công trong
dạy học:
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị cũng
chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất yếu
của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên, Bài
soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết thực,
đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực, phẩm
chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học sinh,
năng lực ngôn ngữ…lòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lòng đam mê nghề
nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức của sách vở
đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được thực hiện hoá
qua bài giảng trên lớp chứ không thể là giấy vô tri, vô giác chỉ để giám hiệu ký
duyệt cho "đủ thủ tục"
Mỗi giáo viên cần nhận xét sâu sắc tầm quan trọng của việc chuẩn bị kế hoạch bài
học trước khi lên lớp, kế hoạch ấy có thể được ghi chép lại cẩn thận trong giáo án,
cũng có thể là tự suy nghĩ sắp xếp trong trí óc miễn là nó phải được thực hiện một
cách nghiêm túc và hết sức tự giác. Có kế hoạch bài giảng chu đáo tức là giáo viên
đã chuẩn bị tốt mọi nội dung thực hiện trên lớp, từ tiết lý thuyết đến các tiết thực
hành xây dựng đoạn văn và tiết trả bài, từ phần kiểm tra bài cũ đến phần củng cố
bài học. Như vậy giáo viên có thể thực hiện được bảy biện pháp trên một cách dễ
dàng và chất lượng dạy học chắc chắn sẽ được nâng cao.
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra các giai đoạn của việc soạn
giáo án một bài cụ thể như sau:
¡ Giai đoạn 1: Xác định mục tiêu bài học
¡ Giai đoạn 2: Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
¡ Giai đoạn 3:Lựa chọn phương pháp dạy học
¡ Giai đoạn 4: Thiết kế các hoạt động dạy học
Muốn có đầy đủ thông tin và kiến thức cho một bài giảng, thực hiện được tốt các
giai đoạn trên, người giáo viên cần không ngừng học tập nâng cao trình độ, tham
gia đủ các lớp học chuyên môn, các buổi hội thảo do nhà trường và các cấp quản
lý triển khai, chịu khó sưu tầm các loại sách vở liên quan đến chuyên môn, tự lập
cho mình tủ sách riêng để tiện tra cứu khi cần thiết. Đặc biệt trong thời đại mà
khoa học công nghệ thông tin đã phát triển mạnh mẽ, người giáo viên hơn ai hết
phải là người đi đầu trong việc tự học tập để tiếp thu khoa học công nghệ thông tin
hiện đại ấy. Việc tra cứu tìm tư liệu trên mạng cũng rất đơn giản, lại không tốn
kém đáng kể về kinh tế, ngoài giờ lên lớp, mỗi ngày ta có thể dành một thời giờ để
lên mạng tìm những thông tin cần thiết cho các bài giảng, như vậy vốn kiến thức
của chúng ta sẽ phong phú lên rất nhiều và bài giảng chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn,
nhất là với việc dạy văn miêu tả thì điều này lại càng cần thiết.
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc thực hiện
lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè đồng
nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về
chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn.
Mỗi buổi có thể trao đổi về một chủ đề, về một tiết tập làm văn nào đó, có thể cả
tổ xây dựng mỗi tiết một giáo án mẫu sau đó về nhà mỗi người sẽ tuỳ thuộc vào
đối tượng học sinh lớp mình mà cụ thể hoá thành kế hoạch của riêng mình. Như
vậy sẽ phát huy được sức mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được từ
đồng nghiệp rất nhiều.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát triển
của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn
mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một
dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với niềm
say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước
khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng,
phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh.
Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ
học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm
mẫu cho học sinh. Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá trình
dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn
miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo mới trong dạy tập
làm văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự kiệt kê các chi tiết
của đối tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
III/ Kết quả
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4B kết quả cụ thể
như sau:
Số học
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm < 5
Lớp
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4B
23
5
21,7%
10
43,5%
7
30,4
1
4,4%
Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình
ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân
thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng
miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná
như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm văn thì
kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ được
áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 5, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn
miêu tả ở lớp 2, 3,4 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả
quan hơn rất nhiều.
PHần Kết luận
I/ Kết luận:
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi mới
chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong công
cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất lượng dạy học
là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục từ nay
đến 2010. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội
ngũ giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng
- Xem thêm -